BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ HUYỀN
GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA ĐÀN, TỈNH NGHỆ
AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
1
NGHỆ AN - 2014
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ HUYỀN
GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA ĐÀN, TỈNH NGHỆ
AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MÔN CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60140111
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học
TS. TRẦN VIẾT QUANG
1
NGHỆ AN - 2014
NGHỆ AN - 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến quý thầy cô khoa giáo dục chính trị Trường Đại Học Vinh
đã rất tận tình truyền đạt cho tôi những tri thức quý báu và đã giúp đỡ tôi hoàn
thành khoá học.
Đặc biệt, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Viết
Quang - Phó trưởng Khoa giáo dục chính trị, Trường Đại Học Vinh đã tận tình
chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và đã hướng dẫn
tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn phòng THPT của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh
Nghệ An, Ban Giám hiệu trường THPT 1/5, trường THPT Cờ Đỏ cùng bạn bè
đồng nghiệp, học sinh, gia đình đã động viên khích lệ và hỗ trỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng và cũng đã rất cẩn trọng trong quá trình
nghiên cứu song chắc sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót cần phải bổ sung.
Bởi vậy rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và những nhận xét quý báu
của quý thầy cô để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Phạm Thị Huyền
2
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCHTW : Ban chấp hành trung ương
BVMT : Bảo vệ môi trường
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
KHCNMT : Khoa học công nghệ môi trường
MN : Mầm non
MT : Môi trường
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TNMT : Tài nguyên môi trường
TNTT : Tài nguyên thiên nhiên
TTGDTX : Trung tâm giáo dục thường xuyên
3
DANH MỤC BẢNG
Trang
4
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môi trường, bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan
hệ mật thiết với nhau bao quanh con người, ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự
tồn tại và phát triển của con người. Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối
với đời sống con người và sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, dân
tộc. Ph.Ăngghen từng khẳng định: “Bản thân con người là sản phẩm của giới tự
nhiên, con người tồn tại trong môi trường tự nhiên và cùng phát triển với môi
trường tự nhiên”.
Thế nhưng hiện nay môi trường ở nước ta đang bị hủy hoại nghiêm trọng
gây nên sự mất cân bằng sinh thái. Sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm
môi trường cũng đã, đang diễn ra và ảnh hưởng đến cuộc sống của con người
một cách rất rõ ràng, đặc biệt là ở khu vực châu Á Thái Bình Dương - nơi cư trú
của hơn 4 tỷ người như tình trạng: Ô nhiễm không khí, nguồn nước, hạn hán,
bão lũ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ và quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa giúp cho cuộc sống của nhân loại hiện đại, văn minh hơn. Bên cạnh đó, từ
quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và do sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của
con người đã làm cho họ phải đối diện với những vấn đề môi trường, với những
ảnh hưởng nghiêm trọng của nó đến cuộc sống của con người. Chính bởi thế nên
bảo vệ môi trường là hoạt động mà xã hội loài người đã, đang và sẽ phải hành
động tích cực hơn nữa để giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, đảm bảo cân
bằng sinh thái. Ngăn chặn và khắc phục những hậu quả mà con người hay thiên
nhiên gây ra cho môi trường là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường vào chương trình giáo dục phổ thông. Ở các trường THPT, giáo dục ý
6
thức bảo vệ môi trường được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú như
lồng ghép, liên hệ, tích hợp vào các môn học khác nhau (Văn, Sử, Địa, Giáo dục
công dân, Lý, Hóa, Sinh ) hoặc thông qua các phong trào như phong trào xây
dựng Trường học xanh, sạch, đẹp. Tuy nhiên, nhận thức của nhiều học sinh
THPT về tầm quan trọng của môi trường, về bảo vệ môi trường vẫn có những
hạn chế nhất định. Công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường tuy bước đầu đạt
được những kết quả nhất định song nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Vì vậy, giúp cho học sinh THPT nhận thức được tầm quan trọng của môi trường
và biết cách bảo vệ môi trường để góp phần cải thiện, làm lành mạnh hóa môi
trường là vấn đề có tính cấp thiết hiện nay.
