Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Thực tiễn thực hiện quyền bầu cử, ứng cử của công dân tại địa phương anh/ chị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.75 KB, 28 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Quyền bầu cử là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp, pháp luật quy
định nhằm bảo đảm cho mọi công dân có đủ điều kiện thực hiện việc lựa chọn
người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền của công dân
không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Bầu cử là một thể chế dân chủ đã có từ lâu. Nhà nước ta là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân tổ chức ra Nhà nước bằng cách
bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nước. Thông qua bầu cử, nhân dân trực tiếp bỏ
phiếu bầu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình, để
thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước, góp phần thiết lập ra bộ máy nhà
nước để tiến hành các hoạt động quản lý xã hội.
Qua thời gian học tập ở Trường và thực tập tại UBND phường Hàng Trống
đã giúp em nhận thức được những nhiệm vụ, hoạt động của UBND phường.
Nhưng điều em tâm đắc nhất là thấy được thực thiễn thực hiện quyền bầu cử, ứng
cử của công dân để hiểu rõ hơn về bài học và nhìn nhận được những thiếu sót trong
quá trình công tác nhằm hoàn thành tốt công việc được giao. Để đánh giá đúng
thực trạng tình hình và đề ra những giải pháp phù hợp, em chọn đề tài số 34:
“Thực tiễn thực hiện quyền bầu cử, ứng cử của công dân tại địa phương anh/
chị.”làm báo cáo thực tập.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN BẦU CỬ


1. Khái quát về bầu cử và thực hiện quyền bầu cử:
1.1. Khái niệm về bầu cử:
Bầu cử là phương thức lựa chọn người làm đại biểu, thay mặt thực hiện
quyền lực nhà nước trong các xã hội dân chủ theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Cử tri bỏ phiếu lựa chọn người đại diện cho mình vào cơ
quan quyền lực nhà nước, chế định quan trọng của luật nhà nước, thể hiện quyền
cơ bản của công dân tham gia xây dựng chính quyền nhân dân. Luật bầu cử đại
biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân quy định bầu cử theo nguyên tắc phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Quy định quyền bầu cử, ứng cử của công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên
có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trừ những người mất trí và những người bị pháp
luật hoặc tòa án nhân dân tước các quyền đó. Quy định tiêu chuẩn, số lượng đại
biểu; nguyên tắc tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử; cách thức
tổ chức bầu cử; giám 1sát,…
1.2.
Khái niệm về thực hiện quyền bầu cử:
Khái niệm bầu cử trong pháp luật được dùng chủ yếu cho quyền bầu cử.
Quyền bầu cử bao gồm quyền chủ động bỏ phiếu bầu ra những người đại diện cho
mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, quyền được ứng cử và quyền có thể
được bầu vào các cơ quan quyền lực của nhà nước. Các quyền này hết sức gắn bó

1 />
ban-cua-cong-dan-40960.html truy cập ngày 26/4/2019.

3



với nhau vì khi được giới thiệu ra ứng cử đại biểu thì mới có cơ hội trở thành đại
biểu trúng cử.
Quyền bầu cử là một quyền quan trọng của công dân trong lĩnh vực chính trị
cho nên pháp luật bầu cử chỉ quy định cho những công dân Việt Nam mà không
quy định cho các công dân nước ngoài và những người không có quốc tịch đồng
thời công dân phải đạt mức tuổi trưởng thành nhất định theo quy định của pháp
luật mới được tham gia bầu cử.
Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản quyền bầu cử là quy định của pháp
luật về khả năng của công dân thực hiện quyền lựa chọn người đại biểu của mình
vào cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền bầu cử bao gồm việc đề cử, giới thiệu
người ứng cử và bỏ phiếu, tức là quyền chủ động trong lựa chọn của công dân.
1.3.
Nội dung của bầu cử:
Căn cứ vào Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
2016 thì nội dung cơ bản của bầu cử bao gồm các nội dung sau:
1- Về nguyên tắc bầu cử
Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân
dân2015, việc bầu cử đại biểu QH và bầu cử đại biểu HĐND được tiến hành theo 4
nguyên tắc: Phổ thông; Bình đẳng; Trực tiếp và Bỏ phiếu kín. Đây cũng là những
tư tưởng chỉ đạo trong việc tổ chức bầu cử, thể hiện bản chất dân chủ của Nhà
nước ta.
2- Về tuổi bầu cử và tuổi ứng cử
Theo Điều 2 của Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân
dân 2015, tuổi bầu cử và tuổi ứng cử được tính như sau: Tính đến ngày bầu cử
được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ 18 (mười
tám tuổi) trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 (hai mươi mốt tuổi) trở lên có quyền
ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.2
3- Về tiêu chuẩn người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân
2Luật bầu cử đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân năm 2015.


