BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
..........
ĐỀ TÀI
CÁC QUY LUẬT CỦA LƠGIC HỌC HÌNH THỨC
VAI TRỊ VÀ Ý NGHĨA CỦA LƠGIC HÌNH THỨC
TRONG KHOA HỌC VÀ CUỘC SỐNG
Tiểu luận cuối kì
Mơn học: NHẬP MƠN LƠGIC HỌC
GVHD: PGS.TS. Đồn Đức Hiếu
Mã lớp học phần: 192INLO220405_12CLC
Nhóm sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Cao Nhật Duy
19124024
Phan Gia Bảo
19124078
Bùi Phước Đức
19124092
Trần Tuấn Kiệt
19124125
Nguyễn Thành Nhân
19124155
Nguyễn Quang Kiệt
19124357
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2020
Nhóm sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Cao Nhật Duy
19124024
[Nhập mơn Lơgic học]
GVHD: PGS.TS. Đồn Đức Hiếu
Phan Gia Bảo
19124078
Bùi Phước Đức
19124092
Trần Tuấn Kiệt
19124125
Nguyễn Thành Nhân
19124155
Nguyễn Quang Kiệt
19124357
Điểm số
Tiêu chí
Nội dung
Bố cục
Trình Bày
Tổng
Điểm
Nhận xét
...........................................................................................
...........................................................................................
...........................................................................................
...........................................................................................
...........................................................................................
GV Ký tên
PGS.TS. Đồn Đức Hiếu
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2020
[Nhập môn Lôgic học]
Bảng phân công nhiệm vụ
STT
1
2
3
4
5
6
Nhiệm vụ
Thực hiện
_ Viết phần mở đầu.
_ Soạn mục lục.
Phan Gia Bảo
_ Kiểm lỗi chính tả
_ Soạn thảo tiểu luận
chung trên word. Trình
bày bìa.
Trần Tuấn Kiệt
_ Thuyết trình tiểu luận.
_ Kiểm lỗi chính tả.
_ Tìm tài kiệu chương 1
_ Phụ trách chương 1.
Cao Nhật Duy
_ Soạn thảo chương 1.
_ Tìm tài liệu chương 2.
_ Phụ trách chương 2.
Bùi Phước Đức
_ Soạn thảo chương 2.
_ Tìm tài liệu chương 1
và chương 2
_ Hỗ trợ Chương 1, 2
Nguyễn Thành Nhân
_ Kiểm tra tiến độ công
việc.
_ Tổng hợp các bài viết Nguyễn Quang Kiệt
của các thành viên, viết
phần kết luận, tài liệu
tham khảo
_ Kiểm tra lỗi chính tả.
_ In ấn tiểu luận.
Kết quả
Hồn thành
tốt
Hồn thành
tốt
Hồn thành
tốt
Hồn thành
tốt
Hoàn thành
tốt
Hoàn thành
tốt
Ký tên
[Nhập môn Lôgic học]
Mục lục
Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lơgic học hình thức (cổ điển) do nhà Triết học Hy Lạp cổ đại Aritotle sáng
lập ra. Nó là mơn học chun nghiên cứu các hình thức và quy luật tư duy. Sự
nhận thức cảm tính là sự phản ánh các mối liên hệ vận động cảy ra trong tự
nhiên, vào não con người trờ thành những sự vật hiện tượng có tính ổn định và
sác định tương đối, cùng với những mối liên hệ, quan hệ của chúng. Sự nhận
thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được
thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đốn, suy luận. Trong quá trình
hình thành và phát triển của xã hội loài người, sự nhận thức của con người nâng
cao dần, từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính - tức là tư duy.
Ta có thể xét ví dụ:
(1) Mọi người đều sẽ phải chết, tôi là người, vì vậy tơi cũng sẽ phải chết.
(2) Vợ của tơi là phụ nữ, em là phụ nữ, vậy em cũng là vợ của tôi.
[Nhập môn Lôgic học]
Rõ ràng suy luận thứ nhất đúng, cịn suy luận thứ hai thì sai. Nhưng căn cứ
vào cơ sở nào mà ta xác định được như vậy? Tất nhiên là có thể căn cứ trực tiếp
vào thực tiễn. Tuy nhiên thực hiện việc đó gặp phải rất nhiều khó khăn, vì ở đây
sau khi kiểm tra thấy kết luận đúng ta cũng khơng thể nói rằng chắc chắn suy
luận đúng. Một phương pháp khác thuận tiện và hiệu quả hơn nhiều là sử dụng
các quy luật của tư duy, tức là các quy luật mà môn Lôgic nghiên cứu, để làm
cơ sở cho việc xét đoán. Suy luận nào tn theo các quy luật đó thì hợp lý,
đúng; suy luận nào không tuân theo những quy luật đó thì vơ lý, sai. Các quy
luật của Lơgic hình thức là một đề tài phong phú, mang lại nhiều kiến thức bổ
ích từ thự tiễn cuộc sống, cho nên nhóm em đã chọn để tài “Các quy luật của
Lơgic hình thức” cho bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Chúng em tự hỏi rằng:
_ Cơ sở lý luận về Lơgic hình thức như thế nào?
_ Những quy tắc cơ bản của Lơgic hình thức?
_ Vai trị và ý nghĩa của Lơgic hình thức đối với khoa học và cuộc
sống.
Con người phát hiện ra các quy luật của tư duy thông qua hoạt động nhận
thức trải nhiều thế kỷ chứ không phải bẩm sinh đã biết đến chúng. Con người
biết cách vận dụng các quy luật đó, biết suy luận tn theo các quy luật đó là
nhờ q trình học tập và rèn luyện chứ khơng phải có tính chất bản năng. Việc
hiểu rõ các quy luật của Lôgic hình thức thật sự rất quan trọng và có ý nghĩa vô
cùng to lớn với mỗi con người và đặc biệt là thế hệ sinh viên chúng ta.