Chính vì lý do trên nên tác giả chọn vấn đề “Giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện
Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài Luận văn
Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề về môi trường, bảo vệ môi trường, các chính sách bảo vệ môi
trường gắn với sự tăng trưởng kinh tế bền vững được đề cập trong các văn kiện
quan trọng của các kỳ Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhất là trong các văn
kiện Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI. Trong văn kiện Đại hội X, Đảng ta
đã khẳng định: “Coi trọng việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi
trường trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội ”. Văn kiện Đại hội lần thứ XI xác
định: Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả
với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai phải nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường, gắn nhiệm vụ, mục tiêu bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã
hội.
Vấn đề về môi trường, bảo vệ môi trường được đề cập trong các Nghị
quyết, Chỉ thị, Quyết định của Đảng và Nhà nước như:
7
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về: Tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước; Quyết định
1363 QĐ - TTg ngày 17/10/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề
án: Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Quyết định này nhằm đưa ra nội dung phương hướng giáo dục bảo vệ môi
trường một cách toàn diện từ bậc mầm non đến bậc học THPT; Quyết định số
256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược bảo
vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Đặc biệt
Nghị quyết số 41 NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ CNH, HĐH. Các Quyết định, Chỉ thị đã đưa ra những quan
điểm, định hướng cơ bản, góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ từ các cấp các
ngành và nhân dân do đó mức độ suy thoái, ô nhiễm môi trường đã từng bước
được hạn chế. Đồng thời Chỉ thị, Nghị quyết cũng đã đánh giá mức độ và hiệu
quả đạt được của quá trình triển khai. Từ đó Chỉ thị Nghị quyết đã đề ra những
giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và nâng cao hiệu quả của công tác
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường.
Vấn đề bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi
khí hậu được đề cập trong các Quyết định, Nghị quyết gần đây như:
Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5/9/2012 phê duyệt chiến lược bảo vệ
môi trường quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Quyết định số
1393/QĐ-TTg ngày 5/10/2012 ban hành kế hoạch hành động quốc gia về biến
đổi khí hậu giai đoạn 2012 - 2020. Nghị quyết số 24-NQ /NQ/TW ngày
3/6/2013 Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 BCH TW khóa XI về chủ động ứng phó
với biến đổi khí hậu và tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường. Quyết định số 1570/QĐ-TTg ngày 06/09/2013 của thủ tướng chính phủ
về phê duyệt chiến lược khai thác sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi
trường đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030.
8
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra những quan điểm nhằm triển khai hoạt
động giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở tất cả các cấp học, bậc học trong thời
kỳ CNH, HĐH. Bởi vậy Bộ GD&ĐT đã có các công văn hướng dẫn, xây dựng
kế hoạch, triển khai thực hiện nhiệm vụ giáo dục ý thức bảo vệ môi trường như:
Chỉ thị số 02/2005/CT-Bộ GD&ĐT về việc tăng cường giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường. Công văn số 2535/Bộ GD&ĐT-KHCNMT về việc tổ chức các hoạt
động hưởng ứng ngày môi trường thế giới 5/6/2012. Công văn số 1070/Bộ
TNMT ngày 26/3/2013 của Bộ Tài nguyên và môi trường hướng dẫn xây dựng
kế hoạch bảo vệ môi trường trong các cơ sở giáo dục với nhiệm vụ: Đưa các nội
dung giáo dục ý thức bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân` Công
văn số 4071/Bộ GD&ĐT- KHCNMT về việc hướng dẫn xây dựng kế hoạch bảo
vệ môi trường năm 2014. Trong các công văn này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
chỉ đạo các cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước tổ chức triển khai các nhiệm
vụ về giáo dục ý thức bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ môi trường đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm, nghiên cứu và đã được đăng tải trên các tạp chí, xây dựng thành các đề tài
khoa học hoặc in thành sách như: Tác giả Nguyễn Am,“Chủ tịch Hồ Chí Minh
với bảo vệ môi trường và sinh thái” - Tạp chí Cộng sản số 10 năm 1996. Tác
giả Bùi Văn Dũng - “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường cho sự phát triển lâu bền” - Luận án Tiến sĩ Triết học năm 1999. Tác giả
Phạm Thành Dũng, “Môi trường và sinh thái - vấn đề của mọi người mọi nhà” -
Tạp chí giáo dục lý luận số 3 năm 1999. Tác giả Lê Thông - “Dân số, môi
trường, tài nguyên” - Nhà xuất bản giáo dục năm 2001. Tác giả Phạm Thị Ngọc
Trầm, “Môi trường sinh thái - vấn đề và giải pháp” - Nxb Chính trị Quốc gia.
