Tải bản đầy đủ (.doc) (165 trang)

GIÁO dục ý THỨC bảo vệ môi TRƯỜNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG sư PHẠM đà lạt THÔNG QUA tổ CHỨC các HOẠT ĐỘNG CỘNG ĐỒNG copy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 165 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐOÀN THỊ KIM NGÂN

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM ĐÀ LẠT
THÔNG QUA TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG CỘNG ĐỒNG

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS Hoàng Anh Phước

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả
nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn

Đoàn Thị Kim Ngân


LỜI CẢM ƠN


Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ của các thầy cô, đồng nghiệp và bạn bè cùng khóa học. Với
lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban Giám hiệu, Ban lãnh đạo, cùng toàn thể giảng viên phòng Sau đại học,
Khoa Tâm lí Giáo dục của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Hoàng Anh Phước đã hết
lòng hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Ban Giám hiệu Trường CĐSP Đà và đồng nghiệp những người đã không
ngừng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập và
thực hiện luận văn. Cán bộ UBND phường 10, cán bộ khu phố và các bạn sinh viên
K41 và K42 đã hỗ trợ tôi trong quá trình khảo sát thông tin.
Xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn đã cho tôi
những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Cuối cùng tôi xin kính chúc quý Thầy Cô luôn dồi dào sức khỏe để tiếp tục
thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn

Đoàn Thị Kim Ngân


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................................................3


DANH MỤC BẢNG
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................................................3
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................................................3



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT

Cụm từ viết tắt

Ý nghĩa từ viết tắt

1

BVMT

Biến đổi khí hậu

2

HĐCĐ

Hoạt động cộng đồng

3

GDMT

Giáo dục môi trường

4


ĐDSH

Đa dạng sinh học

5



Cao đẳng

6

ĐH

Đại học

7

CLB

Câu lạc bộ

8

CĐSP

Cao đẳng sư phạm

9


TC-CB-HSSV

Tổ chức- Cán bộ-Học sinh, sinh viên

10

HC-TH

Hành chính - Tổng hợp

11

TX

Thường xuyên

12

TT

Thỉnh thoảng

13

MT

Môi trường

14


CBQL

Cán bộ quản lý

15

CBĐP

Cán bộ địa phương

16

TNCS

Thanh niên cộng sản

17

GV

Giáo viên

18

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

19


HS

Học sinh

20

SV

Sinh viên


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, giảm thiểu ô nhiễm môi trường là
một trong những vấn đề cấp bách hiện nay mà một quốc gia không thể tự mình giải
quyết được mà cần có sự liên kết toàn cầu.
Nhận thấy vấn đề biến đổi khí hậu không phải là vấn để của một quốc gia mà là
vấn đề toàn cầu nên lần đầu tiên Liên hiệp quốc đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh về
biến đổi khí hậu (COP 1) tại Berlin Đức vào tháng 4 năm 1995. Gần đây nhất, tháng
11 năm 2018 hội nghị thượng đỉnh của Liên hiệp quốc về biến đổi khi hậu (COP 24)
tại thành phố Katowice Ba Lan. Sau 24 lần tổ chức hội nghị thượng đỉnh, mặc dù
còn nhiều vấn đề chưa đồng thuận, nhưng Liên hiệp quốc đã cho thấy cộng đồng thế
giới chung tay giải quyết vấn để biến đổi khí hậu. Đây là hành động chung của cộng
đồng nhân loại vì một trái đất xanh.
Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu,
những tác động của biến đổi khi hậu đã và đang gây ra những thiệt hại nặng nề về
tài sản, tính mạng và cuộc sống của người dân ở những vùng chịu tác động của biến
đổi khí hậu.
Ô nhiễm môi trường cũng đang là vấn đề cấp bách diễn ra ở khắp nơi, cả nông
thôn, thành thị, miền núi, miền biển, cả nguồn nước và không khí…. Theo nghiên

cứu của các tổ chức bảo vệ môi trường (viết tắt: BVMT) ở nước ta 70% các dòng
sông, 45% vùng ngập nước, 40% các bãi biển đã bị ô nhiễm, hủy hoại về môi
trường; 70% các làng nghề ở nông thôn đang bị ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Cùng với đó, tình trạng nước biển xâm nhập vào đất liền; đất trống, đồi núi trọc và
sự suy thoái các nguồn gen động thực vật đang có chiều hướng gia tăng là hậu quả
của việc hủy hoại môi trường.
Ở TP Đà Lạt - TP du lịch và nghỉ dưỡng, tình hình ô nhiễm môi trường cũng còn
những hạn chế, rác thải sinh hoạt sau những đợt nghỉ lễ, tết, nghỉ hè do du khách xả
thải ra môi trường tăng đột biến làm cho công tác thu gom rác thải sinh hoạt bị dồn
ứ, những điểm tập kết rác thải bố trí chưa hợp lý, ý thức BVMT của người dân chưa
thực sự đồng đều trong việc thu gom rác, bỏ rác đúng giờ, đúng chỗ, gây mất vệ
sinh và mỹ quan thành phố. Nước Hồ Xuân Hương - một thắng cảnh làm nên
thương hiệu Đà Lạt - cũng đang bị ô nhiễm bởi rác thải bao bì thuốc bảo vệ thực vật
từ các trang trại đầu nguồn nước của hồ.
Tình hình trên đều do lỗi chủ quan của con người, đó là ý thức BVMT của mỗi
người dân, các nhà sản xuất, của cơ quan quản lý nhà nước, nói chung là của cộng
đồng chưa cao.

1


Trong khi đó Đảng và Nhà nước rất chú trọng đến vấn đề BVMT, các tổ chức,
đoàn thể, cơ quan luôn xem BVMT như là một nhiệm vụ của mình, nhà trường từ
bậc Mầm non đến giáo dục Đại học cũng luôn quan tâm giáo dục ý thức BVMT cho
HS-SV.
Tuy nhiên những cố gắng đó chưa đủ mạnh để ngăn chặn ô nhiễm môi trường,
góp phần chống biến đổi khí hậu.
Công tác giáo dục ý thức BVMT trong các nhà trường đã có những kết quả tốt.
HS-SV đã có ý thức BVMT, đã có những hoạt động BVMT. Trong các nhà trường,
phong trào gìn giữ, tôn tạo ngôi trường xanh sạch đẹp đã mang lại những diện mạo

mới cho các trường học. HS-SV đã có những ý thức và hành động tự giác BVMT
trong khuôn khổ nhà trường và các hoạt động của nhà trường.
Tuy nhiên, cũng chính những HS-SV này khi tham gia vào đời sống xã hội, thoát
ly khỏi môi trường nhà trường thì ý thức BVMT đã suy giảm, thậm chí còn có
những hành động gây ô nhiễm môi trường.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tinh trạng này là ý thức BVMT, hành vi
BVMT của từng người, hành động BVMT của các tổ chức, cơ quan còn rời rạc, nó
chưa được lan toả đế biến thành sức mạnh của cộng đồng (địa phương, vùng, quốc
gia) chung tay BVMT.
Đối với SV trường Cao đẳng sư phạm Đà Lạt, giáo dục ý thức BVMT cho SV là
một nội dung giáo dục của nhà trường, đồng thời cũng là một nội dung hoạt động
của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên của trường. Vì thế hình thành được ý thức
BVMT cho sinh viên SV, nó được thể hiện trong việc gìn giữ cảnh quan trường học,
đảm bảo vệ sinh học đường, đảm bảo khu ký túc xá sạch sẽ và ngăn nắp. Tuy nhiên,
ý thức BVMT của SV mới chỉ hình thành ở cấp độ ý thức cá nhân, hoặc ý thức tự
giác BVMT có điều kiện khi sống trong môi trường học đường, ký túc xá có sự
giám sát chặt chẽ bởi nội quy, quy chế sinh viên. Cũng chưa thấy nhóm SV tình
nguyện nào tự tổ chức cùng nhau đi thu gom rác thải sau các ngày nghỉ lễ, tết ở
quảng trường thành phố Đà Lạt hay ven Hồ Xuân Hương. Ý thức BVMT của mỗi
SV chưa trở thành ý thức xã hội, ý thức cộng đồng để BVMT. Lý do chính là việc
giáo dục ý thức BVMT cho SV mới chỉ giới hạn trong môi trường học đường mà
chưa lan toả ra cộng đồng xã hội hoặc là ý thức BVMT của SV chưa được thử thách
trong môi trường xã hội thông qua các HĐCĐ.
Vì thế HĐCĐ về BVMT như là phương thức, con đường để nhân lên sức mạnh
của ý thức BVMT, hành động BVMT của từng cá nhân, từng nhóm xã hội thành ý
thức BVMT ở tầm ý thức xã hội, ý thức cộng đồng trong việc BVMT. Đó chính là