[Nhập mơn Lơgic học]
3. Ý nghĩa thực tiễn và tính cấp thiết của đề tài
Tư duy lơgíc được hình thành bằng cách như vậy là tư duy lơgíc tự phát. Tư
duy lơgíc hình thức tự phát gây trở ngại cho việc nhận thức khoa học, nó dễ
mắc phải sai lầm trong quá trình trao đổi tư tưởng với nhau, nhất là những vấn
đề phức tạp. Chính vì thế việc hiểu rõ để áp dụng lơgic hình thức vào cuộc sống
là rất quan trọng và cấp thiết.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của bài tiểu luận này là các quy luật của Lơgic
hình thức bào gồm: Quy luật đồng nhất trong tư duy, Quy luật cấm mâu thuẫn,
Quy luật bài trung, Quy luật lý do đầy đủ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu cặn kẽ và chính xác vấn đề này chúng em đã áp dụng các
phương pháp: tra cứu, tìm hiểu thơng tin trên nhiều phương tiện khác nhau như
các trang mạng, báo chí, sách vỡ …. Từ đó cố gắng phân tích lập và lập luận,
đưa ra những luận điểm khách quan, luận cứ xác thực để mang đến một bài tiểu
luận rõ ràng, cụ thể và dể hiểu.
6. Kết cấu của tiểu luận
Bài tiểu luận gồm có ba phần:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
_ Chương 1:
_ Chương 2:
[Nhập môn Lôgic học]
Phần 3: Kết luận
*Lời ngỏ
Là những sinh viên năm nhất, với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế,
nên nội dung bài tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu xót. Chúng em rất
mong được sự nhận xét đóng góp ý kiến của thầy cơ và các bạn. Điều này sẽ
giúp chúng em bổ sung kiến thức, kinh nghiệm, nhằm khơng ngừng hồn thiện
bản thân.
Chúng em xin chân thành cảm ơn PSG.TS. Đoàn Đức Hiếu (Giảng viên Đại
học Sư phạm Kỹ thuật tp. HCM) đã giúp đỡ chúng em trong suốt q trình tìm
hiểu mơn học Nhập môn Lôgic học và trong việc thực hiện tiểu luận này.
[Nhập môn Lôgic học]
Phần 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LƠGIC HÌNH THỨC
1.1. Lơgic hình thức là gì:
Lơgic hình thức cịn được biết đến trong tốn học như là Lơgic kí hiệu là
ngành khoa học nằm trong miền giao thoa giữa toán học và triết học tự nhiên.
Lơgic hình thức sử dụng kí hiệu hình thức và các phép toán đại số cùng với các
nguyên tắc nhất định về giá trị chân lý nhằm để xác định tính đúng đắn của các
lập luận.
Lơgic hình thức nghiên cứu các quy luật hình thức của tư duy trừu tượng.
Nếu như quá trình nhận thức khoa học là “từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng rồi lại từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn” thì Lơgic hình thức
cho ta các quy luật để suy luận trong giai đoạn tư duy trừu tượng của toàn bộ
quá trình nhận thức đó. Đặc trưng của nhận thức khoa học là khái quát hóa các
tri thức kinh nghiệm để tìm kiếm các quy luật phổ biến, rồi bằng cách tổng hợp
các quy luật phổ biến từ nhiều khía cạnh khác nhau trở lại nhận thức các hiện
tượng và sự vật cụ thể.
Như vậy, Lơgic hình thức khơng quan tâm đến nội dung của các phán
đoán, mà chỉ quan tâm đến các quan hệ chuyển đổi giá trị chân lý của các phán
đốn mà thơi. Về sau này, với việc sử dụng những phương pháp ký hiệu của toán
học, các phán đốn tron Lơgic hình thức có thể được xem như ký hiệu A, B, p,
q, .. đưọc gán giá trị 1 (đúng) hoặc 0 (sai).
Lôgic là khoa học về lý luận đúng đắn. Theo từ điển Webster, lý luận là
“rút ra những luận giải hay kết luận từ các thực tế cho trước hay đã biết”
Lý luận diễn dịch và các cấu trúc của phép Lôgic là một khoa học được
[Nhập môn Lôgic học]
nghiên cứu từ hàng ngàn năm trước. Một trong những nhà Lôgic học đầu tiên và
nổi tiếng nhất là nhà khoa học người Hy Lạp Aristotle (384-322 TCN). Ơng là
học trị của nhà triếu học Plato và là thầy dạy của Alexander Đại đế Triết học
của Aristotle có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng trong triết học Phương Tây hiện đại.
Trong hàng ngàn thế kỷ, phép Lôgic của Aristotle nằm trong chương trình học
của các luật sư và chính trị gia Phương Tây, nó được dùng để phân biệt giữ lập
luận đúng với lập luận sai.
Trải qua hơn hai nghìn năm, Lơgic hình thức đã là cơng cụ đắc lực góp
phần hình thành và phát triển nhiều ngành khoa học khác nhau, nó cũng là cơng
cụ tư duy hợp lý trong mọi mặt đời sống nhận thức của con người. Ngày nay, ở
giai đoạn mà con người đang có tham vọng dùng máy móc để tự động hóa từng
bước hoạt động trí tuệ của chính mình, Lơgic khơng chỉ là cơng cụ để nghiên
cứu. Và từ đó nhiều vấn đề mới nảy sinh, mà việc nghiên cứu chúng chắc chắn
sẽ đưa đến những hiểu biết phong phú mới về hoạt động tư duy và nhận thức.
Lơgic hình thức cho ta các quy luật để hình thành các khái niệm, các phán
đoán và đặc biệt các phương pháp suy lý để tiến hành các lập luận trên các phán
đốn đó một giá trị chân lý xác thực, tức là mỗi phán đoán hoặc đúng, hoặc sai.