Nhóm tác giả Phan Nguyên Hồng, Trần Thị Thu Hương, Nguyễn Phương Nga,
“Hỏi đáp về môi trường” - Nxb Giáo dục năm 2005. Tác giả Lê văn Khoa, “Môi
trường và ô nhiễm” - Nxb Giáo dục năm 2005. Tác giả Phạm Hồng Ban - “Bài
giảng môi trường và con người” - Trường Đại Học Vinh năm 2008. Tác giả
9
Nguyễn Thị Phương Thảo, năm 2009 Luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục,
Trường Đại Học Vinh “Những giải pháp cơ bản tăng cường giáo dục ý thức bảo
vệ môi trường cho thanh niên phường Cửa Nam và Đông Vĩnh ở thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An”. Tác giả Dương Thị Hiệp, năm 2012, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Giáo dục, Trường Đại Học Vinh “Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
cho học sinh THPT ở huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp”.
Như vậy, chúng ta thấy mặc dù vấn đề về môi trường và giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường đã được Đảng, Nhà nước và ngành GD&ĐT hết sức quan
tâm và cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng do đặc điểm điều kiện tự
nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của mỗi vùng miền khác nhau nên công tác
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong thời gian qua chưa làm cho học sinh
hiểu biết một cách sâu sắc và đầy đủ về chủ trương chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, cũng như kiến thức về môi trường để các em có thể tự giác
thực hiện. Hiện nay công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh
THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung và học sinh THPT trên địa bàn
huyện Nghĩa Đàn nói riêng chưa có tác giả nào đề cập đến.
Trên cơ sở các công trình nêu trên, tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài của
mình, qua đó giúp học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung và học
sinh huyện Nghĩa Đàn nói riêng hiểu biết sâu sắc bản chất của vấn đề bảo vệ
môi trường, từ đó nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, biết bảo vệ, giữ gìn và sử
dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên để có thể góp phần tham gia có
hiệu quả việc phòng ngừa và giải quyết các vấn đề về môi trường.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường của học sinh THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An, luận
văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho học
sinh THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn trong giai đoạn hiện nay.
10
3.2. Nhiệm vụ
- Chỉ ra cơ sở lý luận của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học
sinh THPT.
- Làm rõ thực trạng nhận thức bảo vệ môi trường của học sinh THPT và
hoạt động giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh ở các trường THPT
trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý
thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT ở huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Các quan điểm, chủ trương
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho học sinh; Các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
- Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu như:
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp;
+ Phương pháp lịch sử - logic;
+ Phương pháp thống kê và khảo sát thực tiễn;
+ Phương pháp thu thập thông tin;
+ Phương pháp điều tra xã hội học
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học
sinh THPT.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, khảo sát vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho học sinh khối 10 và khối 11 của các trường THPT trên địa bàn huyện
Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An.
6. Ý nghĩa của luận văn
11
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý
thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT.
- Luận văn còn góp phần làm rõ thực trạng ý thức bảo vệ môi trường của
học sinh THPT ở huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho công tác giáo ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh THPT trong
giai đoạn hiện nay.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu làm rõ được cơ sở lý luận, thực tiễn và đề ra được các giải pháp phù
hợp sẽ góp phần nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh ở các
trường THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An nói riêng và ở các
trường THPT khác trong cả nước nói chung.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
gồm 2 chương, 4 tiết.
12
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở HUYỆN NGHĨA ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học
sinh trung học phổ thông
1.1.1. Môi trường và ý thức bảo vệ môi trường
1.1.1.1. Khái niệm môi trường
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” của Hoàng Phê tác giả đã định nghĩa:
“Môi trường là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con
người hay một sinh vật tồn tại phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh
vật ấy” [27;635].
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đưa ra khái niệm: “Môi trường bao gồm
các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau bao
quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại phát triển của
con người với thiên nhiên” [22;8]. Theo tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan trong cuốn
“Môi trường tự nhiên trong hoạt động sống của con người” cho rằng: “Môi
trường tự nhiên là một tổng hòa những yếu tố tự nhiên vô cơ và hữu cơ, có ý
nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của mọi sinh vật” [21;20]. Trong
cuốn “Môi trường và tài nguyên Việt Nam”. Tác giả Nguyễn Ngọc Sinh quan
niệm: “Môi trường tự nhiên là bao gồm các yếu tố tự nhiên và phi tự nhiên, tồn
tại, vận động và phát triển gắn bó hữu cơ trong một cơ thể thống nhất, có ảnh
13
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, xấu hoặc tốt đến con người. Và chính con người
cũng là một yếu tố môi trường quan trọng tác động tới quá trình vận động và phát
triển của chủ thể của nó” [29;7] Như vậy ta thấy tuy cách định nghĩa của các tác
giả có khác nhau nhưng đều đã khẳng định môi trường tự nhiên, các hiện tượng tự
nhiên, các tài nguyên thiên nhiên trong sự thống nhất với nền sản xuất xã hội.