2



thông điệp của 24 hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp quốc về biến đổi khí hậu đã gửi
tới toàn thể nhân loại.
Từ những lý do trên tôi chọn đề tài “Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Đà Lạt thông qua hoạt động cộng đồng”
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng khái niệm công cụ cho đề tài và cơ sở lý luận cho việc giáo dục ý thức
BVMT cho SV thông qua HĐCĐ.
Khảo sát thực trạng ý thức BVMT của SV và thực trạng giáo dục ý thức BVMT
cho SV trường CĐSP Đà Lạt. Đề xuất biện pháp tổ chức các HĐCĐ để giáo dục ý
thức BVMT cho SV.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Các hoạt động giáo dục ý thức BVMT của SV trường CĐSP Đà Lạt.
Cán bộ quản lý (CBQL) nhà trường có liên quan đến việc tổ chức các hoạt động
giáo dục ý thức BVMT cho sinh viên, cán bộ địa phương (CBĐP) thuộc địa bàn
trường CĐSP Đà Lạt có hộ khẩu thường trú có liên quan đến việc phối hợp với
trường CĐSP Đà Lạt trong để giáo dục ý thức BVMT cho SV và SV năm thứ hai và
thứ ba năm học 2018-2019 của trường CĐSP Đà Lạt.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Ý thức bảo BVMT của SV CĐSP Đà Lạt thông qua HĐCĐ và công tác giáo dục
ý thức BVMTcho SV thông qua HĐCĐ của trường CĐSP Đà Lạt
4. Giả thuyết khoa học
Ý thức BVMT của SV trường CĐSP đã được hình thành ổn định và ngày càng
phát triển ở mức độ khởi đầu của ý thức xã hội;
Trường CĐSP Đà Lạt đã làm tốt công tác giáo dục ý thức BVMT cho SV thông
qua các HĐCĐ; HĐCĐ có tác dụng thúc đẩy nâng cao ý thức BVMT của SV.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng cơ sở lí luận về giáo dục ý thức BVMT cho SV thông qua các
HĐCĐ.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng ý thức BVMT của SV và thực trạng giáo dục ý

thức BVMT cho SV trường CĐSP Đà Lạt thông qua các HĐCĐ.
5.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức các HĐCĐ để giáo dục ý thức BVMT cho
sinh viên.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích thực trạng ý thức BVMT của SV trường CĐSP Đà Lạt
và thực trạng công tác giáo dục ý thức BVMT cho SV trường CĐSP Đà Lạt thông

3


qua các HĐCĐ , chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế của thực trạng trên. Trên cơ sở
đó đề xuất biện pháp tổ chức các HĐCĐ nhằm giáo dục ý thức BVMT cho SV.
Khách thể khảo sát: 11 CBQL Phòng, Khoa, Cán bộ Hội sinh viên, Cán bộ Đoàn
thanh niên; 15 cán bộ khu phố 11, các Ban, Ngành, Đoàn thể thuộc UBND phường 10
và 234 sinh viên trường CĐSP Đà Lạt các khóa 41,42 năm học 2018-2019.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận
Mục đích: Nghiên cứu tổng quan về vấn đề nghiên cứu; xây dựng khái niệm
công cụ của đề tài; xây dựng cơ sở lý luận cho việc tổ chức HĐCĐ nhằm giáo dục ý
thức BVMT cho SV.
Nội dung: Nghiên cứu các văn kiện của Đảng và Nhà nước về việc bảo vệ tài
nguyên - môi trường; Luật bảo vệ tài nguyên-môi trường; Các sách đã xuất bản, tạp
chí, báo in, báo mạng, các luận văn về tâm lý học, môi trường, giáo dục môi trường,
bảo vệ môi trường, phát triển cộng đồng, giáo dục cộng đồng....
Phương pháp thực hiện: Phân loại tài liệu, đọc, tổng hợp, phân tích các tài liệu để
nghiên cứu và hoàn thành phần lịch sử của vấn đề nghiên cứu, hình thành các khái
niệm công cụ làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng bộ công cụ khảo sát thực trạng
và phân tích thực trạng, đề xuất các biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
cho sinh viên.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Mục đích: Đánh giá thực trạng ý thức BVMT của SV CĐSP Đà Lạt và công tác
giáo dục ý thức BVMT cho sinh viên của trường CĐSP Đà Lạt thông qua các
HDCĐ.
Nội dung: Điều tra mặt nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên CĐSP Đà Lạt
về BVMT, hỏi ý kiến CBQL, CBGD trường CĐSP Đà Lạt, CB và nhân dân địa
phương nơi trường đóng về công tác phối hợp với trường CĐSP Đà Lạt tổ chức các
HDCĐ về BVMT cho SV.
Phương pháp thực hiện: Xây dựng phiếu khảo sát ý thức BVMT của sinh viên và
công tác giáo dục ý thức BVMT cho sinh viên của trường CĐSP Đà Lạt, phiếu hỏi
về ý kiến về công tác phối hợp giữa nhà trường và địa phương để giáo dục ý thức
BVMT cho sinh viên; giữa CBQL nhà trường, CBGD, các đoàn thể trong trường về
việc giáo dục ý thức BVMT và việc tổ chức các HĐCĐ để giáo dục ý thức BVMT
cho SV. Tổ chức điều tra, thu thập ý kiến trả lời của các khách thể khảo sát và xử lý
số liệu.