Và các quy luật suy lý cho ta cách lập luận để từ các giá trị chân lý của một phán
đoán đang xét.
Theo quan điểm của Aristotle, Lôgic là công cụ cần thiết để tra vấn, và ông
đã xây dựng phép Tam đoạn luận. Tam đoạn luận là một lập luận bao gồm 2
mệnh đề được gọi là tiền đề (bao gồm đại tiền đề và tiểu tiền đề), và một kết
luận là kết quả của tiền đề. Cho một tập hợp các tiền đề, nếu kết luận của lập
luận là chắc chắn (nghãi là đi đến một kết luận trong mọi trường hợp), lập luận
được xem là đúng (có hiệu lực). Ngược lại nếu có một trường hợp mà kết luận
khơng thể đạt được, lập luận là sai (khơng có hiệu lực ).
Một trong những kết luận kinh điển về phép Tam đoạn luận của Aristole
[Nhập môn Lôgic học]
như sau:
1. Mọi người đều chết (đại tiền đề)
2. Socrates là người (tiểu tiền đề)
Do đó, Socrates cũng chết (kết luận)
Phép lý luận diễn dịch này còn được gọi là modus ponens. Lưu ý rằng, một
lập luận đúng (có hiệu lực) khơng nghĩa là một kết luận là đúng sự thật. Một lập
luận là đúng nếu kết luận là hiển nhiên trên cơ sở các tiền đề đã cho. Khi đề cập
đến tính đúng của lập luận người ta đã khơng đề cập tới tính chân lý của tiền đề.
Như vậy khi đã xem xét đến tính đúng của lập luận người ta đã không xem xét
kết luận là đúng hay sai. Nói một lập luận là đúng chỉ có nghĩa là trên cơ sở các
tiền đề đã cho, lý luận để đưa tới kết luận là hợp Lôgic. Tuy nhiên, nếu tiền đề
của một lập luận có hiệu lực là đúng thì kết luận của nó sẽ đúng.
1.2. Các quy luật của Lơgic hình thức
1.2.1. Quy luật đồng nhất:
Cơ sở khách quan của quy luật: là tính ổn định tương đối, trạng thái đứng im
tương đối của các đối tượng. Quy luật đồng nhất xác định của ý nghĩa, của tư
tưởng về đối tượng nhất định ở phẩm chất xác định, còn bản thân ý nghĩ tuần thủ
quy luật này phản ánh sự đồng nhất trừu tượng của đối tượng với chính nó.
Nội dung và cơng thức của quy luật: Trong quá trình suy nghĩ, lập luận thì tư
tưởng phải là xác định, một nghĩa, ln đồng nhất với chính nó.
Cơng thức của quy luật: “a là a”, trong đó a là một tư tưởng phản ánh về đối
tượng xác định nào đó. Nói cách khác, mỗi ý nghĩ đều được rút ra từ chính nó và
là điều kiện cần và đủ cho tính chân thực của nó “a <-> a”.
[Nhập mơn Lơgic học]
Luật đồng nhất nó trở thành quy tắc cho từng ý nghĩ: một ý nghĩ không thể
vừa là nó vừa khơng phải là nó. Nó phải đồng nhất với nó về giá trị Lơgic. Luật
đồng nhất u cầu khi phản ảnh về một đối tượng ở một phẩm chất xác định (tồn
tại trong khoảng thời gian, không gian và một quan hệ xác định), khi đối tượng
tồn tại với tư cách là nó thì khơng được tùy tiện thay đổi đối tượng phản ánh;
không được thay đổi nội dung của tư tưởng hay đánh tráo ngôn từ diễn đạt tư
tưởng. Chính điều này thể hiện tính xác định và nhất quán của tư tưởng khi phản
ánh về đối tượng xác định. Có thể phân tích sự tác động của luật đồng nhất trong
tư duy qua các yếu tố cụ thể sau: Các yêu cầu của luật đồng nhất và những lỗi
Lơgic có thể mắc phải khi vi phạm chúng:
Yêu cầu 1: Phải có sự đồng nhất của tư duy với đối tượng về mặt phản ánh,
tức là trong lập luận về một đối tượng xác định nào đó, tư duy phải phản ánh về
nó với chính nội dung xác định đó. Cơ sở của yêu cầu này là:
Thứ nhất, các đơi tượng khác nhau thì phân biệt với nhau, vì thế tư duy phản
ánh đối tượng nào chỉ rõ ra được nó là gì? Khơng được lẫn lộn với đối tượng
khác.
Thứ hai, các đối tượng luôn vận động, biến đổi; bản thân chúng có nhiều
hình thức thể hiện trong từng giai đoạn phát triển khác nhau. Tư duy khi phản
ánh đối tượng phải ý thức được nó đang phản ánh đổi tượng ở hình thức nào, ở
giai đoạn phát triển nào, chứ không được lẫn lộn các hình thức và giai đoạn phát
triển khác nhau của đối tượng. Có thể sơ đồ hóa để yêu cầu này như sau:
Lỗi ngộ biện (sai mà không biết): xảy ra khi trong tư duy do vơ tình mà khái
qt những hiện tượng ngẫu nhiên thành tất nhiên hoặc do trình độ nhận thức
[Nhập mơn Lơgic học]
cịn thấp (chưa đủ điều kiện, phương tiện, cơ sở nhận thức, đánh giá, xem xét sự
vật) nên phản ánh sai hiện thực khách quan. Lỗi ngụy biện (biết sai mà cứ vơ
tình mắc vào): xảy ra khi vì 1 lý do, động cơ, múc đích vụ lợi nào đó mà người
ta cố tình phản ánh sai lệch hiện thức khách quan, nhằm biến sai thành đúng, vơ
lý thành hợp lý.
u cầu 2: Phải có sự đồng nhất giữa tư tưởng với ngơn ngữ diễn đạt nó. Cơ
sở khách quan của yêu cầu này là mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ diễn đạt.