Trong môi trường tự nhiên, giữa các yếu tố tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên, các
tài nguyên thiên nhiên thường xuyên có sự tác động qua lại với nhau và có những
ảnh hưởng nhất định đối với sự tồn tại và phát triển của mọi sinh vật. Nếu một
yếu tố nào đó thay đổi tất yếu kéo theo sự thay đổi của các yếu tố khác.
Theo định nghĩa của UNESCO (Tổ chức văn hóa - khoa học và giáo dục
của liên hợp quốc), (1981) môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ
thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, như (tập quán, niềm tin )
trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và
nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình và trong giáo trình “Bài
giảng môi trường và con người” của Tiến sĩ Phạm Hồng Ban - Trường Đại học
Vinh. Môi trường là: “Tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh
sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước,
ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội ” [2;3]. Tóm lại, môi trường là tất cả
những gì có sung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển. Môi trường sống
của con người được chia thành:
- Môi trường tự nhiên: Bao gồm các yếu tố thiên nhiên như, mặt trời, khí
quyển, thời tiết, khí hậu, biển cả, sông ngòi, ao, hồ, đồi núi, đất đai, động thực
vật, vi sinh vật, con người Môi trường này tồn tại khách quan độc lập với ý
thức của con người nhưng ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Mọi hoạt
động hàng ngày của con người đều liên quan đến môi trường như: Ăn, uống, hít
thở không khí, nhà ở, điều kiện vui chơi giải trí Như C.Mác nói: Về mặt thể
xác con người chỉ sống bằng những sản phẩm tự nhiên ấy, dù là dưới hình thức
thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở Về mặt thực tiễn tính phổ biến của con
14
người biểu hiện ra ở chính cái phổ biến toàn bộ giới tự nhiên thành thân thể vô
cơ của con người. Như vậy môi trường tự nhiên gắn liền với cuộc sống của con
người chi phối mọi hoạt động của con người, tách khỏi môi trường ấy con người
không thể tồn tại được.
- Môi trường xã hội: Là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định Ở các mức độ khác nhau như: Liên
Hợp Quốc, Hiệp hội các nước các quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã Môi
trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất
định tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển làm cho cuộc sống con
người khác với các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm
tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành tiện nghi phục vụ cho cuộc
sống của con người như: Ô tô, xe máy, nhà ở, công sở, các khu đô thị, công viên
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh con người, cho con
người cuộc sống. sự phát triển Bởi thế môi trường có những chức năng cơ
bản sau:
- Thứ nhất: Môi trường là không gian sống của con người và các loài
sinh vật:
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi con người đều cần có một không gian nhất
định để phục vụ cho hoạt động sống như: Nhà để ở và nghỉ ngơi, đất để sản xuất,
kho tàng, bến cảng Trung bình mỗi ngày, mỗi người đều cần khoảng 4m
2
không
khí để thở, 2,5l nước để uống, một lượng lương thực thực phẩm tương ứng khoảng
2000 - 2400 kalo để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển như vậy chức năng này
đòi hỏi môi trường phải có phạm vi không gian thích hợp cho con người.
- Thứ hai: Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên rất cần thiết cho cuộc
sống và hoạt động sản xuất của con người: Trong lịch sử phát triển, loài người
đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ thấp cho đến cao. Bắt đầu từ khi con
người biết canh tác vào thời kỳ đồ đá cho đến khi con người phát minh ra máy
15
hơi nước vào thế kỷ XVIII, đánh dấu cho sự khởi đầu của cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật trong mọi lĩnh vực. Xét về bản chất thì mọi hoạt động của con
người để duy trì cuộc sống đều nhằm vào việc khai thác các hệ thống sinh thái
tự nhiên thông qua hoạt động lao động của con người.