4


7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Mục đích: Bổ sung thông tin phục vụ cho việc đánh giá thực trạng ý thức BVMT
của SV và công tác giáo dục ý thức BVMT thông qua HĐCĐ của trường CĐSP Đà
Lạt, đồng thời thăm dò ý kiến về những biện pháp để tiếp tục tổ chức các HĐCĐ
nhằm giáo dục ý thức BVMT của SV và công tác giáo dục ý thức BVMT cho SV.
Nội dung: Hệ thống các vấn đề và câu hỏi định hướng để phỏng vấn các đối
tượng cần hỏi.
Phương pháp thực hiện: Phỏng vấn trực tiếp do CBNC thực hiện và ghi chép câu
trả lời.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia
Mục đích: Xin ý kiến chuyên gia đánh giá về ý thức BVMT của SV trường

CĐSP Đà Lạt để so sánh với kết quả khảo sát thực trạng ý thức BVMT của SV,
đồng thời xin ý kiến về tính cần thiết và khả thi của những biện pháp được đề xuất
để tổ chức các HĐCĐ nhằm giáo dục ý thức BVMT cho SV.
Nội dung: Đánh giá, xếp loại ý thức BVMT của SV trường CĐSP Đà Lạt, những
biện pháp tăng cường giáo dục ý thức BVMT cho SV thông qua các HĐCĐ.
Phương pháp thực hiện: Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến chuyên gia về các nội
dung trên gửi đến một số chuyên gia đã lựa chọn.
7.2.4. Phương pháp xử lý số liệu:
Thống kê và xử lý số liệu thống kê bằng Excel
8. Điểm mới của đề tài.
Lần đầu tiên xây dựng cơ sở lý luận cho việc tổ chức các HĐCĐ nhằm giáo dục
ý thức BVMT cho SV.
Lần đầu tiên khảo sát đánh giá ý thức BVMT của sinh viên CĐSP Đà Lạt và thực
trạng việc tổ chức các HĐCĐ của nhà trường nhằm giáo dục ý thức BVMT cho SV.
9. Cấu trúc của luận văn
Gồm phần mở đầu, phần nội dung nghiên cứu. Phần trọng tâm của nội dung
nghiên cứu ngoài các mục kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
ở cuối chương 3 là các chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho sinh viên
thông qua các hoạt động cộng đồng.
Chương 2. Thực trạng ý thức báo vệ môi trường của sinh viên và thực trạng giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường cho sinh viên trường CĐSP Đà Lạt thông qua các
hoạt động cộng đồng.
Chương 3. Biện pháp tổ chức các hoạt động cộng đồng nhằm giáo dục ý thức bảo
vệ môi trường cho sinh viên trường CĐSP Đà Lạt

5


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI

TRƯỜNG CHO SINH VIÊN THÔNG QUA TỔ CHỨC
CÁC HOẠT ĐỘNG CỘNG ĐỒNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở ngoài nước.
Vấn đề môi trường , bảo vệ môi trường (BVMT), ô nhiễm môi trường, biến đổi
khí hậu (BĐKH), giáo dục BVMT được nhiều nhà khoa học, tổ chức quốc tế quan
tâm nghiên cứu.
Chương trình môi trường Liên Hiệp quốc (UNEP) “ GEO-2000” công bố bản
“Báo cáo tổng quan môi trường toàn cầu - năm 2000” đã chỉ rõ: “Các hệ sinh thái
và sinh thái nhân văn toàn cầu bị đe doạ bởi sự mất cân bằng sâu sắc trong năng
xuất và phân bổ hàng hoá và dịch vụ. Một bộ phận đáng kể của nhân loại đang sống
trong sự nghèo khó và một bộ phận nhỏ của nhân loại được thu lợi từ sự phát triển
kinh tế - công nghệ sống trong giàu sang, đầy đủ. Hai thái cực này đang đe doạ sự
ổn định của toàn bộ hệ thống nhân văn và cùng với nó là môi trường toàn cầu; Thế
giới đang biến đổi, sự phối hợp quản lý môi trường ở quy mô toàn cầu luôn bị tụt
hậu so với phát triển KT-XH, những thành quả về môi trường có được từ công nghệ
và chính sách mới không theo kịp quy mô tăng dân số và phát triển kinh tế” [dẫn
theo14, Tr 17].
Công ước khung về thay đổi khí hậu của Liên hiệp quốc đã “Thừa nhận rằng sự
thay đổi khí hậu trái đất và những hiệu ứng nguy hại của nó là mối quan tâm chung
của nhân loại” [dẫn theo 35, Tr 627].
Do tính chất toàn cầu của sự thay đổi khí hậu, Liên hiệp quốc đã kêu gọi “...sự
hợp tác rộng lớn nhất có thể có được của tất cả các nước và sự tham gia của họ vào
sự ứng phó quốc tế thích hợp và có hiệu quả, phù hợp với những trách nhiệm chung
nhưng có phân biệt cả các khả năng tương ứng cùng các điều kiện kinh tế và xã hội
của mỗi nước” [dẫn theo 35, Tr 628].
Nguyên nhân gây ra BĐKH trên toàn cầu là ô nhiễm môi trường, nhưng thủ
phạm gây ra ô nhiễm môi trường chủ yếu là do con người cùng với các hoạt động
sản xuất, tiêu dùng của con người gây ra, vì vậy giáo dục ý thức BVMT cho mọi
công dân ở mọi quốc gia là chìa khoá để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường,

chống BĐKH. Văn kiện hội nghị Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển họp tại
Rio de Janeiro từ 3 đến 14/6/1992 (chương 36) cũng chỉ rõ “Giáo dục là nhân tố
quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững và nâng cao khả năng giải quyết các vấn
đề của môi trường và phát triển”[dẫn theo 34, Tr 31].

6


Cùng với những nghiên cứu về BĐKH, BVMT, Liên hiệp quốc, các tổ chức khoa
học quốc tế, các nhóm nhà khoa học cũng thúc đẩy việc tuyên truyền, giáo dục về
BVMT cho các thế hệ người, đặc biệt là thế hệ trẻ sống trên trái đất. Hội nghị Quốc
tế về môi trường năm 1975 tại Beograde đã chính thức nêu ra vấn đề giáo dục môi
trường (GDMT) với mục đích nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của môi trường
và hiểu biết về môi trường; giúp cho mỗi người xác định được thái độ và lối sống cá
nhân tích cực đối với môi trường ; có những hành động cho một môi trường tốt hơn.
Văn kiện hội nghị quốc tế về GDMT của Liên hiệp quốc tổ chức tại Tbilisi năm
1977 đã nhấn mạnh “Mục tiêu cơ bản của GDMT là làm cho từng người và cộng
đồng hiểu biết được bản chất phức tạp của môi trường tự nhiên và nhân tạo, đó là
sự tương tác của các mặt sinh học, vật lý, hoá học, xã hội, kinh tế và văn hoá để có
tri thức, thái độ và các kĩ năng thực tế, để từ đó tham gia có hiệu quả, có trách
nhiệm vào việc tiên đoán và giải quyết các vấn đề về môi trường và quản lý chất
lượng môi trường” [dẫn theo 30, Tr 112].
Lĩnh vực phát huy vai trò của cộng đồng BVMT được chương trình môi trường
của Liên hiệp quốc năm 1991 cùng với một số Hiệp hội Môi trường đã đưa ra 9
nguyên tắc về phát triển xã hội bền vững trong đó có nguyên tắc “1. Tôn trọng và
quan tâm đến đời sống cộng đồng; ...7. Để cho các cộng đồng tự quản lý môi
trường..”[dẫn theo 27, Tr 95].
Nguyên tắc 22 trong Tuyên bố hội nghị Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển
(Rio de Janeiro 1992) đã ghi: “Nhân dân bản xứ và các cộng đồng của họ và các cộng
đồng khác ở địa phương có vai trò quan trọng trong quản lý và phát triển môi trường vì

sự hiểu biết và tập tục truyền thống của họ. Các quốc gia nên công nhận và ủng hộ
thích đáng bản sắc văn hoá và những mối quan tâm của họ, khiến họ tham gia có hiệu
quả vào việc thực hiện một sự phát triển lâu bền” [35, Tr 36-37].
Những nghiên cứu trên đây làm rõ vấn đề chống biến đổi khí hậu (BĐKH),
BVMT là vấn đề chung của toàn cầu, giáo dục ý thức BVMT cho mọi người là con
đường lâu dài và bền vững để giải quyết các vấn đề về môi trường và BĐKH.
1.1.2. Nghiên cứu trong nước.
Các tác giả, tổ chức trong nước đã nghiên cứu các vấn đề về môi trường, BĐKH
và giáo dục môi trường ở Việt Nam.
Chương 1, Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam (2014) định nghĩa “ môi trường
là yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển
của con người và sinh vật” [2, Tr 1].
Nghiên cứu về BĐKH, Ngô Trọng Thuận (2017) trong cuốn “Những thông tin
cập nhật về biến đổi khi hậu dùng cho các đối tượng cộng đồng” đã định nghĩa