Một tư tưởng, một ý nghĩa bao giờ cũng phải được “vật chất hóa” ra ở ngơn ngữ.
Vì thế, tư tưởng, ý nghĩa thế nào? Về cái gì? ngơn ngữ diễn đạt phải thể hiện
đúng như vậy, tránh tạo ra trường hợp tư tưởng, ý nghĩa phản ánh về đối tượng
này, nhưng ngôn ngữ diễn đạt lại cho thấy không phải đối tượng ấy mà là đối
tượng khác hay có thể là đối tượng đó mà cũng có thể là đối tượng khác (tức
khơng xác đinh). Có thể sơ đồ hóa u cầu này như sau
Tóm
lại,
khơng
đồng
nhất các tư tưởng khác nhau và không coi những tư tưởng đồng nhất là khác
nhau. Các lỗi Lôgic tương ứng thường mắc khi vi phạm các yêu cầu của luật
đồng nhất là đánh tráo đối tượng, và đánh tráo khái niệm, nhầm lẫn các khái
niệm.
1.2.2. Quy luật cấm mâu thuẫn
Cơ sở khách quan luật cấm mâu thuẫn, cơ sở luật đồng nhất là tính xác định
của vật chất của các đối tượng được bảo toàn trong thời gian nhất định. Từ đó
suy ra, nếu có đối tượng như thế thì nó đồng thời khơng thể khơng tồn tại ; nó
khơng thể có các thuộc tính xác định vật chất như thế này và đồng thời lại khơng
có chúng, khơng thể vừa nằm vừa khơng nằm trong quan hệ nào đó với các đối
[Nhập mơn Lơgic học]
tượng khác. Đặc điểm đó của giới hiện thức là cơ sở khách quan của luật mâu
thuẫn.
Nội dung và công thức của luật cấm mâu thuẫn. Mâu thuẫn Lôgic là hiện
tượng của tư duy, khi nêu ra hai phán đoán loại trừ nhau về một đối tượng được
xét trong cùng một thời gian và cùng một quan hệ. Mâu thuẫn Lơgic làm lộ rõ
một tính quy luật là: hai phán đoán đối lập hoặc mẫu thuẫn nhau về một đối
tượng, được xét trong cùng một thời gian, cùng một quan hệ, khơng thể cùng
chân thực, ít nhất một trong chúng giả dối.
Công thức của quy luật: 7(a A 7a)
Yêu cầu phi mâu thuẫn của tư tưởng và các lỗi Lơgic thường có trong thực
tiễn tư duy. Sự tác động của luật mâu thuẫn trong tư duy yêu cầu con người
không mâu thuẫn trong các lập luận, trong công việc liên kết các tư tưởng. Để là
chân thực thì các tư tưởng phải nhất quán phi mâu thuẫn. một tư tưởng sẽ là giải
dối khi có chứa mâu thuẫn Lôgic.
Do yêu cầu đã nêu mà đôi khi luật mâu thuẫn còn được gọi là luật cấm mâu
thuẫn. Gọi là luật cấm mâu thuẫn có nghĩa là đồng nhất nó với u cầu do con
người định hình lên trên cơ sở của quy luật (“ nguyên tắc phi mâu thuẫn”).
Yêu cầu cấm mâu thuẫn Lôgic được khai triển cụ thể như sau:
Thứ nhất, khơng được có mâu thuẫn trực tiếp trong lập luận khi khẳng định
một đối tượng và đồng thời lại phủ định ngay chính nó.
Thứ hai, khơng được có mâu thuẫn gián tiếp trong tư duy, tức là khẳng định
đối tượng, nhưng lại phủ nhận hệ quả tất suy từ nó.
1.2.3. Quy luật bài trung
Luật này gắn liền với luật mẫu thuẫn, với sự cần thiết phải loại bỏ các mâu
thuẫn Lôgic trong tư duy. Như đã nêu trên, luật mâu thuẫn khẳng định, hai tư
[Nhập môn Lôgic học]
tưởng mâu thuẫn không thể cùng chân thực. Nhưng khơng cho biết, chúng có
thể cùng giả dối không.
Luật bài trung trả lời câu hỏi ấy. Theo nghĩa này, có thể coi nó là sự bổ sung
cho luật mâu thuẫn (và suy ra, cho cả luật đồng nhất). Sự tác động của nó cũng
bị chế định bởi tính xác định của tư duy, tính nhất quán và phi mâu thuẫn của nó.
Nhưng luật bài trung cịn có tính độc lập tương đối, có lĩnh vực tác động và vai
trị riêng của mình
Cơ sở khách quan của luật bài trung. Cũng chính là tính xách định về chất
của các đối tượng, một cái gì đó tồn tại hay khơng tồn tại, thuộc tầng lớp này
hay lớp khác, nó vẫn có hay khơng có tính chất nào đó.
Nội dung của luật bài trung: “Hai phán đoán mẫu thuẫn nhau về cùng một
đối tượng, được khảo cứu trong cùng một thời gian và trong cùng một quan hệ,
không thể đồng thời giả dối; một trong chúng nhất định phải chân thực, cái cịn
lại phải giả dối, khơng có trường hợp thứ 3”.