Sự hỗ trợ của các hệ thống sinh thái, con người lấy từ thiên nhiên những
nguồn tài nguyên cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất nhằm tạo ra của cải
vật chất đáp ứng cho những nhu cầu của mình. Như vậy thiên nhiên là nơi cung
cấp mọi nguồn tài nguyên cần thiết. Nó cung cấp nguồn vật liệu, năng lượng,
thực tế nhu cầu của con người về các nguồn tài nguyên không ngừng tăng lên cả
về số lượng và chất lượng.
- Thứ ba: Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo
ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.
Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của cải vật chất, con người luôn thải
ra môi trường các loại chất thải. Tại đây các chất thải dưới tác động của các vi
sinh vật và các yếu tố môi trường khác sẽ bị phân hủy và biến đổi từ phức tạp
đến đơn giản và tham gia vào hàng loạt các quá trình sinh địa hóa phức tạp khác.
Trong thời kỳ còn sơ khai khi dân số nhân loại còn ít chủ yếu còn do quá trình
phân hủy tự nhiên làm cho chất thải sau một thời gian biến đổi nhất định lại trở
lại trạng thái nguyên liệu tự nhiên. Sự gia tăng dân số thế giới nhanh chóng cộng
với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho số lượng chất thải tăng lên
không ngừng dẫn đến ở nhiều nơi nhiều chỗ trở nên quá tải, gây ô nhiễm môi
trường làm cho chất lượng môi trường giảm sút và môi trường ngày càng bị ô
nhiễm nặng nề.
- Thứ tư: Môi trường là nơi cung cấp và lưu giữ thông tin cho con người.
Môi trường là nơi cung cấp và lưu trữ lịch sử địa chất, lịch sử tiến hóa của
vật chất và sinh vật, lịch sử xuất hiện và phát triển của văn hóa loài người.
16
Môi trường là nơi cung cấp các thông tin, tín hiệu báo động sớm các
hiểm họa đối với con người và sinh vật sống trên trái đất như: bão lũ, động
đất, núi lửa
Môi trường còn là nơi lưu trữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các
nguồn gen, các loài động vật, thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các
vẻ đẹp, cảnh quan, có giá trị thẩm mỹ, tôn giáo, văn hóa khác
Ngoài ra môi trường còn mang đầy đủ những đặc trưng riêng của nó:
- Một là: Tính cấu trúc phức tạp. Hệ thống môi trường bao gồm nhiều thành
phần hợp thành. Các thành phần đó có bản chất khác nhau (tự nhiên, kinh tế, dân
cư, xã hội ) và bị chi phối bởi các quy luật khác nhau, đôi khi đối lập nhau.
- Hai là: Tính động. Hệ thống môi trường không phải là một hệ tĩnh, mà
luôn luôn thay đổi trong cấu trúc của nó, trong quan hệ tương tác giữa các thành
phần cơ cấu và trong từng thành phần cơ cấu. Bất kỳ một sự thay đổi nào của hệ
thống đều làm cho nó lệch khỏi trạng thái cân bằng trước đó và hệ thống đó lại
có su hướng lập lại thế cân bằng mới. Vì thế, cân bằng động là một đặc tính cơ
bản của môi trường với tư cách là một hệ thống. Đặc tính đó cần được tính đến
trong hoạt động tư duy và trong tổ chức thực tiễn của con người.
- Ba là: Tính mở. Môi trường dù với quy mô lớn hay nhỏ đến như thế nào
đi nữa cũng đều là một hệ thống mở. Các dòng vật chất, năng lượng và thông tin
vẫn liên tục chảy trong không gian và thời gian. Vì thế, các vấn đề môi trường
mang tính vùng, tính toàn cầu, tính lâu dài và cần được giải quyết bằng nỗ lực
của toàn thể cộng đồng, bằng sự hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực trên thế
giới với một tầm nhìn xa, trông rộng vì lợi ích của thế hệ hôm nay và của các thế
hệ mai sau.
- Bốn là: Khả năng tự tổ chức và tự điều chỉnh. Trong hệ thống môi
trường, có các thành phần cơ cấu là vật chất sống hoặc là các sản phẩm của
chúng. các thành phần này có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự
điều chỉnh để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo quy luật tiến hóa.
17
Đặc tính cơ bản này của hệ thống môi trường quy định tính chất, mức độ, phạm
vi can thiệp của con người, đồng thời tạo mở hướng giải quyết căn bản, lâu dài
cho các vấn đề môi trường bức bách hiện nay.
1.1.1.2. Ý thức bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường: Là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành,
sạch, đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc
phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai
thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Bảo vệ môi trường tức là bảo vệ môi trường sinh tồn của loài người khỏi bị
ô nhiễm và phá hoại, đồng thời bảo vệ tốt các loài sinh vật trong giới tự nhiên.
Bảo vệ môi trường tức là bảo vệ sức sản xuất. Môi trường sản xuất, môi
trường xã hội và môi trường sinh thái tốt đẹp chính là cơ sở của sự phát triển kinh
tế - xã hội. Nếu cơ sở này bị phá hoại thì không những sẽ ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế mà còn ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội. Nói cách khác, bảo vệ
môi trường là “một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại ”. Chính vì vậy
bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sống hàng ngày của con người.
Ý thức bảo vệ môi trường: Là ý thức của cá nhân trong việc giữ gìn và bảo
vệ môi trường. Từ việc ý thức được vai trò của môi trường đối với cuộc sống
đến việc chuyển ý thức thành hành động cụ thể trong việc bảo vệ môi trường.
Từ đó có những hành động và cách ứng xử văn minh với môi trường, biết yêu
quý và giữ cho môi trường trong lành, đồng thời biết sống có trách nhiệm với
môi trường. Chúng ta không thể hoàn thành được sứ mệnh này nếu tồn tại một
số cá nhân không có ý thức bảo vệ môi trường. Sức mạnh to lớn nhất đó chính là
sự đồng lòng, chung tay và quyết tâm vì một hành tinh xanh, sạch - ngôi nhà
chung của nhân loại. Để thức tỉnh được ý thức của tất cả mọi người chúng ta cần
sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để gửi các thông điệp, hình ảnh
đến với tất cả mọi người. Bên cạnh đó cần đến sự hỗ trợ của các phương tiện
18
truyền thông khác như: Báo chí, đài phát thanh, treo các áp phích, băng rôn
Nhằm mục đích kêu gọi mọi người dân một cách tích cực.
Ta biết rằng ngày nay xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và
tinh thần của con người ngày càng được nâng lên. Nhưng đối lập với nó là môi
trường ngày càng bị ô nhiễm, diễn biến của môi trường ngày càng phức tạp
khôn lường đe dọa trực tiếp đến đời sống của con người. Bảo vệ môi trường là
vấn đề sống còn, không chỉ là trách nhiệm của bất kỳ quốc gia, cơ quan, tổ chức
hay cá nhân riêng biệt nào, mà nó là trách nhiệm, là bổn phận của tất cả các sinh
vật sống, tồn tại và phát triển trên hành tinh này. Bởi vậy giải pháp hữu hiệu
nhất là xây dựng ý thức bảo vệ môi trường cho mọi người, để ý thức bảo vệ môi
trường ăn sâu vào tâm trí của mọi người.
Bởi thế ngay trong học đường chúng ta cần đẩy mạnh việc giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường. Nên đưa vào chương trình những bài học, kiến thức về bảo
vệ môi trường, giáo dục các em một cách khoa học và thiết thực hơn. Trong các
hoạt động đoàn thể phải lấy việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường làm một
trong những tiêu chí hoạt động. Khi cá nhân đã ý thức được thì ý thức đó phải
được nâng lên thành hành động cụ thể thông qua những việc làm cụ thể. Các tổ
chức, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và nhà trường cần phải hỗ trợ, động
viên, thúc đẩy để mọi người tích cực trong việc bảo vệ môi trường.
Thực tế trong xã hội hiện nay rác thải là một trong những vấn đề lớn. Vì
vậy, cần phải kêu gọi mọi người nghiêm chỉnh thực hiện giữ gìn vệ sinh chung.
Ngoài ra, các cơ quan đoàn thể, doanh nghiệp cần nên có những chính sách thực
hiện và hưởng ứng nghiêm chỉnh, vận động và kêu gọi cán bộ công nhân viên
cùng tham gia như: Tổ chức quyên góp quỹ bảo vệ môi trường, tắt các thiết bị
không cần thiết và hạn chế trong việc sử dụng các thiết bị như máy lạnh hay
điều hòa. Ngoài ra chúng ta cũng có thể vận động toàn dân phủ xanh trái đất
bằng việc tích cực trồng cây xanh, kêu gọi mỗi người hạn chế sử dụng bao
nilong và các vật dụng khác ảnh hưởng đến môi trường
19
Đích cuối cùng mà chúng ta vươn tới đó chính là ý thức bảo vệ môi trường
của tất cả mọi người. Bởi vậy ngay từ bây giờ chúng ta cần phải xây dựng ý thức
bảo vệ môi trường để ý thức đó nhanh chóng lan tỏa khắp mọi nơi trên hành tinh
của chúng ta.
1.1.1.3. Nội dung giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh trung
học phổ thông
Chúng ta đều biết rằng bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề
mang tính sống còn của đất nước, là một trong những yếu tố quyết định đến sự
phát triển bền vững, liên quan chặt chẽ đến sự phát triển kinh tế xã hội, môi
trường còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất giống nòi. Bởi thế,
giáo dục môi trường và giáo dục ý thức bảo vệ môi trường là việc làm cấp
thiết, thường xuyên.
+ Giáo dục môi trường: Giáo dục môi trường là quá trình xây dựng cho
con người kiến thức và mối quan tâm sâu sắc về môi trường, để từ đó giúp con
người có đầy đủ kiến thức, thái độ, kỹ năng đối với môi trường.
Định nghĩa về môi trường thường được gắn liền với mục tiêu của giáo dục
môi trường. Định nghĩa này thường được chấp nhận một cách phổ biến nhất do
Hội nghị Quốc tế về giáo dục môi trường của Liên hiệp quốc tổ chức tại Tbilisi
1977 đưa ra. Theo Hội nghị này thì giáo dục môi trường là. Làm cho cá nhân và
cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của môi trường tự nhiên và môi trường
nhân tạo, là kết quả tương tác của nhiều nhân tố sinh thái học, xã hội, kinh tế và
văn hóa: Đem lại cho họ kiến thức, nhận thức về giá trị thái độ, kỹ năng thực
hành để họ tham gia một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong phòng ngừa và
giải quyết những vấn đề về môi trường và quản lý chất lượng môi trường.
Trên cơ sở đó hội nghị đã đề ra các mục tiêu cụ thể về giáo dục ý thức bảo
vệ môi trường, sự nhạy cảm đối với môi trường và những vấn đề có liên quan.
- Về kiến thức: Giúp tích lũy được nhiều kinh nghiệm khác nhau và có
được những hiểu biết căn bản về môi trường và những vấn đề có liên quan.
20
- Về thái độ: Hình thành được những giá trị và ý thức quan tâm đến môi
trường, cũng như động cơ thúc đẩy trong việc tham gia tích cực vào việc bảo vệ
và cải thiện môi trường.
- Về kỹ năng: Giúp cho các đoàn thể xã hội và cá nhân có được những kỹ
năng trong việc xác định và giải quyết các vấn đề về môi trường.
- Về sự tham gia các hoạt động thực tiễn: Tạo cơ hội cho các đoàn thể và
các cá nhân tham gia một cách tích cực ở mọi cấp trong việc giải quyết các vấn
đề về môi trường.
Giáo dục môi trường tập trung vào các đối tượng ở mọi lứa tuổi, nhưng
quan tâm hơn cả là đối tượng học sinh. Đặc biệt đối với học sinh trung học phổ
thông thì việc giáo dục môi trường cho các em là việc làm mang tính cần thiết
và thời sự.Với đối tượng này thì việc giáo dục môi trường có thể thông qua các
môn học, các hoạt động trong nhà trường nhằm để trang bị cho các em những
kiến thức cơ bản về: Yếu tố môi trường, vai trò của môi trường đối với con
người và tác động ngược lại của con người đối với môi trường, phát triển kỹ
năng bảo vệ và gìn giữ môi trường nơi học sinh đang học tập và sinh sống tại gia
đình. Đây là những việc làm góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho
học sinh nhằm giúp các em nhận thức được sự cần thiết phải có trách nhiệm giữ
gìn vệ sinh trường học, lớp học tạo cảnh quan trường học thật sự xanh - sạch -
đẹp để mọi người được hít thở không khí trong lành.
+ Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
Chúng ta biết rằng quá trình tồn tại và phát triển của con người luôn luôn
gắn bó mật thiết với tự nhiên bởi chúng ta đều sinh ra trong môi trường tự nhiên,
tồn tại và phát triển trong môi trường tự nhiên. Tuy nhiên xã hội càng phát triển
bao nhiêu thì nhu cầu dựa vào tự nhiên, khai thác các yếu tố của tự nhiên của con
người lại càng lớn bấy nhiêu và song song với quá trình đó con người đã vi phạm
các quy luật của tự nhiên, làm cho các quy luật của tự nhiên mất dần sự cân bằng,
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người. Môi trường nước, đất, khí
21
quyển đều bị ô nhiễm nặng nề. Các nguồn tài nguyên có nguy cơ bị cạn kiệt do
khai thác bừa bãi, thời tiết, khí hậu thất thường như: lũ lụt, hạn hán, băng tan
Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu đã trở thành vấn đề nóng bỏng của
cả nhân loại như lời phát biểu của trưởng phái đoàn Philipin tại COP 19 diễn ra
ở Balan: “Nếu không phải chúng ta thì là ai? Nếu không phải bây giờ thì là bao
giờ ? Nếu không phải ở đây thì ở đâu ?”.
Như vậy, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của tất cả các quốc gia, dân
tộc, là lương tâm, là đạo đức của mỗi người. Bởi thế để cứu lấy môi trường cứu
lấy trái đất của chúng ta cần phải đẩy mạnh việc giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho mọi người.
Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên là vấn đề cần thiết và cấp
bách nhất, đây vừa là quyền, nghĩa vụ và là trách nhiệm của tất cả mọi người vì
vậy những hành vi gây tổn hại cho môi trường cần phải được nghiêm trị theo
quy định của pháp luật. Bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của con người.
Hiện nay, tình hình biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường đã đến mức
báo động gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của một bộ phận lớn dân cư
trên thế giới mà nguyên nhân là do sự thiếu hiểu biết về môi trường và giáo dục
ý thức bảo vệ môi trường đã gây nên sự suy thoái và ô nhiễm môi trường. Do đó
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường phải là một trong những nội dung giáo dục
quan trọng nhằm đào tạo những con người có đạo đức về môi trường và biết xử
lý các vấn đề về môi trường trong thực tiễn.
Ở nước ta, chương trình giáo dục ý thức bảo vệ môi trường đã được triển
khai ở các bậc học; từ mầm non đến đại học. Riêng đối với chương trình giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh trung học phổ thông tập trung vào
những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quá trình giáo dục nhằm giúp học sinh nhận thức được ý nghĩa,
tầm quan trọng của các vấn đề môi trường như một nguồn lực để sống, lao động
và phát triển của mỗi cá nhân, cộng đồng quốc gia và quốc tế. Từ đó có thái độ,
22
cách cư xử đúng đắn các vấn đề về môi trường, xây dựng quan niệm đúng về ý
thức trách nhiệm, về giá trị nhân cách để dần hình thành kỹ năng thu thập dữ
liệu và phát triển sự đánh giá thẩm mỹ.
Thứ hai: Giúp học sinh hiểu biết bản chất các vấn đề môi trường: Tính
phức tạp, quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều, tính hữu hạn của tài nguyên thiên
nhiên và khả năng chịu tải của môi trường, quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và
sự phát triển, giữa môi trường địa phương, vùng, quốc gia với môi trường khu
vực và toàn cầu.
Thứ ba: Giúp học sinh có tri thức, kỹ năng, phương pháp, hành động để
nâng cao năng lực lựa chọn phong cách sống thích hợp với việc sử lý hợp lý và
khôn ngoan các nguồn tài nguyên thiên nhiên, có thể tham gia có hiệu quả vào
việc phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường bằng những hành động cụ
thể tại nơi sinh sống và học tập.
Thứ tư: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường gắn với việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh. Bởi để hiệu quả giáo dục môi trường được bền vững thì phải
hình thành cho các em những thói quen tốt những kỹ năng sống liên quan đến
bảo vệ môi trường như: Giáo dục các em thói quen đổ rác đúng nơi quy định,
khi thấy người khác bỏ rác không đúng nơi quy định thì ngay lập tức lịch sử
nhắc nhở.
Thứ năm: Gắn việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường với việc tuyên
truyền phổ biến pháp luật trong nhà trường như luật bảo vệ môi trường, luật đa
dạng sinh học
Ngoài những nội dung trên thì theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cần tuân theo các nguyên tắc sau:
Một là: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường không phải là ghép thêm vào
chương trình môn học như một bộ môn riêng biệt hay một chủ đề nghiên cứu mà
nó là một hướng hội nhập vào chương trình. Giáo dục bảo vệ môi trường là cách
tiếp cận xuyên bộ môn.
23