7


“BĐKH là sự thay đổi có tính hệ thống so với trung bình trong thời kỳ dài của các
yếu tố khí hậu (như là nhiệt độ, lượng mưa, áp suất hay gió) được duy trì trong vài
thập niên hoặc dài hơn” [29, Tr 19]. Tác giả chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến BĐKH
như những tác động tự nhiên bên ngoài (thay đổi của bức xạ mặt trời; thay đổi chậm
của các thành phần trong quỹ đạo trái đất), hoặc do những quá trình bên trong của
hệ thống khí hậu, hay do những tác động của con người gây ra.
Trong chương 1, Luật BVMT (2014) cũng hướng dẫn “Hoạt động BVMT là gìn
giữ, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu của môi trường; ứng phó sự cố môi
trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác hợp
lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành” [2, tr 1].
Luật BVMT năm 2014 là cơ sở pháp lý cho việc huy động cộng đồng tham gia
BVMT “Điều 4. Nguyên tắc BVMT. 1) BVMT là trách nghiệm, nghĩa vụ của mọi

cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân; ...Điều 6. Những hoạt động BVMT được
khuyến khích. 1) Truyền thông, giáo dục mọi người tham gia BVMT, giữ gìn vệ
sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan môi trường và đa dạng sinh học (ĐDSH) ; ...
Điều 83. Tổ chức tự quản BVMT. 1) Nhà nước khuyến khích cộng đồng dân cư
thành lập các tổ chức tự quản về BVMT nơi mình sinh sống; 2) Tổ chức tự quản về
BVMT được thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, cộng đồng trách
nhiệm, tuân theo quy định của pháp luật để thực hiện các nhiệm vụ được quy định
trong điều này” [2, Tr 3].
Nói đến vai trò của cộng đồng trong thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH), Cục
khí tượng thuỷ văn và biến đổi khí hậu trong tài liệu “Sổ tay tuyên truyền về Biến
đổi khí hậu” đã xem cộng đồng là chỗ dựa để thích ứng với biến đổi khí hậu và xác
định rõ “mục đích của thích ứng dựa vào cộng đồng gồm: Trao quyền chủ động, tạo
tính năng động và được tham gia vào tất cả các giai đoạn của dự án thích ứng
BĐKH trong cộng đồng mình; Tăng cường tình đoàn kết và sự cộng tác của mọi
người để xây dựng cộng đồng an toàn, nâng cao khả năng thích ứng của từng thành
viên với BĐKH; Huy động sự tham gia tích cực của người nghèo, mọi giới nhất là
thúc đẩy vai trò của phụ nữ trong các hoạt động thích ứng với BĐKH” [33, Tr 148].
Một nội dung quan trọng của BVMT là giáo dục BVMT. Ngày 17/10/2001 Chính
phủ đã quyết định phê duyệt đề án “Đưa nội dung BVMT vào trong hệ thống giáo
dục với mục tiêu giáo dục cho HS các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo trong hệ
thống giáo dục quốc dân có hiểu biết về pháp luật và chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về BVMT; có kiến thức về môi trường để tự giác thực hiện
BVMT. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu khoa học - công
nghệ và cán bộ quản lý về BVMT” [30, Tr 17].

8


Lê Văn Khoa chủ biên cuốn “môi trường và giáo dục BVMT” đã phân tích vai trò
của “giáo dục là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất, kinh tế nhất và có tính

bền vững trong các biện pháp để thực hiện mục tiêu BVMT và phát triển bền vững
(PTBV) đất nước” [14, Tr 158]. Trong cuốn sách này, các tác giả xác định mục tiêu,
nội dung, phương pháp, phương thức giáo dục BVMT trong nhà trường. Điều đề tài
quan tâm nhất là những loại hình hoạt động giáo dục BVMT ở ngoài trường học mà
tác giả nêu ra như “Hoạt động tham quan, khảo sát thực địa; Hoạt động kiểm chứng;
Hoạt động sáng tác theo chủ đề; Hoạt động dạy học theo dự án; Hoạt động lao động
BVMT; Giáo dục BVMT thông qua các hình thức câu lạc bộ, các hội thi; Hoạt động
tham gia giải quyết vấn đề MT tại cộng đồng [14, Tr 249-265].
Lê Văn Trưởng và Nguyễn Kim Tiến (2006) biên soạn cuốn “Giáo dục môi
trường” làm tài liệu đào tạo GV trình độ Cao đẳng và Đại học sư phạm về giáo dục
MT. Tài liệu thiết kế theo từng mô đun với các chủ đề: “(1) Giới thiệu về khoa học
môi trường; (2) các thành phần cơ bản của môi trường; (3) tài nguyên thiên nhiên;
(4) Các nguyên lý sinh thái học ứng dụng trong khoa học môi trường; (5) Sự tác
động của con người đối với môi trường (6) Một số vấn đề nền tảng về môi trường
và phát triển bền vững; (7) Giáo dục môi trường. [29, Tr 3-4]. Trong tài liệu này đề
tài rất quan tâm đến những hoạt động giáo dục BVMT mà các tác giả đã gợi ý cho
việc tổ chức các HĐCĐ để giáo dục ý thức BVMT cho sinh viên như: “Trồng cây
gây rừng; Tìm hiểu vì hành động môi trường của địa phương; Xây dựng mô hình
VAC, RVAC ở nhà trường hoặc các cộng đồng dân cư nơi trường đóng; Những hoạt
động thi về môi trường với những chủ đề khác nhau; Tham gia tuyên truyền cộng
đồng về thực trạng môi trường và các cách BVMT” [19, tr 116-117].
Trong “Tài liệu hướng dẫn về bảo vệ môi trường cho các truyền thông viên là
Đoàn viên thanh niên” của Cục bảo vệ MT (2006) đã đưa ra hướng dẫn cụ thể để đa
dạng hoá hình thức giáo dục môi trường (GDMT) cho thế hệ trẻ.Tài liệu đã đưa ra
những gợi ý thiết thực tổ chức các hoạt động cộng đồng nhằm giáo dục ý thức
BVMT cho SV như: “Tổ chức các câu lạc bộ tuổi trẻ với môi trường; Thông qua
các sinh hoạt định kỳ của các cơ sở Đoàn; Tổ chức cuộc thi tìm hiểu về môi trường;
Tổ chức các diễn đàn thanh niên với môi trường; Tổ chức các cuộc thi sáng tác
kịch, thơ, truyện, phim về BVMT; Tổ chức các hội thảo, thảo luận về môi trường;
Tổ chức các hoạt động BVMT gây ấn tượng trong cộng đồng; Tổ chức tham quan,

du lịch, picnic; Tổ chức các buổi giáo dục ngoại khoá; Phát động các phong trào thi
đua BVMT; Thành lập các đội thanh niên tình nguyện BVMT” [32, Tr71-78].
Tóm lại những nghiên cứu ngoài nước, trong nước đã trình bày ở trên có thể tóm
tắt những điểm chính như sau:

9


Biến đổi khí hậu gây ra những tác hại to lớn cho hệ sinh thái toàn cầu và cuộc
sống của con người trên hành tinh này;
Nguyên nhân của BĐKH là do những hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên
quá mức, hoạt động sản xuất, xây dựng, rác thải công nghiệp và sinh hoạt của con
người trên hành tinh đã gây ra hiệu ứng nhà kính làm nhiệt độ trái đất ngày càng
nóng dần lên, cùng với ô nhiễm môi trường dẫn đến sự biến đổi tiêu cực của hệ sinh
thái trên trên trái đất, đe doạ sự sống của các sinh vật trên hành tinh này;
Vì vậy BVMT là sự sống còn của cộng đồng nhân loại và của từng quốc gia,
không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết được vấn đề BĐKH toàn cầu mà
cần tập hợp sức mạnh toàn nhân loại dưới ngọn cờ Liên hiệp quốc để cùng nhau
BVMT, giảm ô nhiễm môi trường, chống BĐKH.
Giáo dục ý thức BVMT cho toàn thể nhân loại, cho các công dân của từng quốc
gia như là giải pháp lâu dài bền vững để chống biến đổi khí hậu, giảm thiểu ô nhiễm
môi trường và BVMT.
Cùng lĩnh vực nghiên cứu cũng có một số luận văn thạc sĩ đã được công bố.
Luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu sự tham gia của một số tổ chức xã hội dân sự
trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam” của tác giả Lê Quốc Hùng (2016). Đề tài khảo sát
thực trạng sự tham gia của một số tổ chức xã hội dân sự trong lĩnh vực BVMT, trên
cơ sở đó đề xuất giải phát để thúc đẩy hơn nữa sự tham gia các các tổ chức xã hội
dân sự BVMT. Đề tài đã kết luận “...những tổ chức này (XHDS) như “cánh tay nối
dài” của Nhà nước, có kết nối mạnh mẽ với cộng đồng và do đo có thể đóng vai trò
cầu nối giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong BVMT” [13, Tr 17]

Luận văn thạc sĩ “Huy động cộng đồng trong giáo dục ý thức bảo vệ các di sản
văn hóa cho học sinh trung học cơ sở huyện Kiến Thụy, Hải Phòng” của tác giả
Nguyễn Văn Mai (2018). Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn huy động cộng
đồng trong việc giáo dục ý thức bảo vệ các di sản văn hóa trên địa bàn huyện Kiến
Thụy, đề xuất các biện pháp huy động cộng đồng hiệu quả hơn, góp phần nâng cao
ý thức bảo vệ di sản văn hóa cho học sinh. Kết luận của đề tài nhận định “Thực
trạng huy động cộng đồng đã khuyến khích các cá nhân, tổ chức doanh nghiệp trong
cộng đồng kể cả về trí tuệ, con người và kinh phí vào công tác giáo dục ý thức bảo
vệ di sản cho học sinh huyện Kiến Thụy trong việc bảo vệ các di sản văn hoá dân
tộc phục vụ phát triển kinh tế xã hội” [18, Tr 104].
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hồng Anh (2017) về “Giáo dục ý thức bảo vệ
tài nguyên nước thông qua hoạt động cộng đồng cho sinh viên”. Luận văn đã
nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giáo dục ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên nước
thông qua hoạt động cộng đồng, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức

10


bảo vệ nguồn tài nguyên nước cho sinh viên. Kết quả nghiên cứu của luận văn
nhận xét “Việc phân tích, nghiên cứu lý luận giúp cho tác giả có sự nhìn nhận
khoa học, tổng quan hơn về các hoạt động cộng đồng, cũng như bản chất là triển
khai các chương trình bảo vệ môi trường thông qua việc giáo dục ý thức bảo vệ tài
nguyên nước của cộng đồng sinh viên” [5; Tr 116].
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Minh Ngọc (2018) về “Phối hợp các lực lượng
cộng đồng trong giáo dục ý thức tham gia giao thông cho học sinh THCS phường
Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội”. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và
thực trạng giáo dục, thực trạng phối hợp giữa nhà trường với cộng đồng trong giáo
dục ý thức tham gia giao thông cho học sinh THCS, đề xuất biện pháp phối hợp các
lực lượng cộng đồng trong giáo dục ý thức tham gia giao thông cho học sinh THCS
Phường Giang Biên, Quận Long Biên, Thành phố Hà Nội. Kết quả của luận văn

“khẳng định vai trò quan trọng và cần thiết của tổ chức phối hợp các lực lượng cộng
đồng trong giáo dục ý thức tham gia giao thông cho học sinh THCS ở Phường
Giang Biên....Việc tổ chức phối hợp các lực lượng cộng đồng trong giáo dục ý thức
tham gia giao thông cho học sinh THCS còn có những hạn chế, khuyết điểm trong
thực hiện chương trình, nội dung, hình thức tổ chức thực hiện và chỉ đạo các lực
lượng liên quan” [21, Tr 101].
Luận văn thạc sĩ “Phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục bảo vệ môi
trường cho cộng đồng dân cư huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên của Nguyễn Thị Lệ
Quyên (2018). Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giáo dục môi trường,
luận văn đề xuất các biện pháp phối hợp các lực lượng xã hội để giáo dục cho cộng
đồng dân cư trên địa bàn huyện Tây Hòa thực hiện bảo vệ môi trường, góp phần
tích cực trong xây dựng môi trường bền vững. Đề tài kết luận “ việc giáo dục
BVMT cho cộng đồng dân cư nhất thiết phải có sự đồng thuận, thống nhất cao
giữa nhà nước, chính quyền, mặt trận, các hội, đoàn thể để xây dựng một môi
trường sống lành mạnh, hạn chế đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực do vấn
đề môi trường gây ra” [24, Tr 78].
Điểm chung của các luận văn trên là đều xem cộng đồng là địa phương nơi tác
giả nghiên cứu hay là các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương là con đường tiến
hành hoạt động giáo dục ý thức BVMT, ý thức giao thông, bảo vệ di sản văn hoá,
tài nguyên nước cho học sinh. Các luận văn đều khẳng định vai trò của cộng đồng
làm tăng hiệu quả của công tác giáo dục học sinh.
Điểm hạn chế của các luận văn là chưa làm rõ mô hình cộng đồng được huy
động trong việc tham gia giáo dục học sinh là như thế nào?

11


Những ưu điểm và hạn chế của các luận văn đã giúp chúng tôi những ý tưởng rõ
ràng hơn trong triển khai luận văn này.
Tóm lại những nghiên cứu ngoài nước, trong nước đã giúp chúng tôi hệ thống

được những tài liệu quan trọng để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài, hình thành ý
tưởng cho việc đề xuất các giải pháp
1.2. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho sinh viên
1.2.1. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
1.2.1.1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục được hiểu theo nhiều cách tiếp cận
Về bản chất, giáo dục là thế hệ trước truyền đạt và tiếp thu những kinh nghiệm
lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người.
Về hoạt động, giáo dục là quá trình tác động đến các đối tượng giáo dục để hình
thành ở họ những phẩm chất và năng lực cần thiết đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Về mặt phạm vi, giáo dục bao hàm nhiều cấp độ:
Cấp độ rộng nhất được hiểu giáo dục là quá trình xã hội hoá con người. Theo
nghĩa này, giáo dục là thuộc tính vốn có của xã hội loài người, diễn ra ở mọi nơi,
mọi lúc, mọi hoàn cảnh, với mọi đối tượng. Đó là sự hình thành nhân cách diễn ra
một cách có ý thức hoặc ngẫu nhiên do tác động của những yếu tố khách quan và
chủ quan.
Cấp độ thứ hai của giáo dục được gọi là giáo dục xã hội. Đó là những hoạt động
có mục đích, có hệ thống của toàn xã hội nhằm hình thành những phẩm chất và
năng lực của con người đáp ứng yêu cầu của xã hội. Bao gồm giáo dục gia đình,
giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội.
Cấp độ thứ ba, giáo dục là hoạt động có mục đích, có nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức, do các nhà sư phạm tiến hành trong những cơ sở giáo dục chuyên
biệt nhằm đào tạo thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục của xã hội. Ở cấp độ này giáo
dục là một quá trình sư phạm gồm quá trình dạy học và quá trình giáo dục (nghĩa
hẹp nhất). Theo nghĩa hẹp nhất, giáo dục là quá trình hình thành những phẩm chất
đạo đức của nhân cách (giáo dục tính kỷ luật, tính trung thực, ý thức BVMT ...).
Trong lý luận giáo dục học chỉ ra 4 con đường giáo dục: Giáo dục thông qua dạy
học; giáo dục thông qua việc tổ chức các hoạt động phong phú và đa dạng (vui chơi,
lao động, hoạt động xã hội) ; giáo dục thông qua hoạt động tập thể và tự tu dưỡng.
Giáo dục ý thức BVMT cho SV là quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp nhất của

khái niệm giáo dục. Con đường giáo dục ý thức BVMT cho SV là các hoạt động
BVMT trong và ngoài nhà trường.