Công thức: “a v 7 a”
Lĩnh vực tác động của luật bài trung hẹp hơn so với luật mâu thuẫn, ở đâu có
luật bài trung, ở đó nhất thiết có luật mâu thuẫn, nhưng ở nhiều nơi luật mẫu
thuẫn tác động, nhưng luật bài trung lại không. Luật bài trung tác động quan hệ
giữa các phán đoán mâu thuẫn (A – O; E – I), điều đó có nghĩa là luật bài trung
dùng để loại bỏ những mâu thuẫn trong trường hợp nêu ra những phán đoán trái
ngược nhau ở một trong ba kiểu:
(A-E, đơn nhất); (A-O); (E-I)
Trong cả ba trường hợp, theo luật bài trung một phán đoán nhất định phải
chân thực, cịn phải đốn kia là giả dối. Nhưng nó khơng tác động trong các mối
quan hệ qua lại giữa các phán đoán đối lập, dù luật mâu thuẫn tác động cả ở đây:
[Nhập môn Lôgic học]
chúng không thể đồng thời chân thực, nhưng có thể đồng thười giả dối, vì vậy
mà khơng nhất thiết tuân theo luật bài chung
Những yêu cầu của luật bài chung và các lỗi vi phạm chúng. Luật bài chung
yêu cầu phải lựa chọn – một trong hai – theo ngun tắc “Hoặc là, hoặc là”
(khơng có giải pháp thứ ba). Điều đó có nghĩa là trong việc giải quyết vấn đề
mang tính giải pháp thì khơng được lảng tránh câu trả lời xác định; khơng thể
tìm cái gì đó trung gian, đứng giữa, thứ ba
Sự vi phạm yêu cầu lựa chọn thường biểu hiện khác nhau. Nhiều khi chính
vấn đề được đặt ra, được định hìnhh khơng phải theo giải pháp mâu thuẫn nhau.
Nói chung, luật bài chung chỉ tác động ở các mệnh đề mâu thuẫn như đã nêu
trên, nhưng chúng phải là những mệnh đề có nghĩa. Nếu câu hỏi được nêu ra
thích hợp dưới dạng tinh thể phải lựa chọn, thì việc lảng tránh câu trả lời xác
đinh, cố tìm cái gì đó thứ ba, sẽ sai lầm.
1.2.4 Quy luật lý do đầy đủ
Cơ sở khách quan và nội dung của luật lý do đầy đủ. Sự phụ thuộc lẫn nhau
trong tồn tại khách quan của các đối tượng là cơ sở quan trọng nhất cho sự xuất
hiện và tác động trong tư duy luật lý do đầy đủ
Nội dung của luật: “Mọi tư tưởng đã định hình được coi là chân thực nếu
như đã rõ toàn bộ các cơ sở đầy đủ cho phép xác minh hay chứng minh tính
chân thức ấy”. Cơng thức có thể là: “A chân thực vì có B là cơ sở đầy đủ”
Cơ sở Lôgic liên quan chặt chẽ với cơ sở khách quan, nhưng cũng khác với
nó. Nguyên nhân là cơ sở khách quan, kết quả tác động của nó là hệ quả. Cịn cơ
sở Lơgic có thể là việc dẫn đến nguyên nhân, mà cũng có thể hệ quả để suy ra
một kết luận khác.
Luật lý do đầy đủ là kết quả khái quát thực tiễn suy luân.Luật này biểu thị
quan hệ của những tư tưởng chân thực với những tư tưởng khác – quan hệ kéo
[Nhập môn Lôgic học]
theo Lôgic, xét đến cùng, là đảm bảo sự tương thích của chúng với hiện thực. Có
nghĩa là, kết luận ln có đầy đủ cơ sở trong lập luận đúng. Do vậy, lĩnh vực tác
động của quy luật này trước hết là ở suy luận, rồi sau đó là ở chứng minh. Ngay
sự tồn tại của chứng mình đã chứng tỏ có quy luật này.
Những u cầu của luật lý do đầy đủ và các lỗi do vi phạm chủng. Luật lý do
đầy đủ đặt ra cho tư duy những yêu cầu sau: Mọi tư tưởng chân thực cần phải
được luận chứng, hay: không được công nhận một tư tưởng là chân thực, nếu
chưa có cơ sở cho việc cơng nhận ấy. Nói khác, chưa nên tin vào bất cứ cái gì:
cần phải dựa trên cơ sở các dữ kiện tin cậy và các luận điểm đã được kiểm
chứng từ trước. Luật này chống lại các tư tưởng phi Lôgic, không liên hệ với
nhau, vô tổ chức, thiếu chứng minh, các kết luận thiết sức thuyết phục, cái này
không được suy ra từ cái khác.
Lỗi Lôgic quan trọng nhất do vi phạm các yêu cầu của luật lý do đầy đủ là
lỗi: “Kéo theo ảo”. Nó bộc lộ ở nơi thật ra khơng có mối quan hệ Lôgic đầy đủ
giữa các tiền đề và kết luận, luận đề và các luận cứ, nhưng người ta lại cứ tưởng
là có mối liên hệ đấy.
Tóm lại, kết thúc nghiên cứu các quy luật của Lơgic hình thức, chúng ta
nhận thấy, việc tuân theo các yêu cầu của chúng là quan trọng và cần thiết, vì
chúng đảm bảo trong quá trình nhận thức tính nhất qn, tính phi mâu thuẫn
Lơgic, tính có cơ sở và được chứng minh
[Nhập mơn Lơgic học]
CHƯƠNG 2: VAI TRỊ VÀ Ý NGHĨA CÁC QUY LUẬT CỦA
LƠGIC HÌNH THỨC TRONG KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
2.1. Vai trị các quy luật của Lơgic hình thức trong khoa học và đời sống
Lơgic hình thức nghiên cứu các quy luật hình thức của tư duy trù tượng.
Nếu như quá trình nhận thức (khoa học) là từ trực quan sinh động đến tư duy trù
tượng rồi lại từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn thì Lơgic hình thức cho ta
các quy luật để suy luận trong giai đoạn tư duy trừu tượng của toàn bộ q trình
q trình nhận thức đó. Đặc trưng của nhận thức khoa học là khái quát hóa các
tri thức kinh nghiệm để tìm kím các quy luật phổ biến, rồi bách cách tổng hợp
các quy luật phổ biến từ nhiều khía và sự vật cụ thể.