4


-

Khoản 1 Điều 3 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân 2015,
người ứng cử đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội
quy định tại Luật tổ chức Quốc hội, cụ thể gồm 05 tiêu chuẩn sau đây:
Thứ nhất, Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực
hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Thứ hai, Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi
phạm pháp luật khác.
Thứ ba, Có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh
nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.
Thứ tư, Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân,

-

được Nhân dân tín nhiệm.
Thứ năm, Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.
Về tiêu chuẩn của đại biểu HĐND, Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội
đồng nhân dân 2015 quy định tiêu chuẩn của người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại Luật
tổ chức chính quyền địa phương, cụ thể, bao gồm 04 tiêu chuẩn sau đây:
Thứ nhất, Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực
hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh.
Thứ hai, Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi
phạm pháp luật khác.
Thứ ba, Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh
nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia
các hoạt động của Hội đồng nhân dân.

5


Thứ tư, Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân,
được Nhân dân tín nhiệm.
4- Về ngày bầu cử, Điều 5 của Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội
đồng nhân dân 2015 quy định ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Ủy ban
Thường vụ QH ấn định và công bố chậm nhất là 115 ngày, trước ngày bầu cử.
5- Về lập danh sách cử tri:
- Điều 29 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân
2015, 05 nguyên tắc lập danh sách cử tri bao gồm:
(i) Mọi công dân có quyền bầu cử đều được ghi tên vào danh sách cử tri
và được phát thẻ cử tri, trừ các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật
này.
(ii) Mỗi công dân chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình
thường trú hoặc tạm trú.
(iii) Cử tri là người tạm trú và có thời gian đăng ký tạm trú tại địa phương
chưa đủ 12 tháng, cử tri là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên
vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh, cấp huyện ở nơi tạm trú hoặc đóng quân.
(iv) Công dân Việt Nam ở nước ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời

gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ
phiếu 24 giờ, thì đến Ủy ban nhân dân cấp xã xuất trình Hộ chiếu có ghi quốc tịch
Việt Nam để được ghi tên vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri bầu đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (nếu xuất trình tại
nơi đăng ký thường trú) hoặc bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện (nêu xuất trình tại nơi đăng ký tạm trú).
(v) Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào
danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
6


- Theo Điều 30 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân
dân 2015, những trường hợp không được ghi tên, xóa tên hoặc bổ sung tên vào
danh sách cử tri bao gồm:
(i) Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành
án, người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất
năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri.
(ii) Người thuộc các trường hợp trên nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ
phiếu 24 giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả lại tự do hoặc được cơ
quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân
sự thì được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri theo quy định3
(iii)Trong thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến
trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, những người thay đổi nơi thường trú ra
ngoài đơn vị hành chính cấp xã nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì được
xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi cư trú cũ và bổ sung vào danh sách cử tri tại
nơi thường trú mới để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,

cấp huyện, cấp xã; những người chuyển đến tạm trú ở nơi khác với đơn vị hành
chính cấp xã mà mình đã được ghi tên vào danh sách cử tri và có nguyện vọng
tham gia bầu cử ở nơi tạm trú mới thì được xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi cư
trú cũ và bổ sung vào danh sách cử tri tại nơi tạm trú mới để bầu đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
(iv) Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, nếu đến
trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ mà được trả tự do hoặc đã hết thời gian
giáo dục bắt buộc, cai nghiện bắt buộc thì được xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi
có trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, được bổ sung
vào danh sách cử tri tại nơi đăng ký thường trú để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu
3 truy cập ngày 27/4/2019.

7


Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã hoặc được bổ sung vào danh sách,
cử tri tại nơi đăng ký tạm trú để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện.
(v) Người đã có tên trong danh sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ
phiếu bị Tòa án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt tù hoặc mất năng lực
hành vi dân sự thì Ủy ban nhân dân cấp xã xóa tên người đó trong danh sách cử tri
và thu hồi thẻ cử tri.
6- Những trường hợp không được ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
-

đồng nhân dân.
Theo quy định tại Điều 37 của Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng
nhân dân 2015, những trường hợp không được ứng cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân gồm:4

Thứ nhất, Người đang bị tước quyền ứng cử theo bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang chấp hành hình phạt tù, người bị hạn
chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, Người đang bị khởi tố bị can.
Thứ ba, Người đang chấp hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án.
Thứ tư, Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Tòa án
nhưng chưa được xóa án tích.
Thứ năm, Người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường,

-

thị trấn.
7- Về vận động bầu cử:
Theo Điều 63 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân 2015,
vận động bầu cử được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, Việc vận độ ng bầu cử được tiến hành dân chủ, công khai, bình
đẳng, đúng pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Thứ hai, Người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân ở đơn vị bầu cử nào thì thực hiện vận động bầu cử tại đơn vị bầu cử đó.
4 truy cập ngày 29/4/2019.

8


Thứ ba, Các tổ chức phụ trách bầu cử và thành viên của các tổ chức này
-

không được vận động cho người ứng cử.
Về hình thức vận động bầu cử, Điều 65 Luật bầu cử 2015 quy định việc vận động

bầu cử của người ứng cử được tiến hành bằng các hình thức: (i) Gặp gỡ, tiếp xúc
với cử tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri ở địa phương nơi mình ứng cử theo quy định;
(ii) Thông qua phương tiện thông tin đại chúng theo quy định.
8- Những hành vi bị cấm trong vận động bầu cử:
- Theo quy định Điều 68 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội
đồng nhân dân 2015 các hành vi bị cấm trong bầu cử bao gồm:
(i) Lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp
luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của tổ chức, cá nhân khác.
(ii) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng phương tiện thông tin đại
chúng trong vận động bầu cử.
(iii) Lợi dụng vận động bầu cử để vận động tài trợ, quyên góp ở trong
nước và nước ngoài cho tổ chức, cá nhân mình.
(iv) Sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất

-

để lôi kéo, mua chuộc cử tri.
9- Về tiếp xúc cử tri
Theo Điều 66 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân 2015,
chương trình hội nghị tiếp xúc cử tri gồm các nội dung sau đây:
(i) Tuyên bố lý do;
(ii) Đại diện Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ
chức hội nghị tiếp xúc cử tri chủ trì cuộc tiếp xúc cử tri, giới thiệu và đọc tiểu sử
tóm tắt của người ứng cử;
(iii) Từng người ứng cử báo cáo với cử tri về chương trình hành động của
mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân;
(iv) Cử tri nêu ý kiến, đề đạt nguyện vọng của mình với những người ứng
cử. Người ứng cử và cử tri trao đổi dân chủ, thẳng thắn và cởi mở những vấn đề
cùng quan tâm;

(v) Người chủ trì hội nghị phát biểu ý kiến kết thúc hội nghị.
10- Nguyên tắc bỏ phiếu:
9


-

Theo Điều 69 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân 2015,
việc bỏ phiếu được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ
một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp Hội đồng nhân
dân.
Thứ hai, Cử tri phải tự mình, đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu
cử thay, trừ trường hợp được phép theo quy định; khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử
tri.
Thứ ba, Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết
hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của
cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác
bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Thứ tư, Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến
phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở,
chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử
tri là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc,
cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là
người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu
bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
Thứ năm, Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên
Tổ bầu cử.

Thứ sáu, Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác.
Thứ bảy, Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu

-

“Đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri.
Thứ tám, Mọi người phải tuân theo nội quy phòng bỏ phiếu.
11- Việc kiểm phiếu:
Theo quy định tại Điều 73 của Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng
nhân dân 2015,việc kiểm phiếu tiến hành như sau:
10


(i) Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi
cuộc bỏ phiếu kết thúc.
(ii) Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải thống kê, lập biên bản, niêm
phong số phiếu bầu không sử dụng đến và phải mời hai cử tri không phải là người
ứng cử chứng kiến việc kiểm phiếu.
(iii) Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng
cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại
về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí được chứng kiến việc kiểm phiếu.
12- Về phiếu bầu không hợp lệ:
Theo quy định tại Điều 74 của Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội
đồng nhân dân 2015, phiếu bầu không hợp lệ bao gồm các trường hợp sau:
(i) Phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát ra;
(ii)Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử;
(iii) Phiếu để số người được bầu nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã
ấn định cho đơn vị bầu cử;
(iv) Phiếu gạch xóa hết tên những người ứng cử;
(v)Phiếu ghi thêm tên người ngoài danh sách những người ứng cử hoặc

phiếu có ghi thêm nội dung khác.
13- Về xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử: Điều 95 Luật bầu cử đại biểu
quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân 2015 quy định về xử lý vi phạm pháp luật
về bầu cử như sau:
Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại
việc bầu cử, ứng cử của công dân; vi phạm các quy định về vận động bầu cử;
người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu
hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử hoặc vi phạm các quy định
khác của pháp luật về bầu cử thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
14- Về công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử:
Điều 86 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân 2015
quy định như sau:

11


Thứ nhất, về bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia căn cứ
vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước công bố kết quả bầu cử và danh
sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội chậm nhất là 20 ngày sau ngày bầu
cử.
Thứ hai, về bầu cử đại biểu HĐND, Ủy ban bầu cử căn cứ vào biên bản
tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình chậm nhất là 10 ngày sau ngày bầu cử.
1.4.
Các nguyên tắc bầu cử:
Bầu cử là một hoạt động xã hội của con người. Muốn cho hoạt động này đạt
được kết quả thắng lợi cũng như để đảm bảo cho cuộc bầu cử được tiến hành một
cách dân chủ cần phải tiến hành theo nhiều nguyên tắc. Có những nguyên tắc mang
tính chất của mọi hoạt động xã hội nhưng trong đó có không ít những nguyên tắc

mang tính chất đặc thù của hoạt động bầu cử. Đó là những tắc bầu cử phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc đó thống nhất với nhau, bảo
đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri
khi lựa chọn đại biểu.5
a) Nguyên tắc bầu cử phổ thông:
Đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc tổ chức các cuộc bầu cử. Pháp
luật bầu cử của các nước đều khẳng định, nguyên tắc phổ thông đầu phiếu là một
trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu
trong bầu cử bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành
phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú,
(trừ những người mất trí hay những người bị tước quyền bầu cử trên cơ sở của
pháp luật), đến tuổi trưởng thành đều được trao quyền bầu cử.
Yêu cầu của nguyên tắc này là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực
sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công

5 />
nuoc-ta-hien.aspx truy cập ngày 27/4/2019
12


dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai và sự tham
gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong bầu cử.
Ví dụ: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân của
nước ta quy định đối với việc bầu cử đại biểu Quốc hội:
- Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Quốc hội ấn định và công bố
chậm nhất là 115 ngày trước ngày diễn ra bầu cử;
- Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập công khai, có sự tham gia
của đại diện các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân;
- Thời gian bỏ phiếu được quy định thống nhất trong cả nước từ 7 giờ sáng
đến 7 giờ tối (trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật);

- Mọi công dân cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên vào
danh sách cử tri;
- Danh sách cử tri được niêm yết công khai chậm nhất là 40 ngày trước
ngày diễn ra bầu cử;
- Danh sách ứng cử viên cũng được lập và niêm yết công khai chậm
b)

nhất là 20 ngày trước ngày diễn ra bầu cử để cử tri tìm hiểu và lựa chọn.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp:
Bầu cử trực tiếp có nghĩa là cử tri trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá
phiếu, cử tri trực tiếp bầu ra đại biểu của mình chứ không qua một cấp đại diện cử
tri nào.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp đòi hỏi cử tri không được nhờ người bầu hộ, bầu
thay hoặc bầu bằng cách gửi thư. Cử tri tự bỏ lá phiếu bầu vào hòm phiếu. Trường
hợp cử tri không thể tự viết phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự
mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri
vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu
được thì tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến nơi ở của cử tri để cử tri
nhận phiếu bầu và thực hiện các thủ tục bỏ phiếu.
Nguyên tắc trực tiếp bầu cử ra người đại diện cho mình trong các cơ quan
quyền lực nhà nước, không thông qua một khâu trung gian nào khác là một nguyên
tắc thể hiện rõ tính chất dân chủ trong sự hình thành bộ máy nhà nước. Chính
13


nguyên tắc này cho phép người đại diện được nhân dân trực tiếp bầu ra nhận được
quyền lực nhà nước từ nhân dân.
Trái với nguyên tắc bầu cử trực tiếp là nguyên tắc bầu cử gián tiếp. Theo
nguyên tắc này, cử tri không trực tiếp bầu ra người đại diện cho mình, mà bầu ra

thành viên của tuyển cử đoàn, sau đó tuyển cử đoàn mới bầu ra cơ quan đại diện
hay chức danh nhà nước. Bầu cử gián tiếp có thể qua hai cấp, như bầu Tổng thống
Mỹ (cử tri bầu ra Đại cử tri đoàn), Thượng nghị viện Pháp; hoặc bầu qua ba cấp,
như bầu Quốc hội Trung Quốc (Đại hội đại biểu nhân dân toàn Trung Quốc).
c) Nguyên tắc bỏ phiếu kín:
Nguyên tắc bỏ phiếu kín thể hiện ở việc loại trừ sự theo dõi và kiểm soát từ
bên ngoài đối với việc thể hiện ý chí (sự bỏ phiếu) của cử tri. Mục đích của nguyên
tắc này là nhằm đảm bảo tự do đầy đủ sự thể hiện ý chí của cử tri.
Để bảo đảm khách quan trong việc lựa chọn của cử tri, các nước thường quy
định việc bỏ phiếu kín. Ví dụ: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân nước ta quy định việc bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành bằng cách
bỏ phiếu kín.
Theo nguyên tắc này, cử tri bầu ai, không bầu ai đều được bảo đảm bí mật.
Khi cử tri viết phiếu bầu không ai được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ
chức phụ trách bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của
cử tri. Cử tri viết phiếu bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.
d) Nguyên tắc bầu cử bình đẳng:
Bình đẳng trong bầu cử là nguyên tắc nhằm bảo đảm để mọi công dân đều
có cơ hội ngang nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ
hình thức nào.
Nội dung của nguyên tắc bình đẳng là mỗi cử tri có một phiếu bầu đối với
một cuộc bầu cử và giá trị phiếu bầu như nhau không phụ thuộc vào giới tính, địa
vị xã hội, sắc tộc, tôn giáo,... Nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định của
pháp luật về quyền bầu cử và ứng cử của công dân.
Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành
phần, số lượng đại biểu để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng, miền, địa
14


phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ lệ đại biểu

thích đáng.
1.5.
Tiến trình của một cuộc bầu cử:
Giai đoạn chuẩn bị bầu cử.
Giai đoạn phân chia các đơn vị bầu cử.
Giai đoạn kiểm phiếu và xác định kết quả của cuộc bầu cử.

15


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIÊN QUYỀN BẦU CỬ, ỨNG CỬ CỦA CÔNG DÂN
TẠI PHƯỜNG HÀNG TRỐNG QUẬN HOÀN KIẾM THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.

Quy trình bẩu cử đại biểu hội đồng nhân dân phường Hàng Trống
Quận Hoàn Kiếm Thành phố Hà Nội.



Bước 1: UBND cấp xã, TT HĐND cấp xã, Ban TT UBMTTQ cấp xã => Thống
nhấtthành lập Ủy ban bầu cử cấp xã. Sau khi thành lập Ủy ban bầu cử, các cơ quan



trên thống nhất dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu HĐND cấp xã
Bước 2: Hiệp thương lần 1: Ban TTUBMTTQ cấp xã tổ chức thỏa thuận về cơ




cấu, thành phần và số lượng người ứng cử, người tự ứng cử
Bước 3: Điều chỉnh lần 1:TT HĐND cấp xã điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số



lượng, người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử.
Bước 4: Hội nghị cử tri: Ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố dự kiến người
của thôn, tổ dân phố ứng cử đại biểu HĐND cấp xã và phối hợp với trưởng thôn, tổ
trưởng tổ dân phố tổ chức Hội nghị cử tri để thảo luận, giới thiệu người ứng cử đại



biểu HĐND cấp xã.
Bước 5: Người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử nộp hồ sơ tại Ủy ban



bầu cử nơi mình ứng cử.
Bước 6: Hiệp thương lần 2: Ban TTUBMTTQ cấp xã tổ chức thỏa thuận lập
danh sách sơ bộ người ứng cử đại biểu HĐND. Ban Thường trực UBMTTQ các
cấp tổ chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú đối với người ứng
cử đại biểu HĐND, lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm cử tri nơi làm việc (nếu có)



đối với người tự ứng cử
Bước 7: Ủy ban bầu cử công bố danh sách đơn vị bầu cử. Thành lập mỗi ban
bầu cử ở mỗi đơn vị bầu cử. Sau đó tiến hành xong việc xác minh và trả lời về các




vụ việc mà cử tri nêu lên đối với người ứng cử.
Bước 8: Hiệp thương lần3: Ban TTUBMTTQ cấp xã tổ chức hiệp thương thành
lập danh sách chính thức.Sau đó UB bầu cử công bố danh sách những người ứng

16


cử theo từng đơn vị bầu cử. Và tổ chức các cuộc tiếp xúc gặp gỡ giữa người ứng cử


và cử tri.
Bước 9: Tiến hành bầu cử theo hình thức bỏ phiếu.
2.2.

Thực hiện quyền bầu cử, ứng cử của công dân tại Phường Hàng Trống,
Quận Hoàn Kiếm.
2.2.1.
Công dân có quyền tự ứng cử đại biểu HĐND Phường Hàng
Trống, Quận Hoàn Kiếm.
Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương

bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
Nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước Hội đồng
nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình.
Đại biểu Hội đồng nhân dân bình đẳng trong thảo luận và quyết định các vấn
đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.

Khoản 2 Điều 3 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân
2015 quy định:
Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại
biểu Hội đồng nhân dân quy định tại Luật tổ chức chính quyền địa phương.
Điều 2 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân 2015 quy
định về Tuổi bầu cử và tuổi ứng cử:
Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở
lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của
Luật này.
Như vậy, người ứng cử đại biểu Hội đồng Nhân dân phải đáp ứng các tiêu
chuẩn của đại biếu Hội đồng Nhân dân quy định tại Luật tổ chức chính quyền địa
phương 2015. Độ tuổi để được ứng cử vào Hội đồng Nhân dân các cấp là đủ 21
tuổi trở lên.
17


Điều 7 Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 về tiêu chuẩn của đại biểu
Hội đồng nhân dân như sau:
1. Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công
cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương
mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm
pháp luật khác.
3. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công
tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động
của Hội đồng nhân dân.
4. Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân
dân tín nhiệm.

Từ các quy định trên, ngoài việc đáp ứng điều kiện về tuổi ứng cử, người ứng
cử vào Đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp cần tuân thủ các quy định về tiêu
chuẩn của đại biểu Hội đồng Nhân dân như trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất
đạo đức tốt, có trình độ văn hóa, chuyên môn, liên hệ chặt chẽ với nhân dân…
Công dân có quyền tự ứng cử đại biểu HĐND Phường Hàng Trống, Quận Hoàn
Kiếm khi đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn trên.
2.2.2.

Danh sách cử tri tại Phường Hàng Trống, Quận Hoàn Kiếm
Phường Hàng Trống, Quận Hoàn Kiếm có trách nhiệm lập danh sách cử tri
để bảo đảm các cử tri được thược hiện quyền bầu cử của mình.
Mỗi công dân chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường trú
hoặc tạm trú.
Cử tri là người tạm trú và có thời gian đăng ký tạm trú tại địa phương chưa đủ 12
tháng, cử tri là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh
sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện ở nơi tạm trú hoặc đóng quân.

18


Công dân Việt Nam ở nước ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau
khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ,
thì đến Ủy ban nhân dân cấp xã xuất trình Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam để
được ghi tên vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri bầu đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (nếu xuất trình tại nơi đăng ký
thường trú) hoặc bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
cấp huyện (nêu xuất trình tại nơi đăng ký tạm trú).
Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách

cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người
đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2.2.3.

Công khai người ứng cử vào đại biểu HĐND phường.

Danh sách ứng cử viên được công bố công khai rộng rãi để cử tri nắm rõ được
thông tin, tiểu sử của họ. Theo quy định tại Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại
biểu hội đồng nhân dân 2015: “Danh sách ứng cử viên cũng được lập và niêm yết
công khai chậm nhất là 20 ngày trước ngày diễn ra bầu cử để cử tri tìm hiểu và
lựa chọn”
Danh sách này có thể dán tại cơ quan UBND phường, đọc trên loa phát thanh, dán
ở các tổ dân phố và tren trang cổng thông tin của phường để từ đó cử tri biết được
các ứng cử viên rồi tìm hiểu đưa ra quyết định trong lá phiểu bầu của mình có trách
nhiệm và có chất lượng.

19


2.2.4.

Bỏ phiếu bầu đại biểu HĐND Phường Hàng Trống, Quận Hoàn Kiếm

20


Với trình tự bỏ phiếu như kia, Phường Hàng Trống, Quận Hoàn Kiếm đã tạo điều
kiện cho tất cả các cử tri có thể thực hiện quyền của mình. Đảm bảo quyền bầu cử
của công dân được thực thi trên thực tế.

2.2.5.

Công tác kiểm phiếu tại tổ bầu cử Phường Hàng Trống, Quận Hoàn

Kiếm.
Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi
cuộc bỏ phiếu kết thúc.
Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải thống kê, lập biên bản, niêm
phong số phiếu bầu không sử dụng đến và phải mời hai cử tri không phải là người
ứng cử chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử
hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về
việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí được chứng kiến việc kiểm phiếu.
Hoạt động kiểm soát này góp phần tính công bằng, nghiêm túc trong
bầu cử. Đảm bảo quyền giám sát của người dân trong quản lý nhà nước.

21


CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN BẦU CỬ, ỨNG CỬ CỦA CÔNG
DÂN
1.

Đảm bảo quyền bầu cử, ứng cử của người dân tộc thiểu số

Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 DTTS với số dân trên 12
triệu người (chiếm 14,3% tổng dân số). Theo điều tra dân số và nhà ở năm 2009,
có nhiều dân tộc chỉ vài trăm người như: Si La: 709; Pu Péo: 687; Rơ Măm: 436;
Brâu: 397; Ơ Đu: 376 người.

Đoàn kết là một đặc điểm nổi bật, truyền thống quý báu trong mối quan hệ
giữa các dân tộc ở nước ta, xuyên suốt trong mọi thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ
nước. Các dân tộc sinh sống trong những giai đoạn khác nhau, nhưng đều có chung
một vận mệnh lịch sử. Đoàn kết gắn bó là đảm bảo sự sống còn của từng dân tộc
cũng như của cả cộng đồng các dân tộc trong quá trình phát triển. Truyền thống
đoàn kết giữa các dân tộc ngày càng được củng cố và phát triển, sức mạnh của khối
đại đoàn kết dân tộc đã trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.
Quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển, Nhà nước
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Bình đẳng, đoàn kết các dân tộc là
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta được xác định ngay từ
khi mới thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt, pháp
luật phải đảm bảo quyền bình đẳng đó, mặt khác phải có cơ chế, chính sách và tạo
điều kiện để nhân dân các dân tộc vươn lên mạnh mẽ phát triển kinh tế, văn hóa,
từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Coi trọng công tác cán bộ người dân tộc. Tôn trọng và phát huy
những phong tục tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ, sự nỗ lực của các bộ, ban, ngành,
địa phương và của cả hệ thống chính trị, đời sống về vật chất và tinh thần của đồng
22


bào DTTS đã được cải thiện đáng kể. Các quyền cơ bản của đồng bào DTTS về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội được đảm bảo. Quyền bầu cử, ứng cử
của đồng bào DTTS được Hiến pháp và pháp luật quy định, Nhà nước có chính
sách, cơ chế thực hiện.
Có thể nói rằng, đảm bảo quyền tham gia vào các cơ quan quản lý Nhà nước
đặc biệt là quyền bầu cử, ứng cử, đảm bảo các DTTS có tiếng nói tại Quốc hội cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là điều kiện tiên quyết, là quyền mang tính
chất tiền đề để đảm bảo các quyền khác về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa-xã

hội của người DTTS và có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện chính sách, pháp
luật, công tác đảm bảo an ninh trật tự vùng DTTS.
Trong các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có những nỗ lực vượt bậc nhằm đảm bảo tỷ lệ
cử tri, đặc biệt tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người DTTS đáp ứng được yêu cầu, tiêu
chuẩn đại biểu. Tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người DTTS trong các nhiệm kỳ gần đây
luôn cao hơn so với tỷ lệ dân số. Tỷ lệ này còn cao hơn ở Hội đồng nhân dân các
cấp. Nhiều người DTTS đã và đang giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ
quan lãnh đạo của đất nước.
Trong các cơ quan tư pháp, chỉ huy lực lượng vũ trang ở tất cả các cấp từ
Trung ương tới địa phương đều có sự tham gia của người DTTS. Nguyên tắc bình
đẳng trong bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được quán
triệt và thực hiện nghiêm túc trong mọi giai đoạn của quá trình ứng cử, bầu cử.
Bình đẳng trong bầu cử là một nguyên tắc nhằm đảm bảo tính khách quan, không
thiên vị để mọi công dân đều có khả năng như nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm
mọi sự phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào.
Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu thành
phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp, số đại biểu được bầu ở từng địa phương, bảo đảm tiếng nói đại

23


diện của các vùng, miền, địa phương, các tầng lớp xã hội. Đặc biệt, các DTTS và
phụ nữ phải có tỉ lệ đại biểu thích đáng trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
2.

Phát huy quyền của phụ nữ trong ứng cử, bầu cử

Cùng với nam giới, việc tham gia bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân

các cấp là cơ hội để nữ giới lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về đức, tài,
những người đủ tiêu chuẩn, không phân biệt nữ, nam xứng đáng đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Phụ nữ thực hiện quyền bầu cử của
mình là trực tiếp phát huy quyền dân chủ trong xây dựng Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị xã hội, trong đó có Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Phụ nữ tham gia
bầu cử đó vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của chính bản thân phụ nữ.
Phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ ra rằng: Phải bầu ngay Quốc hội, càng sớm càng tốt. Bên trong thì
nhân dân tin tưởng thêm vào chế độ mình. Trước thế giới, Quốc hội do dân bầu ra
sẽ có một giá trị pháp lý không ai có thể phủ nhận được; chỉ có Tổng tuyển cử mới
để cho dân chúng có dịp nói hết những ý muốn của họ và chỉ có Chính phủ lập ra
bởi Tổng tuyển cử mới là đại diện chân chính và trung thành của toàn thể quốc
dân.
Đánh giá về thực hiện quyền của phụ nữ trong Tổng tuyển cử bầu Quốc hội
khóa I (ngày 06-01-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, phụ nữ là những người đi
bỏ phiếu hăng hái nhất. Người rất chú trọng công tác vận động phụ nữ, khơi dậy
tinh thần yêu nước, thương nòi, tổ chức hướng dẫn phụ nữ tham gia vào công cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội. Thời kỳ xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc tranh quyền
cho phụ nữ còn là quá trình giải phóng sức lao động để tạo điều kiện cho phụ nữ
phát huy khả năng sáng tạo của mình phục vụ Tổ quốc.
Điều 9, Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy
định: Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện. Đó là quy định lần đầu
tiên có ý nghĩa rất lớn đối với phụ nữ trong bối cảnh nước Việt Nam dân chủ cộng
24


hòa vừa mới được thành lập. Điều này đã góp phần quan trọng, tạo nền tảng cho sự
nghiệp giải phóng phụ nữ, giải phóng con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam.
Quy định đó thực sự góp phần phá tan xiềng xích tư tưởng “trọng nam kinh nữ”

của chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm trước đó.
Hiến pháp năm 2013 đã hiến định sâu sắc hơn quyền của phụ nữ trên cơ sở
kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp năm 1992 và các hiến pháp trước
đó. Tại Chương II Hiến pháp năm 2013 đã hiến định các quyền con người nói
chung và quyền của phụ nữ nói riêng. Quyền của phụ nữ được quy định từ điều 14
đến điều 49. Tại Điều 27, Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân đủ mười tám
tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào
Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định. Ngoài
các quyền trên, phụ nữ còn có quyền: Được Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều
kiện để phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội (Khoản 2 Điều
26); Được Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, quyền lợi của người mẹ và trẻ
em (Khoản 2 Điều 36); Được Nhà nước, xã hội và gia đình bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe, thực hiện kế hoạch hóa gia đình (khoản 2 Điều 58).
Xét trong mối tương quan với nam giới, quyền của phụ nữ Việt Nam được
quy định trong các bản Hiến pháp nước ta đã thể hiện rõ quan điểm “bình đẳng và
ưu tiên”. Có những quyền được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa
nam và nữ trước pháp luật nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trong đời sống gia đình. Nhưng bên
cạnh đó có những quyền ưu tiên (trong việc tuyển dụng, sắp xếp công việc, nghỉ
hưu...), tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc
đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội, đồng thời tránh rủi ro trong nghề
nghiệp, trong cuộc sống gia đình và xã hội.
Cụ thể hóa các quyền trên, tham gia bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp, phụ nữ có quyền ghi tên vào danh sách cử tri, được phát thẻ cử tri. Mỗi cử
tri nữ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú.
25


×