12


1.2.1.2. Khái niệm ý thức.
“Ý thức là khả năng con người hiểu được các tri thức (hiểu biết) mà người đó
đã tiếp thu được” [10, Tr .45].
Như vậy nội dung của ý thức bao gồm những tri thức về thế giới mà con người
đã nhận thức được và sự phản ánh lại những gì mà con người đã nhận thức được.
Sự phản ánh lại được thể hiện sinh động bằng con người biểu lộ thái độ với những
điều mình hiểu biết (tán đồng, ủng hộ, giúp đỡ, động viên... hoặc phê phán, ngăn
cản, lên án...) bằng cả suy nghĩ, tình cảm và hành động, hành vi. Đồng thời con
người tự nhận xét chính bản thân mình (nhận thức, thái độ, hành vi) so với những
chuẩn mực xã hội đang được xã hội chấp nhận (lương tâm) để tự điều chỉnh và hoàn
thiện bản thân (tự tu dưỡng). Biểu hiện cuối cùng của một người có ý thức là người
đó hình thành được bộ mặt đạo đức, tinh thần trách nhiệm, hình thành nên lối sống,
thói quen.
Ý thức con người biểu hiện ở 3 cấp độ:
Cấp độ chưa ý thức (vô thức): Những hiện tượng tâm lý con người chưa ý thức
được nhưng nó vẫn tham gia điều khiển hành vi của chúng ta. Vô thức bao gồm bản
năng, hiện tượng tâm lý dưới ngưỡng ý thức (tiền ý thức), tâm thế, tiềm thức.
Cấp độ ý thức và tự ý thức. Con người nhận thức, tỏ thái độ, có chủ tâm, dự kiến
trước được hành vi của mình, làm cho hành vi trở nên có ý thức. Tự ý thức là mức
độ phát triển cao của ý thức, cá nhân tự nhận thức về bản thân từ hình thức bên
ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội; có thái độ với bản
thân, tự nhận xét, tự đánh giá; tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi của mình theo
mục đích tự giác; có khả năng tự tu dưỡng, tự hoàn thiện bản thân. Ở mức độ tự ý
thức, cá nhân hành động có chủ định, tự giác nhưng có điều kiện.

Cấp độ ý thức nhóm và ý thức xã hội. Trong giao tiếp và hoạt động nhất là những
hoạt động tập thể, HĐCĐ ý thức cá nhân sẽ phát triển dần đến cấp độ ý thức xã hội,
ý thức nhóm. Khi con người hoạt động với ý thức cộng đồng, ý thức xã hội, mỗi cá
nhân có thêm sức mạnh mà họ chưa bao giờ có khi hoạt động với ý thức cá nhân
riêng lẻ. Dưới tác động của ý thức xã hội tạo dựng nên lối sống, thói quen, hành
động dấn thân vì lý tưởng, vì người khác, vì cộng đồng của cá nhân. Khi đó hành
động của cá nhân là hành động hoàn toàn tự nguyện, vô điều kiện.
Sự hình thành ý thức và tự ý thức cá nhân.
Ý thức cá nhân được hình thành trong hoạt động và thể hiện trong sản phẩm hoạt
động của mình.
Ý thức cá nhân được hình thành trong mối quan hệ giao tiếp với người khác, với
xã hội.

13


Ý thức của cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền văn hoá xã hội,
ý thức xã hội.
Ý thức cá nhân được hình thành bằng con đường tự nhận xét, tự đánh giá.
Trên cơ sở tự ý thức, cá nhân tham gia tích cực vào các hoạt động tập thể, nhóm,
hoạt động xã hội, HĐCĐ và dần hình thành ý thức cá nhân ở cấp độ ý thức xã hội.
1.2.1.3. Bảo vệ môi trường
Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo

tác
động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật.
Như vậy bảo vệ môi trường (BVMT) là bảo vệ và sử dụng hợp lý các
yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo để đảm bảo sự tồn tại phát
triển của con người và sinh vật một cách bền vững, thân thiện với
môi trường.

Luật BVMT (2014) định nghĩa “Hoạt động BVMT là gìn giữ, phòng ngừa, hạn
chế các tác động xấu của môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô
nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác hợp lý tài nguyên thiên
nhiên nhằm giữ môi trường trong lành” [2, Tr1].
Từ các ý kiến trên có thể hiểu bảo vệ môi trường là hoạt động có ý thức của con
người nhằm gìn giữ, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu của môi trường; ứng
phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường;
khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên để đảm bảo một môi trường sống trong lành
và sự phát triển bền vững (PTBV).
1.2.1.4. Ý thức bảo vệ môi trường
Giáo dục môi trường (GDMT) được chính thức nêu ra tại Hội nghị quốc tế về
môi trường năm 1975 tại Beograde và được nhấn mạnh trong các văn kiện Tbilisi
77 và Rio 92 nhằm: “Nâng cao nhận thức về vai trò của môi trường và hiệu biết về
môi trường; Giúp cho mỗi người xác định thái độ, lối sống cá nhân tích cực với môi
trường ; Có được những hành động cho môi trường tốt hơn” [30, Tr 112].
Mục tiêu GDMT của Việt Nam cần đạt được là: “Giúp mỗi cá nhân và cộng đồng
có sự hiểu biết và sự nhạy cảm về môi trường cùng với các vấn đề về MT đặt ra;
Giúp cho họ hiểu biết những khái niệm cơ bản về MT và BVMT; Hình thành ở họ
những tình cảm, thái độ đối với việc giải quyết các vấn đề của môi trường xảy ra;
Giúp cho họ có được những kỹ năng giải quyết cũng như thuyết phục các thành
viên khác cùng tích cực tham gia giải quyết các vấn đề của môi trường nơi mình
sinh sống, học tập và công tác” [30, Tr.112].

14


Trên cơ sở mục tiêu của GDMT của Việt Nam như đã nêu ở trên cho thấy ý thức
BVMT trong mỗi đối tượng của GDMT có 3 bộ phận cấu thành như sau:
Nhận thức về môi trường và bảo vệ môi trường. Có kiến thức, hiểu biết về môi
trường : Các thành phần của môi trường, tính phức tạp và mối liên hệ nhiều chiều

của các thành phần của môi trường; tính hạn chế của tài nguyên thiên nhiên; khả
năng chịu tải của môi trường; mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường với sự phát
triển kinh tế - xã hội trong phạm vi địa phương, quốc gia, khu vực và trên toàn cầu .
Thái độ về môi trường và bảo vệ môi trường. Trên cơ sở nhận thức về môi trường
và BVMT như trên nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của các vấn đề MT
như nguồn lực để sống, lao động và phát triển cá nhân, cộng đồng, xã hội từ đó có
thái độ, cách ứng xử đúng đắn trước các vấn đề môi trường, có trách nhiệm ứng xử
thân thiện với môi trường, tham gia tích cực BVMT, hình thành đạo đức môi trường
.
Lối sống, thói quen hợp lý với môi trường, hành vi tích cực bảo vệ môi trường .
Trên cơ sở hình thành được 2 bộ phận cấu thành trên con người tự nâng cao khả
năng lựa chọn cách sống phù hợp với việc sử dụng hợp lý và khôn ngoan các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, góp phần tham gia có hiệu quả vào việc phòng ngừa và giải
quyết vấn đề MT nơi mình sinh sống và làm việc.
Ba bộ phận cấu thành của ý thức BVMT là cơ sở khoa học để đề tài xây dựng bộ
công cụ khảo sát ý thức BVMT của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt.
1.2.1.5. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường.
Giáo dục ý thức BVMT là một quá trình lâu dài, liên tục và có mục đích, hệ
thống nhằm giúp con người có nhận thức đúng và đầy đủ về môi trường và BVMT,
hình thành được thái độ đúng, tích cực về môi trường và BVMT, có năng lực hành
vi BVMT, hình thành được lối sống, thói quen thân thiện với MT.
Giáo dục ý thức BVMT là quá trình hình thành 3 bộ phận cấu thành ý thức
BVMT của mỗi cá nhân.
Hình thành ý thức BVMT thông qua giáo dục được thực hiện bằng các con
đường sau:
Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thông qua dạy học trong nhà trường. Đây là
con đường chủ đạo, quan trọng nhất, bởi vì nhà trường là tổ chức giáo dục chuyên
nghiệp, do các nhà giáo dục thực hiện, mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp
giáo dục được xây dựng phù hợp với từng lứa tuổi, nhà trường có cơ sở vật chất tốt
nhất, chuyên nghiệp nhất để tiến hành giáo dục.

Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thông qua hoạt động. Trong nhà trường các
dạng hoạt động được tổ chức gồm học tập, vui chơi, lao động, hoạt động xã hội. Ở

15


mỗi bậc học, các hoạt động được tổ chức có mục đích, nội dung, phương pháp và
yêu cầu khác nhau để hình thành, củng cố, hoàn thiện ý thức BVMT cho học sinh,
trong các hoạt động đó, hoạt động xã hội là hình thức hoạt động cao nhất đưa HS
vào thực tiễn xã hội, cùng tham gia với các thành viên khác trong cộng đồng tiến
hành các hoạt động BVMT.
Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động tập thể. Mọi hoạt
động BVMT trong nhà trường đều là hoạt động tập thể. Hai yếu tố quan trọng của
hoạt động tập thể đảm bảo cho nó đủ sức mạnh giáo dục các thành viên là chế độ và
nề nếp vệ sinh học đường, BVMT và dư luận tập thể tích cực để duy trì chế độ và
nề nếp vệ sinh học đường, BVMT.
Chế độ vệ sinh học đường và BVMT hợp lý, kỷ luật nghiêm, hoạt động có kế
hoạch, được duy trì thường xuyên và có nế nếp sẽ hình thành thói quen BVMT và
nếp sống thân thiện với môi trường. Dư luận tập thể BVMT lành mạnh luôn giúp
các thành viên tập thể nhận thức được những điều tốt, tích cực BVMT, những hành
vi tiêu cực xâm hại môi trường, từ đó các cá nhân trong tập thể điều chỉnh hành vi
BVMT của mình.
Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thông qua tự tu dưỡng. Tự tu dưỡng là ý thức
BVMT và tính tích cực BVMT cao nhất của cá nhân đối với cuộc sống. Tự tu
dưỡng được thực hiện khi cá nhân đã đạt đến một trình độ phát triển nhất định, tích
luỹ được những kinh nghiệm và tri thức phong phú và là kết qủa cao nhất của quá
trình giáo dục ý thúc BVMT
Quá trình giáo dục ý thức BVMT cho HS được tiến hành trong tất cả các bậc học
. Ở mỗi bậc học, tuỳ theo đặc điểm lứa tuổi và nội dung giáo dục, việc giáo dục ý
thức BVMT được tiến hành bằng các con đường như dạy học, thực hành, lao động

sản xuất, hoạt động tập thể, hoạt động BVMT trong nhà trường, hoạt động xã hội
ngoài nhà trường.
Tóm lại giáo dục ý thức BVMT là một quá trình lâu dài và có hệ thống diễn ra
trong tất cả các bậc học từ mầm non, tiểu học, trung học đến CĐ-ĐH, thông qua các
hoạt động học tập, lao động, giao tiếp trong nhà trường và các hoạt động xã hội.
Hoạt động xã hội về BVMT vừa là nơi hoàn thiện ý thức BVMT vừa là thước đo
trình độ phát triển ý thức BVMT của con người.
1.2.2. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho sinh viên
1.2.2.1. Khái niệm sinh viên.
Từ điển tiếng Việt 2003 do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa sinh viên là “người
học ở bậc đại học” [22 ; Tr 860]. Theo định nghĩa này, bất cứ ai đang học ở bậc đại
học, Cao đẳng đều là SV bất kể là hệ chính quy hay tại chức, họ ở trường CĐ, ĐH

16


hay các trung tâm giáo dục thường xuyên. Định nghĩa này không giới hạn độ tuổi
nên người không ở độ tuổi thanh niên nhưng đang học bậc đại học cũng thuộc đối
tượng sinh viên.
Xét theo giai đoạn lứa tuổi, sinh viên ở lứa tuổi 17-22 thuộc lứa tuổi thanh niên.
Theo Daniel Levinson “người ở độ tuổi 17-22 là giai đoạn chuyển tiếp ban đầu của
tuổi trưởng thành, rời bỏ tuổi thanh thiếu niên, lựa chọn sơ bộ cho cuộc sống người
lớn” [16, Tr 164]. Định nghĩa này cho ta biết tính chất của giai đoạn lứa tuổi thanh
niên và mốc xác định tuổi thanh niên. Theo cách phân chia lứa tuổi trong tâm lý học
phát triển, tuổi thanh niên có 2 giai đoạn: giai đoạn đầu của tuổi thanh niên (thanh
niên mới lớn, tuổi của học sinh PTTH), giai đoạn 2 là từ 18- 22 tuổi (phần lớn kết
thúc bậc học CĐ-ĐH)
Xét về mặt tâm lý, nhân cách SV bắt đầu bộc lộ những phẩm chất nhân cách của
người trưởng thành, ý thức đã phát triển ổn định ở cấp độ ý thức cá nhân và tự ý
thức, đời sống tình cảm ổn định, có ý chí tự lập và khát vọng thành đạt, có lý tưởng

nghề nghiệp mạnh mẽ, tinh thần dấn thân cho lý tưởng, cho xã hội thường trực
trong ý thức của họ. SV có lối sống tự lập, năng động và tích cực, sáng tạo, thích cái
mới, thích trải nghiệm. Tuy nhiên tính bồng bột, liều lĩnh và dễ bị kích thích bởi các
mới, lạ của tuổi thanh niên mới lớn vẫn còn nên một số SV có nhân cách phát triển
lệch lạc.
Xét về mặt học vấn, SV đã tốt nghiệp PTTH và đang học nghề theo chương trình
có trình độ Cao đẳng và Đại học.
Xét về nghề nghiệp, SV đang theo học một nghề cụ thể.
Từ những phân tích trên rút ra nhận xét sinh viên ở độ tuổi 17 – 22 là thanh niên,
những người đang được đào tạo một nghề theo chương trình cao đẳng và đại học,
là giai đoạn bắt đầu của tuổi trưởng thành.
Sinh viên CĐSP sư phạm ở độ tuổi 17-21 là thanh niên đang được đào tạo nghề
dạy học/giáo dục ở trình độ Cao đẳng.
Nghề dạy học/giáo dục là nghề đặc thù vì sản phẩm của nghề là con người, thế hệ
trẻ, lực lượng lao động trẻ kế thừa thế hệ cha anh. Tính đặc thù còn thể hiện ở chỗ
công cụ lao động của nghề lại chính là toàn bộ nhân cách của người làm nghề, do
đó những gì mà SV tiếp thu và hình thành được ở trường CĐ sẽ được truyền thụ lại
cho các thế hệ học sinh. Vì vậy ý thức BVMT của họ là một thuộc tính nhân cách
của người giáo viên sau này, nó không chỉ quy định lối sống, hành vi thói quen thân
thiện với MT và BVMT của SV mà còn hình thành ý thức BVMT cho các thế hệ
học sinh.

17


Tóm lại, SV là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thanh niên mới lớn sang tuổi trưởng
thành, đây là giai đoạn SV đang theo học một nghề trình độ CĐ và ĐH, lứa tuổi SV
tràn đầy khát vọng thành đạt và tự khẳng định mình.
1.2.2.2. Khái niệm ý thức bảo vệ môi trường của sinh viên.
Ý thức của SV là ý thức của người trưởng thành, ý thức của trí thức trẻ. Ý thức

của SV đã phát triển ổn định và định hình ở cấp độ ý thức cá nhân. Ý thức SV đã
đạt đến cấp độ ý thức tự giáo dục.
Ý thức BVMT của sinh viên là một thuộc tính nhân cách SV quy định lối sống,
thói quen hành vi ứng xử thân thiện với môi trường và tính tự nguyện, tự giác vì
môi trường và BVMT của SV.
Nội dung ý thức BVMT của SV thể hiện ở 3 mặt: nhận thức, thái độ và hành vi
với môi trường và BVMT.
Mặt nhận thức: SV hiểu rõ bản chất phức tạp của môi trường tự nhiên và môi
trường nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều nhân tố sinh học, lý học, xã hội, kinh
tế và văn hoá, SV nhận thức được các kiến thức và giá trị môi trường, BVMT,
nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường, BĐKH, các cách thức giảm thiểu ô
nhiễm môi trường, chống BĐKH, những lơi ích của môi trường sống trong lành và
phát triển bền vững ....
Mặt thái độ: SV thể hiện thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá các
vấn đề của môi trường, BVMT, hành vi của con người đối với môi trường và
BVMT, thể hiện trách nhiệm cá nhân trước môi trường và BVMT, hình thành đạo
đức môi trường,
Mặt hành vi: SV thể hiện sự năng động của ý thức khiến cho lối sống, hành vi
ứng xử với môi trường được điều khiển bởi lý trí. SV vận dụng những hiểu biết của
mình về môi trường và BVMT và thể hiện sự lựa chọn lối sống tích cực với môi
trường và BVMT chuyển hoá thành năng lực hành vi tác động vào môi trường và
BVMT để gìn giữ môi trường sống trong lành và xã hội phát triển bền vững.
Tóm lại ý thức BVMT của sinh viên quá trình tự ý thức và hoàn thiện ý thức
BVMT đã được hình thành từ nhà trường phổ thông ở cấp độ ý thức cá nhân nâng
cao lên cấp độ ý thức xã hội.
1.2.2.3. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho sinh viên
Ý thức BVMT của SV đã được hình thành ổn định bởi ở cấp độ ỳ thức cá nhân
và tự ý thức. Các trường CĐ, ĐH tiếp tục giáo dục ý thức BVMT bằng cách bổ
sung, hoàn thiện về các mặt nhận thức, thái độ và hành vi với môi trường và
BVMT. Quá trình hoàn thiện ý thức BVMT của SV ở trường CĐ, ĐH có những

khác biệt với nhà trường phổ thông ở một số mặt sau:

18


Thông qua con đường dạy học các học phần khoa học cơ bản và chuyên ngành.
Ở một số ngành đào tạo, kiến thức về môi trường và BVMT được cấu thành ngay
trong nội dung các học phần (ví dụ ngành địa chất, lâm nghiệp, nông nghiệp, thuỷ
sản, thuỷ lợi, công nghệ sinh học, ngành SP Sinh học, SP Địa lý, SP Hoá học, SP
GDCD, giáo dục mầm non v.v...) đã củng cố và làm sâu sắc cơ sở khoa học của
những tri thức về môi trường, ô nhiễm môi trường, BĐKH, BVMT, cân bằng sinh
thái, phát triển bền vững ...và thái độ ứng xử của một trí thức với các vấn đề về môi
trường và BVMT.
Thông qua các hoạt động BVMT trong nhà trường. Hoạt động BVMT trong
trường CĐ, ĐH là những hoạt động vệ sinh giảng đường, phòng thí nghiệm thực
hành, sân trường, ký túc xá ...Hoạt động tôn tạo cảnh quan nhà trường (trồng cây
xanh, trồng hoa, cây cảnh, chăm sóc cây xanh. Các hoạt động tuyên truyền,
truyền thông của nhà trường về chủ đề môi trường và BVMT, các hội thi, triển
lãm về chủ đề môi trường và BVMT. Những hoạt động này hoàn toàn do SV tự
quản và thực hiện dưới sự chỉ đạo của Phòng, Khoa chức năng và tổ chức Đoàn,
Hội SV. Những hoạt động BVMT trong phạm vi nhà trường là cơ hội để ý thức
BVMT của SV được tương tác với các SV khác về tất cả các mặt trong ý thức
BVMT. Qua những hoạt động như vậy, ý thức BVMT của SV được bổ sung,
hoàn thiện và được thử thách.
Thông qua những hoạt động BVMT ngoài nhà trường. Đây là hoạt động xã hội
gắn nhà trường với xã hội, thể hiện vai trò trường CĐ, ĐH là trung tâm khoa học –
văn hoá của địa phương. Thông qua HĐCĐ, ý thức BVMT của SV có cơ hội được
thể hiện trong một môi trường rộng hơn, thực tế hơn. Ở môi trường này SV thể
hiện khát vọng dấn thân vì cộng đồng, có tầm nhìn rộng lớn hơn về tầm mức quan
trọng và thiết thực của việc BVMT và xây dựng một lối sống thân thiện với môi

trường không chỉ cho riêng mình mà còn cho cả cộng đồng. HĐCĐ BVMT giúp
cho ý thức trách nhiệm của một thanh niên trí thức với cộng đồng xã hội trong việc
thúc đẩy xây dựng một xã hội thân thiện với môi trường và phát triển bền vững.
Các con đường giáo dục ý thức BVMT cho SV kể trên có vai trò và vị trí như
nhau trong việc hoàn thiện ý thức BVMT cho SV. Tuy nhiên các hoạt động BVMT
trong nhà trường và HĐCĐ về BVMT cho SV ở ngoài nhà trường sẽ là chủ đạo để
thúc đẩy ý thức BVMT của SV phát triển ở cấp độ ý thức xã hội nhằm hình thành ở
SV một lối sống, thói quen ứng xử thân thiện với môi trường và phát triển thành đạo
đức môi trường của SV. Với SV sư phạm, đạo đức môi trường của thầy cô giáo sẽ là
công cụ giáo dục đạo đức môi trường cho các thế hệ học sinh.

19


×