Lơgic hình thức cho ta các quy luật để hình thành các khái niệm, các phán
đoán và đặc biệt các phương pháp suy lý để tiến hành các lập luận trên các phán
đốn đó. Một đặc điểm cơ bản cuả Lơgic hình thức là xem mỗi phán đốn có
một giá trị chân lý xác định, tức là mỗi phán đoán hoặc đúng, hoặc sai. Và các
quy luật suy lý cho ta cách lập luận để từ các giá trị chân lý của một số phán
đoán cho trước suy ra giá trị chân lý của một phán đoán đang xét.
Hơn bất kỳ nghành khoa học nào khác, tốn học có đối tượng nghiên cứu là
các quuan hệ và cấu trúc dưới dạng trừu tượng và khái quát nhất, nên toán học
cũng là địa hạt mà Lơgic hình thức được ứng dụng một cách đầy đủ và rộng rãi
nhất. Và đền lượt mình, tốn học cung cấp các kiểu mơ hình trừu trượng và các
phương pháp xử lý trong các mơ hình trừu tượng đó cho các nghành khoa học
khác trong việc phân tích và nghiên cứu các đối tượng của mình. Lơgic hình
thức là cơng cụ của tư duy trừu tượng, do đó nó cũng là công cụ quan trọng của
mọi nhận thức khoa học
Hệ thống các quy luật của Lơgic hình thức đã được sử dụng khá ổn định
trong suốt hơn hai nghìn nắm nay, và dường như tính đúng đến của nó khơng
[Nhập mơn Lơgic học]
cịn phải bàn cãi. Với các phương pháp tiên đề hóa và hình thức hóa của đầu thế
kỷ XX, Lơgic hình thức, dưới dạng cổ điển của nó, đã được chứng minh là phi
mâu thuẫn và đầy đủ, Thế nhưng, nếu như nó có thể là đầy đủ tự nổ, thì cũng
vẫn đáng hồi nghi tình đầy đủ của nó vời tư cách là cơng cụ của tư duy và nhận
thức.
Như đã nói ở trên, Lơgic hình thức là Lơgic hai giá trị, nó địi hỏi mọi phán
đốn mà nó xét phải có giá trị đúng hoặc sai. Nhưng trong thực tiễn nhận thức
của đời sống, ta lại gặp nhiều phán đốn mà tính đúng sai khó được xác định rõ
ràng. Vậy trong các trường hợp đó, liệu có thể tiến hành các lập luận Lơgic được
khơng ? Tất nhiên là không, nếu ta dừng lại ở Lơgic hình thức cổ điển. Có thể
mớ trộng để có những Lơgic khác trong đó cho phép tiến hành cac lập luật trên
những tri thức mà tính đúng sai khơng được xác đình rõ ràng hoặc chỉ rõ ràng ở
những mức độ khác nhau ? Người ta phải phát triễn nhiều lý thuyết theo hướng
đó, như Lơgic nhiều giá trị, Lôgic modal, Lôgic mở (fuzzy), Lôgic xác suất…
Ngay trong phạm vi hai giá trị của Lơgic hình thức cũng có khơng ít vấn đề
khơng thể giải quyết một cách dễ dàng. Đa sổ những vấn đề này đều liên quan
đến tính trừu tượng khá cực đoan của bản thân Lơgic hình thức khi địi hỏi tính
chân lý của các phán đoán phải được xét độc lập với nội dung ngữ nghĩa của các
phán đốn đó. Thí dụ nói về tính đúng sai của các phán đoán phức hợp “ nếu A
thì B “ sẽ vơ nghĩa nếu chỉ đề cập đến tình đúng sai của các phán đốn thành
phần A và B mà khơng quan tâm gì đến quan hệ nội dung có tính chất nhân quả
giữa A và B. Nếu như để khẳng định một phán đoán về sự tồn tại của mốt đối
tượng thc loại nào đó ta không cần biết tập hợp tất cả các đối tượng loại đó,
thì để phủ định sự tồn tại,ối oăm thay ta lại cần biết tập hợp tất cả các đối tượng
loại đó, tất nhiên biết tập hợp với tư cách tập hợp chứ không phải biết cụ thể
từng đối tượng trong tập hợp đó. Cái khơng đơi khi gây nên nhựng nghịch lý
Lơgic, thí dụ nếu bảo khơng có Thượng đế là đúng thì hẵn bạn bạn phải mơ tả
được Thượng đế là gì để bảo nó khơng có chứ, nhưng khi đã mơ tả được nó thì
[Nhập mơn Lơgic học]
cũng có nghĩa là nó đã tồn tại dưới một đồng nào đó rồi! Trong tốn học chứng
minh cái khơng thường khó hơn nhiều so với chứng minh cái có. Chẳng hạn, từ
hàng nghìn năm trước người ta đã chứng minh được có thuật tốn này thuật toán
nọ, nhưng phải đợi đến giữa thể kỷ XX này sau khi xây dựng được những lý
thuyết đầy đủ về thuật tốn, khó khăn lắm người ta mới chứng minh được sự
khơng có thuật tốn để giải một số bài tốn nhất định.
Một nhược điểm khác của Lơgic hình thức là tách rời hành vi lập luận với
đối tượng của lập luận. Chú ý rằng đối tượng của lập luận Lôgic là các khái
niệm trừu tượng, đẩy xa sự trừu trượng hóa đến một độ nào đó thì có thể làm
cho các quy luật Lôgic mất đi nhựng giá trị mà nó vốn có từ đầu. Thí dụ võ rệt
nhất là việc sử dụng sự trừu tượng hóa về vơ hạn thực tại (actual infnite) trong
toán học để xây dựng các khái niệm cúa giải tích tốn học. Lơgic hình thức áp
dụng lên các khái kiệm đó đã đưa đến những khẳng định về sự tồn tại của nhiều
đối tượng mà tốn học khơng có cách gì chỉ ra được chúng tồn tại ở đâu, làm sao
tìm được chúng. Nói chúng tồn tại mà khơng có cách nào tìm được chúng thì
liệu một lý thuyết trừu tượng như vậy cịn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nào
khơng. Sự phê phán này đã từng làm xuất hiện các yêu cầu xây dựng lại toán
học trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa trực quan và chủ nghịa kiến thiết,
các quan điểm này địi hỏi khơng được sử dụng những phép trừu tượng hóa q
“ phóng khống “ như về vơ hạn thực tại, và khơng cơng nhận tính phổ dụng của
các quy luật Lơgic hình thức cho mọi thế giới, đặc biệt cho cả những phép trừu
tượng hóa q phóng khống nói trên.
Trong vài chục năm gần đây, việc ứng dụng ngày càng rộng rãi máy tính
điện tử đã thúc đẩy việc nghiên cứu và thực hiện tự động hóa nhiều q trình
hoạt động trí tuệ về ngun tắc,cho đến nay máy tính điện tử chỉ có thể thực
hiện được những q trình mang tình chất thuật tốn, nhưng liệu có thể chung
quy về thuật tốn nhiều hoạt động trí tuệ của con người, nhất là khi máy tính có
tốc độ và năng suất tính tốn cực lớn ? Nghành trí tuệ nhân tạo ra đời,gần đây
[Nhập mơn Lơgic học]
được phát triễn nhanh chóng nhưng vẫn là phát triễn trong những tham vọng và
những nghịch lý.
Để cho máy tính có khả năng trí tuệ “ nhân tạo “, thì phải cấp cho nó tổ
chức và khả năng lý luận, lý giải trên cơ sở tri thức đó như hoặc gần như con
người vốn có. Mà ngồi tốn học và những gì liên qn đến tốn học ra, thì tri
thức con người vốn có thường khơng chính xác và khơng chắc lắm. Khơng
chính xác vì nhiều khái niệm được sử dụng trong cuộc sống vốn khơng có nội
dung chính xác, khơng chắc chắn vì tuy sự kiện khách quan có thể chắc nhưng
nhưng ta khơng đủ khả năng để biết chắc. Rõ ràng, với loại tri thức này thì
Lơgic hình thức cổ điển hai giá trị khơng thể thích dụng được. Con người thực
chúng ta hằng ngày đã xử lý chúng như thế nào, ta cũng chưa biết rõ. Phải chăng
cần có những Lơgic khác cho các loại tri thức đó? Và, nếu biết được các Lơgic
đó, phải chăng ta có thể “ thuật tốn hóa “ chúng để rồi cho máy tính bắt chước?
Mơ tả tính khơng chính xác của tri thức bằng khái niệm mờ (fuzzy), người ta đã
xây dựng lý thuyết Lôgic mở, mô tả tính khơng chắc chắn của tri thức bằng một
số đó xác suất hoặc bằng một hàm tin tương (belief function), người ta đã phát
triển các lí thuyết xác suất và các lý thuyết về sự tin tưởng …
Trí tuệ nhân tạo là trí tuệ mà con người gắn vào cho máy. Khơng biết bao
giờ máy móc mới có khả năng trừu tượng hóa như người để có thể hình dung ra
những thứ như “vô hạn” chứ như hiện nay thì đủ khả năng lưu trữ hàng tỷ bytes,
trí nhớ của máy ln là hữu hạn. Lơgic hình thứ cổ điển tự cho mình cái năng
lực phổ dụng, bất chấp đối tượng là hữu hạn hay là vơ hạn, vì vậy nó có thể
khơng thích hợp với tri thức của máy. Thí dụ, nếu như trong bộ nhớ của máy lưu
trữ một danh sách 1000 người tồn đàn ơng thì đối với câu hỏi “có đàn bà trên
thế giới này khơng” chắc chắn nó sẽ trả lời là “khơng”. Tính hữu hạn và thiếu
khả năng tưởng tượng của máy buộc phải tìm cho nó một Lơgic khác, những
Lơgic này thường có tính chất khơng đơn điệu, nghĩa là việc mở rộng tri thức
không nhất thiết kéo theo việc mở rộng tập hợp các định lí của nó.
[Nhập môn Lôgic học]
Việc nghiên cứu và phát triển nhiều lý thuyết Lơgic kể trên có thể làm giảm
vai trị của Lơgic hình thức (cổ điển) trong tư duy trừu tượng của con người hay
không. Con người, trong hoạt dộng tư duy trừu tượng của mình vẫn chỉ dùng
hình thức Lơgic hình thức như trước hay dùng đồng thời các hình thức khác
nhau. Có lẽ câu trả lời thích đáng là: các loại Lôgic kể trên về hoạt động về thực
chất là sự mô phỏng hoạt động nhận thức của con người trong những tình huống
trí thức khác nhau, sự mơ phỏng đó sẽ có chút gì đó tương tự, nhưng không nhất
thiết phải phù hợp với thực tế nhận thức của con người trong các tình huống đó,
điều mà đối với chúng ta vẫn là bí ẩn. Vì vậy, các loại Lơgic đó cũng chỉ là
những đối tượng nghiên cứu của khoa học, được xem như đối tượng của tư duy
chứ không phải công cụ tư duy trừu tượng như Lơgic hình thức cổ điển.
2.2. Ý nghĩa các quy luật của Lơgic hình thức trong khoa hoa và đời sống
Hình thức biểu hiện bên ngồi của tư duy là ngơn ngữ. Trong trường tư duy
theo Lơgic hình thức, thì đó là ngơn ngữ tự nhiên (con gọi là ngơn ngữ thông
thường ngôn ngữ gia tiếp). Vậy ngôn ngữ tự nhiên là đối tượng phải tn thủ
Lơgic hình thức. Nếu ta mà dùng ngôn ngữ tự nhiên mà thiếu hiểu biêt về ngơn
ngữ hình thức sẽ dễ dàng dẫn tới chỗ lập luận và nhận thức sai lầm. Tuy rằng
hiện nay tùy theo những đặc thù riêng của mình, mỗi ngành khoa học đều áp
dụng những hình thức Lơgic riêng phù hợp với nó. Trong lĩnh vực khoa học tự
nhiên, ngơn ngữ tốn học và Lơgic tốn học đã hồn tồn ngự trị. Những ngơn
ngữ tốn và những ngơn ngữ khác đều có những nhược điểm riêng của mình.
Chúng khơng có khả năng bao quát hết mọi lĩnh vực khoa học và đời sống xã
hội. Ngôn ngữ tự nhiên và bản chất sẵn có của mình, có khả năng tác động trực
tiếp vào thế giới quan của mỗi người, do nó phản ánh trực tiếp hình ảnh trực
quan của thế giới tự nhiên, qua đó tác động đến nhân sinh quan và lối sống của
con người. Vì vậy, ngơn ngữ tự nhiên chiếm một phần rất quan trong khoa học
và đời sống xã hội, mà không một ngôn ngữ nào khác có thể thay đổi được.
[Nhập môn Lôgic học]
Thật vậy, dù ngay trong một ngành khoa học cụ thể mà nó dùng một ngơn
ngữ riêng, theo một Lơgic riêng phù hợp với nó. Thì ở đó cũng khơng loại bỏ
hồn tồn ngơ ngữ tự nhiên được. Bởi vì khơng có bất kì một ngành khoa học
nào tồn tại độc lập, cô lập và tách biệt với đời sống xã hội và các ngành khác.
Mà chúng tồn tại trong mơi liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với
nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Những kết quả thu được từ một ngành khoa
học này, phải phổ biến ra ngoài để cho các ngành khoa học khác và đời sống xã
hội thu nhận. Ngược lại nó cũng có nhu cầu tiếp thu những thành quả đạt được
của những ngành khác để phát triển. Nhưng thực tế mỗi một ngành khoa học lại
chỉ có một ngơn ngữ riêng của mình, mà những nhà khoa học trong các ngành
khác và những người dân bình thường trong xã hội khó mà hiểu nổi. Từ lý do
đó, việc u câu có một ngơn ngữ chung thống nhất, đảm bao có khả năng bao
quát hết mọi lĩnh vực khoa học và đợi sống xã hội. Việc thiếu hiểu biết về Lơgic
hình thức cũng như khả năng sử dụng nó sẽ dẫn tới chỗ tư duy ko chính xác, cho
ra kết quả sai lầm. Làm cản trở sự tiến bộ của khoa học và đời sống xã hội.
Trên đây là trình bày sơ lược một vài nét phát triển của Lơgic hình thức và
các vấn đề liên quan đến nó trong nhưng năm gần đây. Ngày nay, khi khoa học
đã đạt đến trình đồ phát triễn cực kỳ rực rỡ thì cũng là lúc con người nhận thấy
rõ rảng rằng nhận thức bàng con đường khoa học không phải là phương pháp
duy nhất của nhận thức nói chung. Con đường khoa học, bằng tư duy trừu tượng
với việc vận dụng Lơgic hình thức nhằm đạt tới các quy luật phổ biến rồi từ đó
các quy luật phổ biến trở lại quy luật nhận thức cái cụ thể, dẫu là sâu sắc vẫn có
tính chất gián tiếp, và ln cho ta những chân lí tương đơi những sự thật xấp xỉ.
Ta đã từng biết các nhược điểm đó, ta cũng đã từng tin rằng dẫu có nhược điểm
nhưng nhận thức khơng có ngày khác. Nhưng phải chăng sự thật là thế, phải
chăng, cùng với phương pháp nhận thức khoa học, con người vốn vẫn có những
cách nhận thức khác, khơng nhận thiết qua hình thức học và trừu tượng mà trực
tiếp là từ cụ thể đến cụ thể, trong một kiểu hịa nhập nào đó giữa chủ thể nhận
[Nhập môn Lôgic học]
thức với đối tượng nhận thức? Và có thể chăng, trong bối cảnh đó ta có thể xác
định đúng đắn hơn vị trí và sức mạnh tư duy trừu tượng và Lơgic hình thức
trong tồn bộ hoạt động nhận thức của con người.
[Nhập môn Lôgic học]
Phần 3: KẾT LUẬN
Những quy luật cơ bản của lơgíc hình thức là tiêu chuẩn bắt buộc của tư
duy chính xác và có ý nghĩa cơ bản trong tất cả các họat động của tư duy lơgíc.
Việc lĩnh hội một cách sâu sắc quy luật đó có ý nghĩa rất quan trọng đối với bất
kỳ lĩnh vực nhận thức khoa học nào.
Các quy luật đó có quan hệ chặc chẽ với nhau, không được tách rời hay quá
coi trọng một quy luật nào trong quá trình vận dụng. Sử dụng những quy luật
lơgíc đúng phạm vi, vị trí của nó khơng chỉ có ý nghĩa về nhận thức mà cịn có ý
nghĩa thực tiễn to lớn. Nó cịn là cơng cụ mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh lý luận,
tư tưởng hiện nay nhằm chống lại các quan điểm sai trái của chủ nghĩa xét lại và
chủ nghĩa cơ hội.
Tuân thủ nghiêm các quy luật cơ bản trình bày trên đây sẽ giúp chúng ta
suy nghĩ và trình bày tư tưởng của mình một cách rõ ràng, chính xác, ngắn gọn,
mạch lạc, dễ hiểu. Ứng dụng các quy luật này chúng ta cũng dễ dàng phát hiện
các sai lầm trong suy luận của người khác và của chính mình để phản bác, để
vạch trần sự ngụy biện, hoặc để tránh sai lầm.
Trang 24
[Nhập môn Lôgic học]
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO