Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Nghiên cứu phát triển và nâng cao hiệu quả áp dụng thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.46 KB, 106 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những tiến bộ to lớn về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
trong những thập niên cuối của thế kỷ XX đã tạo ra bước ngoặt mới cho sự
phát triển kinh tế – xã hội toàn cầu. Trên nền tảng đó, một phương thức
thương mại mới đã ra đời và phát triển nhanh chóng, đó là thương mại điện tử
(TMĐT).
Thương mại điện tử là một công cụ hiện đại sử dụng mạng Internet giúp
cho doanh nghiệp có thể tìm kiếm, thâm nhập thị trường thế giới, thu thập
thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và chính xác hơn. Sự xuất hiện và bùng nổ
của thương mại điện tử đã làm khoảng cách địa lý giữa các quốc gia gần gũi
hơn và tạo ra hướng phát triển mới, mở đường cho thương mại quốc tế. Hình
thức thương mại này đã mang lại cho xã hội, doanh nghiệp và các cá nhân
một công cụ mới, tiện lợi, dễ dàng và hiệu quả hơn.
Có thể nói, thương mại điện tử đã thổi một làn gió mới vào cách thức
tiến hành kinh doanh truyền thống. Việc kinh doanh thương mại điện tử thay
thế phương thức truyền thống đang dần trở nên phổ biến. Các doanh nghiệp
cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Đây là một cơ hội thuận lợi để các
doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường. Ứng dụng
thương mại điện tử giúp doanh nghiệp giảm chi phí, tiết kiệm thời gian, nâng
cao hiệu quả phân phối – bán hàng, giúp khách hàng và doanh nghiệp tiện lợi
hơn trong việc trao đổi thông tin, đặc biệt khi đối tác là các doanh nghiệp
nước ngoài.
Trước bối cảnh đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hơn
lúc nào hết, các doanh nghiệp nước ta cần nhận thức rõ vai trò của thương mại
điện tử đối với hoạt động kinh doanh của đơn vị mình, phải thay đổi hay phát
triển phương thức kinh doanh làm sao phù hợp và theo kịp

4



các nước tiên tiến trên thế giới. Nếu thờ ơ, bàng quan và không chịu tiến bộ,
doanh nghiệp đó đã tự loại mình ra khỏi cuộc chơi toàn cầu.
Xuất phát từ những ý nghĩa thực tiễn trên, sau thời gian học tập và
nghiên cứu tại trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội, em đã chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp ” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài


Nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu liên quan đến cơ sở lý luận của
thương mại điện tử và hiệu quả áp dụng thương mại điện tử.


Nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích và đánh giá về thực trạng áp dụng
thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp căn cứ vào
các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả áp dụng thương mại điện tử.


Căn cứ vào tình hình ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp , đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề liên quan tới thương mại điện tử
và hiệu quả áp dụng thương mại điện tử.


Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu hiệu quả áp dụng
thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Phương pháp nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu về thương mại điện tử
và các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử.


Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh và đánh giá thực trạng áp
dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
5


5. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu
khóa luận được chia thành ba chương:


Chương I: Cơ sở lý luận về thương mại điện tử và hiệu quả áp dụng
thương mại điện tử


Chương II: Thực trạng áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp


Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thương mại điện
tử trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

6



CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở
I. TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm Thương mại điện tử
Là một lĩnh vực mới, tên gọi và các định nghĩa của Thương mại điện tử
có nhiều và nội dung cũng không hoàn toàn thống nhất. Trong nhiều văn bản
khác nhau, chúng ta có thể gặp những từ như “Thương mại trực tuyến”
(Online trade), “Thương mại khiển học” (Cyber trade), “Kinh doanh điện tử”
(Electronic business), “Thương mại không giấy tờ” (paperless commerce),…
Các từ vựng này được sử dụng nhiều rồi được đưa vào văn bản pháp luật quốc
tế. Nhiều khi với các tên gọi khác nhau, người ta vẫn dùng và hiểu theo cùng
một nội dung. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về TMĐT.
Thương mại điện tử (TMĐT) là khái niệm do tập đoàn IBM khởi xướng
năm 1997 thông qua một chiến dịch quảng cáo. Theo IBM, TMĐT là những
gì diễn ra khi kết nối khả năng rộng lớn của mạng Internet với các hệ thống
công nghệ thông tin truyền thống. Theo đó, phạm vi của TMĐT sẽ bao gồm
mạng cục bộ, mạng ngoại bộ và mạng Internet 1 . Cách định nghĩa này chủ yếu
nhấn mạnh đến phương tiện kỹ thuật của TMĐT và không nhìn TMĐT dưới
góc độ kinh tế.

1 Phòng Thương mại và Công nghiệp (VCCI): Chiến dịch thương mại điện tử của IBM được gọi là ecommerce. Sản phẩm mà IBM cung cấp là Net.Commerce, một phần mềm ứng dụng cho doanh nghiệp B2B
(doanh nghiệp tới doanh nghiệp) và B2C (doanh nghiệp tới người dùng). Giá khởi đầu của Net.Commerce là
4,999 USD dành cho các doanh nghiệp hoặc chủ kinh doanh muốn thiết lập cửa hàng trực tuyến.
Net.Commerce là một phần mềm mà trên đó các giải pháp về thương mại điện tử của IBM được thực hiện.

7


Khó có thể đưa ra được một khái niệm thống nhất, rõ ràng và hoàn

chỉnh về thương mại điện tử. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát thì các định
nghĩa về TMĐT được chia thành hai nhóm quan điểm:
- Khái niệm TMĐT theo nghĩa hẹp:
Theo nghĩa hẹp, TMĐT chỉ đơn thuần bó hẹp trong việc mua bán hàng
hoá và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử, nhất là qua Internet và các
mạng viễn thông khác.
Theo cách hiểu này, TMĐT thường được đồng nhất với khái niệm
TMĐT qua Internet (hay còn gọi là thương mại Internet – Internet commerce).
Đó là việc tiến hành hoạt động thương mại thông qua mạng Internet hay việc
bán và mua sản phẩm dịch vụ thông qua các cửa hàng trực tuyến. Với nghĩa
này, TMĐT còn gọi là Thương mại trực tuyến (online trade) hay thương mại
điều khiển học (cybertrade).
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), “Thương mại điện tử bao
gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán
và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình,
cả các sản phầm giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng
Internet”.
Theo Uỷ ban Thương mại điện tử của Tổ chức hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương (APEC), “Thương mại điện tử là công việc kinh doanh
được tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật
số”.
- Khái niệm TMĐT theo nghĩa rộng:
Theo nghĩa rộng, TMĐT là toàn bộ chu trình và các hoạt động kinh
doanh liên quan đến tổ chức, công ty hay cá nhân. Đó là các giao dịch tài
chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu, chuyển
tiền điện tử và các hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng.

8


Luật mẫu về Thương mại điện tử của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật

Thương mại quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: “Thương mại điện tử là việc
trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện điện tử, không cần
Internet ra giấy bất cứ công đoạn nào của toàn bội quá trình giao dịch”.
Thuật ngữ “thương mại” (commerce) cần được diễn giải theo nghĩa
rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương
mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại
(commercial) bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất
cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận
phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng (factoring), cho
thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn, kỹ thuật công trình
(engineering); đầu tư; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác
hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc
kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường
không, đường sắt hoặc đường bộ”.
Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi hoạt động của thương mại
điện tử rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó
hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong
TMĐT.
Theo Uỷ ban châu Âu: “Thương mại điện tử được hiểu là việc thực
hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử
lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh”.
“Thương mại” (commerce) trong “thương mại điện tử” không chỉ là
buôn bán hàng hóa và dịch vụ theo cách hiểu thông thường, mà bao quát một
phạm vi rộng lớn hơn nhiều, trong đó việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm
thay đổi hình thái hoạt động của hầu hết nền kinh tế.
Tuy nhiên, Liên Hiệp Quốc đã đánh giá rằng nhìn chung các định nghĩa
nêu trên đều vẫn mang đặc tính mô tả và không thể hiện được đầy đủ bản chất
9



của TMĐT. Những cố gắng xây dựng một chuẩn thích hợp để tạo điều kiện
cho công tác nghiên cứu và thông kê của các tổ chức quốc tế lại làm xuất hiện
một lượng không nhỏ các định nghĩa không thống nhất, thậm chí nhiều trường
hợp trái ngược. Như vậy, nhằm góp phần giúp các nước nhất là các nước đang
phát triển nhận thức đầy đủ về TMĐT trên mọi khía cạnh để xây dựng cho
mình chiến lược thành công trong lĩnh vực này, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra
định nghĩa về TMĐT xét trên hai khía cạnh:


Khía cạnh thứ nhất (còn gọi là định nghĩa theo chiều ngang): phản
ánh các bước của TMĐT hay cụ thể hơn là cách định nghĩa theo chu trình
kinh doanh. “TMĐT là việc thực hiện toàn bộ chu trình kinh doanh bao gồm
marketing (M), bán hàng (S), phân phối (D) và thanh toán (P) thông qua các
phương tiện điện tử”.


Khía cạnh thứ hai (còn gọi là định nghĩa theo chiều dọc): phản ánh
TMĐT dưới góc độ Nhà nước. Cách định nghĩa này nhấn mạnh tới vai trò
hoạt động của các Nhà nước, các tổ chức và các doanh nghiệp có liên quan và
được mô hình hóa bằng mô hình IMBSA.
Mô hình IMBSA đề cập tới các lĩnh vực cần xây dựng để phát triển
TMĐT bao gồm:
I (Infrastructure): Cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin và truyền thông
cho sự phát triển TMĐT.
Theo Báo cáo Thương mại Điện tử của Vụ Thương mại, số người dùng
Internet năm 2007 tăng 26,3% so với năm 2006, đạt 18,5 triệu người, chiếm
22,0% dân số. Tỷ lệ người dùng Internet đã vượt mức trung bình của thế giới
(19,1%). Đặc biệt, số lượng các thuê bao băng thông rộng tăng nhanh trong hai
năm 2006 – 2007. Tổng số thuê bao vào cuối năm 2007 đạt gần 1,3 triệu, gấp 6
lần so với thời điểm tháng 12/2005 (0,21 triệu thuê bao). Xu hướng hội tụ công

nghệ giữa dịch vụ viễn thông, truyền thông và Internet cũng đang góp phần đẩy
nhanh tốc độ phổ cập Internet. Vì xét cho cùng, nếu không phổ cập

10


dịch vụ Internet thì không thể phát triển thương mại điện tử được. Chính vì
vậy, UNCTAD đã đưa ra lĩnh vực đầu tiên cần phát triển chính là Cơ sở hạ
tầng Công nghệ thông tin và truyền thông, tạo lớp vỏ đầu tiên cho TMĐT.
M (Messages): Các vấn đề liên quan đến Thông điệp dữ liệu.
Thông điệp chính là tất cả các loại thông tin được truyền tải qua mạng,
qua Internet trong thương mại điện tử. Ví dụ như Hợp đồng điện tử, các chào
hàng, hỏi hàng qua mạng, các chứng từ thanh toán điện tử,…đều được coi là
thông điệp, chính xác hơn là “thông điệp dữ liệu”. Tại các nước cũng như ở ,
những thông điệp dữ liệu khi được sử dụng trong các giao dịch TMĐT đều
được thừa nhận giá trị pháp lý. Điều này được thể hiện trong các Luật mẫu
của Liên Hợp Quốc về giao dịch điện tử hay Luật TMĐT của các nước, cũng
như trong Luật Giao dịch điện tử của .
B (Basic Rules): Các quy tắc cơ bản điều chỉnh chung về TMĐT. Đó
chính là các luật điều chỉnh những lĩnh vực liên quan đến TMĐT trong một
nước hoặc khu vực và quốc tế.
Chẳng hạn như ở hiện nay có Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ
Thông tin. Đối với khu vực có Hiệp định khung về TMĐT của các khu vực
như EU, ASEAN,… Hiệp định về Công nghệ thông tin của WTO, về
Bảo hộ sở hữu trí tuệ, và việc thừa nhận giá trị pháp lý khi giao dịch xuyên
“biên giới quốc gia”.
S (Sectoral Rules/Specific Rules): Các quy tắc riêng, điều chỉnh từng
lĩnh vực chuyên sâu của TMĐT, như: Chứng thực điện tử, chữ ký điện tử,
Ngân hàng điện tử (thanh toán điện tử). Thể hiện dưới khía cạnh pháp luật ở
có thể là các Nghị định chi tiết về từng lĩnh vực. Hay các tập quan thương

mại quốc tế mới như Quy tắc về xuất trình chứng từ điện tử trong thanh toán
quốc tế (e – UCP), hay quy tắc sử dụng vận đơn điện tử (của Bolero).

11


A (Applications): Các ứng dụng TMĐT, hay các mô hình kinh doanh
thương mại điện tử cần được điều chỉnh, cũng như đầu tư, khuyến khích để
phát triển. Khi các nền tảng I, B, M và S đã đạt được thì việc ứng dụng
TMĐT và xây dựng chiến lược phù hợp sẽ mang lại thành công.
Ví dụ như: Các mô hình Cổng TMĐT quốc gia (ECVN.gov), các sàn giao
dịch TMĐT B2B (như Vnemart.com) cũng như các mô hình B2C
(golmart.com.vn, Amazon.com), C2C (đấu giá Ebay.com), hay các website của
các công ty xuất nhập khẩu… đều được coi chung là các ứng dụng TMĐT.

Như vậy, định nghĩa TMĐT theo chiều dọc đưa ra danh sách các nền
tảng cần thiết cho việc xây dựng và phát triển TMĐT đối với một quốc gia.
Các chính phủ có thể lựa chọn và xác định một môi trường thích hợp cho sự
phát triển TMĐT tại quốc gia mình. Đồng thời các tổ chức kinh tế cũng thấy
được những công việc cần làm để phát triển TMĐT trên quy mô toàn cầu như
việc xây dựng các tiêu chuẩn, quy định, quy tắc cũng như các hướng dẫn…
Từ hai định nghĩa trình bày ở trên, có thể rút ra hai nhận xét về TMĐT.
Thứ nhất, TMĐT bao gồm toàn bộ chu trình và các hoạt động kinh doanh của
các chính phủ, các tổ chức, các công ty và cá nhân được thực hiện thông qua
các phương tiện điện tử. Thứ hai, TMĐT phải được xây dựng trên một nền
tảng vững chắc về cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở hạ tầng về kinh tế, công
nghệ, pháp lý và nguồn nhân lực).
Do đó, định nghĩa chung nhất về TMĐT theo cách nhìn của Liên Hiệp
Quốc có thể được trình bày như sau: “ TMĐT bao gồm toàn bộ chu trình và
các hoạt động kinh doanh được thực hiện qua các phương tiện điện tử dựa

trên nền tảng vững chắc về cơ sở hạ tầng kinh tế, công nghệ, pháp lý và nguồn
nhân lực có liên quan”.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy được TMĐT mang một
số đặc trưng sau:

12


 TMĐT là một hình thái hoạt động thương mại phát triển từ thương
mại truyền thống. TMĐT cũng thực hiện nhiều bước giao dịch giống như
thương mại truyền thống nhưng cũng có nhiều khác biệt. TMĐT tạo cho các
bước giao dịch nhanh hơn, rẻ hơn, phong phú hơn và thuận tiện hơn. Việc gửi
và nhận tài liệu theo kiểu truyền thống trên giấy phức tạp, mất nhiều thời gian
và chi phí, trong khi đó, việc tạo, gửi và nhận tài liệu trên cơ sở dữ liệu máy
tính rất thuận tiện, nhanh chóng và ít tốn kém hơn. So với hoạt động thương
mại truyền thống, TMĐT có một số điểm khác biệt cơ bản sau:
 Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp
với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ trực tiếp để tiến hành
giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyễn tắc vật lý như

chuyển tiền, séc, hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông
như fax, telex,... chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên,
việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để
truyền tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch.
TMĐT cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh
đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp nơi đều
có cơ hội nganh nhau tham gia vào thị trường toàn cầu và không đòi hỏi nhất
thiết phải có mối quen biết với nhau.
Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tài

của khải niệm biên giới quốc gia, còn TMĐT được thực hiện trong một thị
trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). TMĐT trực tiếp
tác động đến môi trường cạnh tranh toàn cầu.
TMĐT càng phát triển thì máy tính cá nhân càng trở thành cửa sổ cho
doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Với TMĐT, một doanh
nhânh dù mới thành lập đã có thể kinh doanh ở Mỹ, Nhật Bản, Đức,… mà
không hề phải bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm.
13


 Trong mọi hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham gia của ít nhất
ba chủ thể.
Trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như
giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà cung
cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực… Họ là những người tạo môi
trường cho các giao dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan
chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham
gia giao dịch TMĐT, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin
trong giao dịch TMĐT.
Đối với thương mại truyền thống, mạng lưới thông tin chỉ là phương
tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT, mạng lưới thông tin chính là thị
trường.
 Thông qua TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành.
Ví dụ: Những dịch vụ gia tăng trên mạng máy tính hình thành nên các
nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới kinh doanh và tiêu dùng; các siêu
thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính.
Các trang web khá nổi tiếng như Yahoo!, America Online hay Google
đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin trên mạng. Các trang web
đã trở thành các “khu chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần nhấn chuột, khách
hàng có thể truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng

vào thăm rồi mua hàng là rất cao. Người tiêu dùng đã bắt đầu mua một số loại
hàng trước đây được coi là khó bán trên mạng. Nhiều người sẵn sàng trả thêm
một chút tiền còn hơn là phải đi tới tận cửa hàng. Một số công ty đã mời khách
may đo quần áo trên mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng
dẫn tới cửa hàng (qua Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ
quần áo theo đúng yêu cầu của mình. Điều tưởng như không thể thực hiện được
này cũng cũng có rất nhiều người hưởng ứng.

14


Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa
thông tin lên web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên web bằng
cách mở cửa hàng ảo. Cửa hàng hay gian trưng bày hàng hóa trong thương
mại truyền thống được thay thế bằng các webpage giới thiệu sản phẩm hay
các e-catalogue trên Internet. Các giấy tờ thủ tục trong thương mại truyền
thống (đơn chào hàng, đặt hàng, báo giá, hóa đơn, biên lai, biên bản giao nhận
hàng hóa…) được thay thế bằng các hình thức khác như thư điện tử, dữ liệu
điện tử…
1.2. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Thương mại Điện tử
Để thành công trong kinh doanh điện tử, yêu cầu hàng đầu chính là phải
có một hạ tầng công nghệ thông tin ở mức độ phát triển nhất định, bao gồm:
- Hạ tầng về mạng
- Hạ tầng an toàn bảo mật
- Môi trường ứng dụng server
- Công cụ quản lý dữ liệu và dung liệu
- Công cụ phát triển ứng dụng
- Hệ thống điều khiển và phần cứng
- Cơ sở quản lý hệ thống
Mức độ phát triển nhất định của hạ tầng công nghệ thông tin phải luôn

đáp ứng được nhu cầu ngày một nâng cao của việc kinh doanh TMĐT, tức là
nó phải đảm bảo các yêu cầu về tính linh hoạt, tính quy mô và tính an toàn, tin
cậy.
Tính linh hoạt của hạ tầng công nghệ cho phép TMĐT có thể dễ dàng
được tiếp cận hay nhanh chóng thích ứng với những ứng dụng mới. Hiện nay,
người tiêu dùng truy cập Internet không chỉ qua các máy tính cá nhân mà còn
qua nhiều phương tiện hiện đại như điện thoại di động, các thiết bị số cá nhân

15


(PDAs)…thì công nghệ cho kinh doanh trực tuyến cũng phải thích nghi với
những phương thức tiếp cận này.
Đảm bảo tính quy mô của công nghệ tức là đảm bảo khả năng xử lý
khối lượng công việc ngày càng tăng. Thực tế chứng minh rằng, với sự phát
triển hàng ngày của công nghệ thông tin, để tăng tính quy mô thì công nghệ
cũng phải thường xuyên nâng cấp, và chi phí cho việc nâng cấp liên tục này là
không hề nhỏ.
Tính an toàn tin cậy của hạ tầng công nghệ không thể đạt được nếu chỉ
có những ứng dụng mật mã thông thường. Để bảo mật thông tin, các doanh
nghiệp cần áp dụng những chứng chỉ số an toàn (như chữ ký điện tử) và có
các chính sách quản lý thông tin cụ thể.
1.3. Các vấn đề pháp lý của Thương mại Điện tử
Tại mỗi nước, TMĐT chỉ có thể tiến hành khi tính pháp lý của nó được
thừa nhận (biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao
dịch điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số hóa, các thanh toán điện tử, các dữ liệu
có xuất xứ từ các cơ quan nhà nước, sở hữu trí tuệ hàm chứa trong thông tin
trên Web, bí mật đời tư và bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin chống tội
phạm xâm nhập), có các cơ quan xác thực chứng nhận chữ ký điện tử,… Trên
bình diện quốc tế, vấn đề môi trường pháp lý còn nhiều phức tạp hơn nữa, vì

nhiều giao dịch TMĐT được thực hiện trên quy mô toàn cầu nên đòi hỏi phải
có sự hài hòa giữa các hệ thống pháp luật vốn được xây dựng trên nền tảng
các hệ thống chính trị khác nhau. Những văn bản pháp luật về TMĐT của các
quốc gia cũng cần có sự thống nhất cơ bản để hoạt động kinh doanh TMĐT
được đơn giản và hiệu quả. Tuy nhiên bộ luật cũng như những văn bản quy
định về hoạt động TMĐT hiện hành của các nước vẫn còn nhiều sự khác biệt
dễ dẫn đến xung đột pháp lý.
Một vấn đề khó khăn nữa, đó là việc đánh thuế các dung liệu, tức là các
hàng hóa “phi vật thể” (như âm nhạc, chương trình truyền hình, chương trình
16


phần mềm…) được giao trực tiếp giữa các đối tác thông qua mạng. Vấn đề
thu thuế sẽ càng phức tạp hơn trong trường hợp thanh toán vô danh
(anonimous payment) bằng thẻ thông minh. Kiểm toán các công ty mua bán
bằng phương thức TMĐT cũng đang là vấn đề nan giải đối với quản lý Nhà
nước.
Ngoài ra, TMĐT còn đòi hỏi mọi doanh nghiệp cũng như các sản phẩm
đều được mã hóa thống nhất, nói cách khác đòi hỏi phải có một môi trường
kinh tế đã tiêu chuẩn hóa ở mức cao. Tin học hóa hệ thống thanh toán tài
chính đi liền với việc mã hóa toàn bộ hàng hóa, hay “đánh số sản phẩm”
(product numbering) là vấn đề không chỉ có tính quốc gia, mà có tính quốc tế,
trên cơ sở của các chuẩn và định chế EAN – International và Uniform Code
Council, thể hiện dưới dạnh các vạch, mã số, gọi là mã số vạch (bar – code);
theo đó, tất cả các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đều được mã hóa bằng một
số 13 con số và các công ty đề có địa chỉ của mình bằng một mã có từ 100
đến 100000 con số. Việc thiết lập toàn bộ hệ thống mã sản phẩm và mã công
ty (gọi chung là mã hóa thương mại: commercial coding) cho một nền kinh tế
là một vấn đề không đơn giản, nhất là đối với các nước đang phát triển.
TMĐT xuất hiện đặt ra hàng loạt vấn đề cần phải quan tâm và giải

quyết thích đáng. Môi trường kinh doanh trong TMĐT là một môi trường
hoàn toàn mới, môi trường kinh doanh ảo. Vì vậy, muốn ứng dụng TMĐT,
cần phải có một cơ sở pháp lý định sẵn để điều chỉnh các mối quan hệ giao
dịch thương mại diễn ra trên mạng. Nhà nước sẽ phải cùng một lúc đóng 2 vai
trò: một là người cung cấp các dịch vụ điện tử và hai là người xây dựng hệ
thống pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất và cụ thể. Chỉ cần thiếu một trong số
những quy định cụ thể cho hoạt động TMĐT, các doanh nghiệp cũng như
người tiêu dùng sẽ gặp phải những tranh chấp, các cơ quan chức năng cũng
không có cơ sở để kiểm soát các hoạt động. Hơn nữa, TMĐT là một lĩnh vực
vẫn còn đang mới mẻ, cần phải có một cơ sở pháp lý hoàn chỉnh để củng cố
17


niềm tin của các chủ thể tham gia. Cơ sở pháp lý này phải bao gồm các đạo
luật về TMĐT, về sở hữu trí tuệ, về bảo vệ người tiêu dùng và an ninh chính
trị, vv…
Luật về TMĐT phải là một đạo luật thừa nhận tính pháp lý của các
chứng từ và chữ ký điện tử, điều chỉnh các giao dịch kinh tế và hành chính
thông qua con đường điện tử, những vấn đề về thanh toán, bảo mật thông
tin… Tuy nhiên, do các quan hệ trong TMĐT vượt qua biên giới quốc gia nên
luật về TMĐT của mỗi nước phải phù hợp với các công ước, điều ước quốc tế
hay các thỏa thuận liên quan đến TMĐT trong các tổ chức đa phương như Tổ
chức Thương mại thế giới WTO, Hiệp hội các nước Đông Nam á ASEAN,
Diễn đàn Kinh tế châu á - Thái Bình Dương APEC…
Luật sở hữu trí tuệ cũng phải được xây dựng và hoạt động nhằm mục
đích bảo vệ quyền lợi của những người chủ thông tin, bởi lẽ trong TMĐT, các
thông tin được truyền đi một cách tự do trên Internet. Đối với các doanh
nghiệp, khi kinh doanh trực tuyến, các sản phẩm và dịch vụ có thể dễ dàng bị
sao chép hoặc ăn cắp trên con đường truyền đi. Một khi các vấn đề về bằng
sáng chế, quyền tác giả, đăng ký thương hiệu…đã được thống nhất trong luật

sở hữu trí tuệ thì TMĐT chắc chắn sẽ phát triển lành mạnh.
Ngoài những luật cơ bản, để TMĐT có thể được áp dụng thì luật bảo vệ
người tiêu dùng là không thể thiếu. Các giao dịch mua bán trong TMĐT diễn
ra chủ yếu trên Internet, nghĩa là trong một thế giới ảo, rất khó kiểm soát. Có
nhiều trường hợp người tiêu dùng không nhận được đúng hàng theo đơn đặt
hàng, cả về số lượng và chất lượng, thậm chí họ bị lừa bởi những thông tin do
các tổ chức phi pháp cung cấp, những thông tin các nhân của khách hàng có
thể bị đánh cắp… Một đạo luật bảo vệ người tiêu dùng khi có hiệu lực sẽ tạo
ra những tác động tâm lý tích cực, thúc đẩy người tiêu dùng điện tử tham gia
nhiều hơn vào loại hình thương mại này.
1.4. Vai trò của thương mại điện tử
18


Thương mại Điện tử sẽ phát triển những cơ hội mới, cả trong thị trường
thương mại giữa các doanh nghiệp (B2B) và giữa doanh nghiệp với người tiêu
dùng (B2C). TMĐT cũng cho phép các công ty có khả năng bán hàng trên
phạm vi quốc tế, loại bỏ một cách hiệu quả những giới hạn về thời gian, địa
điểm và về căn bản sẽ tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Những
cơ hội này có ý nghĩa hơn đối với các doanh nghiệp ở , đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong vấn đề tăng năng suất và khả năng tiếp cận thị
trường, đối tác kinh doanh trong phạm vi thế giới. Nó cho phép các doanh
nghiệp hạn chế tối đa những rủi ro trong pha bắt đầu của sản phẩm và dịch vụ
mới (vì những phản hồi thu được từ thị trường nhanh hơn trước kia) và tiềm
năng vươn ra thị trường toàn cầu sẽ lớn hơn.
Thương mại Điện tử sẽ cung cấp thêm cơ hội để các doanh nghiệp có
thêm khách hàng, thâm nhập thêm vào những thị trường sản phẩm mới và hợp
lý hóa hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp có thể sử dụng TMĐT để tạo
ra sản phẩm, dịch vụ phù hợp với yêu cầu của khách hàng, quản lý tốt hơn
tiến trình cung cấp hàng và tồn kho, và giảm thời gian giữa đặt hàng và giao

hàng.
II. RỦI RO THƯỜNG GẶP TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Bên cạnh những lợi ích to lớn mà thương mại điện tử mang lại, chúng
ta cũng không thể phủ nhận những rủi ro tiềm ẩn mà các doanh nghiệp khó
tránh khỏi trong quá trình kinh doanh. Hiểu một cách chung nhất, rủi ro trong
TMĐT là những sự cố, tai họa xảy ra một cách bất ngờ nằm ngoại tầm kiểm
soát của con người hoặc những mối đe dọa nguy hiểm khi xảy ra thì gây tổn
thất cho chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại điện tử. Rủi ro TMĐT rất
đa dạng và luôn có chiều hướng biến đổi cùng với sự phát triển của ngành
công nghệ thông tin. Do vậy, việc nhận thức được các loại rủi ro và những tác
hại của chúng là điều hết sức cần thiết. Dựa vào nguồn gốc phát sinh của
chúng, ta có thể phân ra làm hai nhóm: Nhóm có nguồn gốc từ bên ngoài
19


doanh nghiệp và nhóm của nguồn gốc từ bên trong doanh nghiệp. Trong mỗi
nhóm rủi ro đó lại được phân chia làm hai nhóm nhỏ là rủi ro mang tính kỹ
thuật và rủi ro không mang tính kỹ thuật. Việc phân loại này chỉ mang tính
tương đối do sự liên hệ chặt chẽ của các rủi ro, đặc biệt lại liên quan nhiều tới
vấn đề công nghệ.
2.1. Nhóm rủi ro có nguồn gốc từ bên ngoài doanh nghiệp
Nhóm rủi ro này lại xuất phát từ nhiều nguyên nhân như tự nhiên, môi
trường kinh doanh, môi trường công nghệ, môi trường pháp lý.
2.1.1. Rủi ro không mang tính kỹ thuật
a. Rủi ro do thiên tai
Thiên tai là những tai họa do thiên nhiên gây ra đối với con người và
thương mại điện tử cũng không phải là một ngoại lệ. Các rủi ro do thiên tai có
thể kể ra như bão lụt, sét đánh, động đất, núi lửa phun, sóng thần, bão từ
trường. Một trận lụt có thể làm hư hỏng hết các ổ cứng và xóa sạch các dữ
liệu của công ty về các giao dịch, về khách hàng gây thiệt hại làm đình trệ

hoạt động của doanh nghiệp. Một cú sét có thể làm cháy toàn bộ một hệ thống
máy tính đang tiến hành hàng nghìn giao dịch, do vậy làm cho toàn bộ các
giao dịch bị hủy bỏ và thiệt hại cũng thật ghê gớm. Hay mỗi đợt bão từ làm
biến đổi từ trường của trái đất gây ra thiệt hại không nhỏ cho ngành viễn
thông như phá hoại các vệ tinh, làm tê liệt các trạm Servers Internet không
dây,…
b. Rủi ro do các tai nạn bất ngờ
Tai nạn bất ngờ là những tai họa mà xảy ra ngoài sự kiểm soát của con
người và không thể lường trước được. Những rủi ro do tai nạn bất ngờ có thể
kể ra như: mất điện, sự cố bất (sudden breakdown), hỏa hoạn, chập điện,…

20


c. Rủi ro do các hiện tượng xã hội gây nên
Đó là những rủi ro gây ra bởi chiến tranh, khủng bố, bạo loạn, đình
công. Chẳng hạn như trong sự kiện khủng bố ngày 11/09, bên cạnh các thiệt
hại về sinh mạng và vật chất thì còn các thiệt hai về những dữ liệu trong máy
tính của các công ty có văn phòng ở tòa nhà trung tâm thương mại thế giới,
những máy chủ trong tòa nhà bị phá hủy còn gây ra những thiệt hại cho các
bên có quan hệ giao dịch qua mạng với các công ty trong tòa nhà này. Hay các
cuộc đình công của nhân viên tin học của các hãng hàng không hoặc du lịch
còn gây thiệt hại cho doanh nghiệp bằng cách không xử lý các đơn đặt vé
hoặc đặt phòng.
d. Rủi ro do vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
Đây là loại rủi ro đang nổi cộm trên mạng Internet. Tên giao dịch hay
nhãn hiệu sản phẩm của một công ty nước ngoài có thể trùng với tên giao dịch
hay nhãn hiệu của một công ty nước khác cùng kinh doanh trên mạng. Đặc
biệt khi trùng lặp với công ty đã tạo lập được uy tín, danh tiếng và đang làm
ăn có hiệu quả trên mạng thì nhất định công ty kia sẽ bị kiện cho dù không cố

ý nhái tên hay nhãn hiệu sản phẩm.
e. Rủi ro về mặt pháp lý
- Hiệu lực pháp lý của giao dịch thương mại điện tử
Một vấn đề e ngại cho các doanh nghiệp khi trao đổi tài liệu quan trọng
trên Internet là hiệu lực pháp lý của nó. Sự khác biệt về hệ thống luật pháp khi
chưa có một công ước chung nào về giao dịch thương mại điện tử có hiệu lực
sẽ gây trở ngại trong việc giải quyết tranh chấp khi hợp đồng bị vi phạm. Rủi
ro về việc nguồn luật nào sẽ điều chỉnh những giao dịch điện tử xuyên quốc
gia, tòa án nào sẽ xét xử một hợp đồng xuyên quốc gia được thỏa thuận bằng
hệ thống điện tử cũng là một rủi ro về pháp luật cần được lưu tâm.
- Luật ngăn cản giao dịch thương mại điện tử của một số quốc gia

21


Trên quan điểm giao lưu quốc tế, do vấn đề bảo mật và an toàn còn có
thêm một khía cạnh nữa: ngày càng có nhiều nước áp dụng các luật ngăn cản
không cho dữ liệu được truyền tới các nước không có phương tiện thích đáng
để bảo vệ thông tin, nhằm tránh rò rỉ (nhất là các thông tin liên quan tới an
ninh quốc gia, vũ khí giết người hàng loạt, quan hệ quốc tế,…); vì vậy, nếu
không có các luật và phương thức tốt để bảo vệ thông tin, thì một nước rất có
thể sẽ bị cách ly khỏi hoạt động thương mại điện tử quốc tế.
f. Rủi ro về tiêu chuẩn công nghiệp
Rủi ro này chủ yếu xảy ra đối với các quốc gia kém phát triển khi tham
gia vào giao dịch thương mại điện tử toàn cầu do thiếu một hạ tầng công nghệ
thông tin đồng bộ và chưa có một hệ thống các tiêu chuẩn công nghiệp phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. Sự thiếu đồng bộ về tiêu chuẩn công
nghiệp sẽ gây nhièu khó khăn trong việc trao đổi thông tin và đặc biệt là hoạt
động chào hàng, đặt hàng cũng như vận chuyển hàng hóa, thủ tục hải quan,
thuế khóa. Mặt khác, sự khác biệt giữa tiêu chuẩn công nghiệp trong thương

mại truyền thống và thương mại điện tử cũng có thể gây ra những rủi ro
không mong đợi. Đặc biệt là đối với những hàng hóa vô hình như các loại
dịch vụ trên Internet thì hiện nay vẫn chưa có một hệ thống tiêu chuẩn công
nghiệp nào để đánh giá chính xác.
2.1.2. Rủi ro mang tính kỹ thuật
a. Rủi ro do sự thay đổi của công nghệ
Công nghệ thông tin thay đổi ngày một nhanh nhất là công nghệ truyền
thông trên mạng. Việc các công tu sử dụng các phần mềm và các công nghệ
cũ là một nguy cơ tiềm tàng đối với khách hàng và bản thân doanh nghiệp. Sự
lạc hậu, không tương thích của các phần mềm, công nghệ cũ với các chuẩn
giao tiếp mới đã gây thiệt hại rất lớn cho các công ty kinh doanh trên mạng.
Vào năm 2002, khi Internet Explorer 6.0 của Microsoft ra đời, công việc kinh
doanh trên mạng của VideoHome.com ngưng trệ do phần mềm để download
22


phim của hãng không tương thích với trình duyệt mới này. Ước tính lúc IE 6.0
ra đời cho đến khi công ty thay thế phần mềm tải phim mới thiệt hại lên tới
1,2 triệu USD.
b. Rủi ro từ các nhà cung cấp công nghệ, dịch vụ đường truyền
Hiện nay, các phần mềm luôn có lỗi đã trở thành một hiện tượng phổ
biến, thậm chí có thể gọi là một tất yếu khách quan gây thiệt hại rất nhiều cho
doanh nghiệp. Tuy nhiên, thiệt hại lỗi phần mềm lại không được các nhà cung
cấp bồi thường. Điển hình như Microsoft, hệ điều hành mới nào cũng có lỗi,
trình duyệt mới nào cũng có lỗ hổng bảo mật. Hành động duy nhất của
Microsoft là xin lỗi người dùng và hứa khắc phục càng sớm càng tốt. Còn về
đường truyền thì hiện nay trên thế giới đã khá ổn định nhưng rủi ro vẫn còn
tồn tại, đặc biệt là với những nước chưa phát triển như .
c. Rủi ro do những hành động cố ý của các cá nhân
- Những đoạn mã nguy hiểm

Các đoạn mã nguy hiểm bao gồm nhiều mối đe dọa khác nhau như các
loại virus, worm, trojan…
Đây là những đoạn mã được lập trình ra mà do vô ý hay không cẩn thận
của người sử dụng mà virus được cài vào hệ thống. Khi đã được cài đặt vào
hệ thống, nó sẽ tiến hành phá hủy, đảo lộn toàn bộ cơ sở dữ liệu của một công
ty, tổ chức (về khách hàng, đối tác, thị trường,…) đượ lưu trữ trong máy tính
hay ăn cắp những thông tin tuyệt mật và chuyển những thông tin đó cho người
đã gửi virus. Các virus có độ phát tán rất nhanh cho nên mức độ ảnh hưởng
của nó có thể lan nhanh trong một phạm vi rộng.
Các virus hiện nay có cấu tạo ngày càng phức tạp và sự phá hoại ngày
càng lớn và nghiêm trọng. Đây cũng chính là một trong những mối đe dọa lớn
nhất đối với an toàn của các giao dịch thương mại điện tử ngày nay. Vì vậy,
các công ty cần phải cài đặt những phần mềm chống virus có hiệu quả thường

23


xuyên cập nhật để chống được những virus mới đồng thới hết sức cẩn thận
trước các nguồn thông tin lạ được gửi đến cho mình.
- Tin tặc và các chương trình phá hoại
Tin tặc (hacker) lợi dụng những điểm yếu trong hệ thống bảo vệ các
website hoặc lợi dụng một trong những ưu điểm của Internet - đó là một hệ
thống mở, dễ sử dụng tấn công nhằm phá hỏng những hệ thống bảo vệ các
website hay hệ máy tính của các tổ chức, các chính phủ và tìm mọi biện pháp
để đột nhập vào những hệ thống đó. Luật pháp coi các hành vi này là tội
phạm. Mục tiêu của các tội phạm loại này rất đa dạng, đó có thể là hệ thống
dữ liệu của các website thương mại điện tử, hoặc với ý đồ nguy hiểm hơn,
chúng có thể sử dụng các chương trình phá hoại (cybervandalism) nhằm gây
ra các sự cố, làm mất uy tín hoặc phá hủy các website trên phạm vi toàn cầu.
- Kẻ trộm trên mạng (sniffer)

Đây là một dạng của chương trình nghe trộm, giám sát sự di chuyển
của thông tin trên mạng. Khi sử dụng vào những mục đích hợp pháp, nó có
thể giúp phát hiện các điểm yếu của mạng, nhưng ngược lại, nếu sử dụng vào
các mục đích phạm tội, nó sẽ trở thành những mối hiểm họa lớn và rất khó có
thể phát hiện. Kẻ trộm cũng có thể chính là những tin tặc, chuyên ăn cắp các
thông tin có giá trị như thông điệp thư điện tử, dữ liệu kinh doanh của các
doanh nghiệp, các báo cáo mật từ bất cứ nơi nào trên mạng.
Xem lén thư tín điện tử cũng là một dạng mới của hành vi trộm cắp
thông tin trên mạng. Kỹ thuật xem lén thư điện tử sử dụng một đoạn mã ẩn bí
mật gắn vào một thông điệp thư điện tử, cho phép người nào đó có thể giám
sát toàn bộ các thông điệp chuyển tiếp được gửi đi cùng với thông điệp ban
đầu. Chẳng hạn, một nhân viên phát hiện thấy lỗi kỹ thuật trong khâu sản
xuất, anh ta lập tức gửi một báo cáo cho cấp trên thông báo phát hiện của
mình. Một kẻ nào đó, sử dụng kỹ thuật xem lén thư điện tử, có thể theo dõi và
biết được toàn bộ thông tin trong các bức thư điện tử gửi tiếp sau đó bàn về
24


vấn đề này. Và sẽ rất nguy hiểm nếu nhu các thông tin bí mật trong nội bộ
doanh nghiệp bị kẻ xấu biết được và sử dụng vào những mục đích bất chính.
- Gian lận thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng là một trong những phương thức đầu tiên trong thanh toán
điện tử. Đối với phương thức thanh toán này, các doanh nghiệp vẫn còn phải
đối đầu với nhiều rủi ro còn tiềm ẩn. Các doanh nghiệp cần phải đảm bảo rằng
các thông tin nhạy cảm của khách hàng như số thẻ tín dụng không bị chính
các nhân viên trong doanh nghiệp mình lợi dụng và cũng không được lưu
những thông tin chưa được mã hóa trong bộ nhớ của ổ cứng. Ngay cả khi đã
sử dụng chương trình mã hóa, doanh nghiệp cũng phải thận trọng trong quá
trình số thẻ tín dụng được gửi tới máy chủ vì rất có khả năng bị đánh cắp hoặc
sử dụng thông tin một cách bất hợp pháp. Đôi khi, khách hàng không hiểu rõ

chính sách của công ty liên quan đến vấn đề sử dụng số thẻ tín dụng trong
thanh toán có thể gây ra những rủi ro bất ngờ.
Trong TMĐT, các hành vi gian lận thẻ tín dụng xảy ra đa dạng và phức
tạp hơn nhiều so với trong thương mại truyền thống. Mối đe dọa lớn nhất
trong TMĐT là khách hàng bị mất các thông tin liên quan đến thẻ hoặc các
thông tin về giao dịch sử dụng thẻ trong quá trình diễn ra giao dịch. Các tệp
chứa dữ liệu thẻ tín dụng của khách hàng thường là những mục tiêu hấp dẫn
đối với tin tặc khi tấn công vào các website. Hơn thế nữa, những tên tội phạm
có thể đột nhập vào các website thương mại điện tử, lấy cắp các thông tin cá
nhân của khách hàng như tên, địa chỉ, điện thoại. Với những thông tin này,
chúng có thể mạo danh khách hàng thiết lập các khoản tín dụng mới nhằm
phục vụ những mục đích đen tối.
Và cuối cùng, đối với người bán, một trong những đe dọa lớn nhất có
thể xảy ra đó là sự phủ định đối với các đơn đặt hàng quốc tế. Trong trường
hợp một khách hàng quốc tế đặt hàng và sau đó từ chối hành động này, người
bán hàng trực tuyến thường không có cách nào để xác định rằng thực chất
25


hàng hóa đã được giao tới tay khách hàng hay chưa và chủ thẻ tín dụng có
thực sự là người đã thực hiện đơn đặt hàng hay không. Đây là hiện tượng tội
phạm khá nổi cộm ở ngay , ca Cục phòng chống tội phạm kỹ thuật cao – Bộ
Công An đã phải vào cuộc. Vì hiện nay, hiện tượng ăn cắp mã số thẻ tín dụng
của các hacker quá phổ biến đến mức các nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ
nước ngoài thường xuyên từ chối các giao dịch có nguồn gốc từ Việt Na, mà
thanh toán bằng thẻ tín dụng.
- Lừa đảo
Lừa đảo trong TMĐT là việc tin tặc sử dụng các địa chỉ thư điện tử giả
hoặc mạo danh một người nào đó thực hiện những mưu đồ bất chính. Sự lừa
đảo cũng có thể liên quan đến việc thay đổi hoặc làm chệch hướng các liên

kết web tới một địa chỉ khác với địa chỉ thực hoặc tới một website giả mạo
website thực cần liên kết. Những liên kết này có thể sẽ hướng người sử dụng
tới những website vô bổ, ngoài mong muốn nhằm thực hiện những mưu đồ
của tin tặc.
Cho dù các hành vi lừa đảo không làm nguy hại trực tiếp đến các tệp dữ
liệu hoặc các máy chủ mạng nhưng nó đe dọa tính toàn vẹn của một website.
Nếu những tin tặc làm chệch hướng khách hàng tới một website giả mạo,
giống hệt website mà khách hàng dự định giao dịch, chúng có thể thu thập các
thông tin về đơn đặt hàng và thực hiện các đơn đặt hàng ăn cắp được, những
đơn đặt hàng mà lẽ ra phải thuộc về chủ nhân của những website thật. Hoặc,
với mục đích làm mất thanh danh hoặc uy tín của các doanh nghiệp, tin tặc có
thể làm thay đổi nội dung các đơn đặt hàng, như thay đổi số lượng hay tên các
mặt hàng cần mua, sau đó gửi các đơn đặt hàng đã bị thay đổi tới các website
thật. Tất nhiên, khi nhận được những hàng hóa không phù hợp, khách hàng sẽ
không chấp nhận những sai sót này. Và trong những trường hợp như vậy,
doanh nghiệp sẽ là người gánh chịu tất cả, vừa mất uy tín, vừa phải chịu toàn
bộ các chi phí của quá trình thực hiện đơn đặt hàng.
26


Các hành vi lừa đảo không những đe dọa tính toàn vẹn, mà còn đe dọa
tính xác thực của các giao dịch thương mại điện tử. Với những âm mưu của
mình, tin tặc có thể làm cho các giao dịch thương mại điện tử trở thành trắng
đen lẫn lộn và cả doanh nghiệp lẫn khách hàng khó có thể xác định được đâu
là thật, đâu là giả.
2.2. Rủi ro trong Thương mại Điện tử có nguồn gốc từ bên trong
doanh nghiệp
2.2.1. Rủi ro không mang tính kỹ thuật
a. Rủi ro do sự bất cẩn của doanh nghiệp
Trong giao dịch trên mạng, rủi ro này cũng thường xuyên gặp phải. Ví

dụ như: tắt máy, tắt nguồn điện hay nhấp “nhầm chuột”. Hay do sự bất cẩn
của người sử dụng khi truyền dữ liệu đặc biệt là những con số qua dấu chấm
hoặc dấu phẩy đằng sau những con số. Sự bất cẩn của người truyền dữ liệu có
thể làm tăng hoặc làm giảm giá trị của con số truyền đi đã gây ra nhiều tác hại
trong giao dịch và đôi khi gây ra những thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp.
b. Rủi ro do sự tấn công từ bên trong doanh nghiệp
Trong kinh doanh, chúng ta thường cho rằng những mối đe dọa đến sự
an toàn có nguồn gốc từ những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, nhưng thực
chất những đe dọa này không chỉ đến từ bên ngoài mà có thể bắt nguồn từ
chính những thành viên làm việc trong doanh nghiệp.
Trong TMĐT, có nhiều trang web thương mại điện tử bị phá hủy, nhiều
doanh nghiệp phải gánh chịu hậu quả do dịch vụ bị ngưng trệ, do bị lộ các
thông tin cá nhân hay các dữ liệu tín dụng của khách hàng mà thủ phạm là
chính các nhân viên làm việc trong doanh nghiệp, những người từng được tin
tưởng và trọng dụng. Những nhân viên làm việc trong doanh nghiệp có thể
truy cập các thông tin bí mật, hoặc xâm nhập tới mọi nơi trong hệ thống thông
tin của tổ chức nếu như những biện pháp bảo mật thông tin của doanh nghiệp

27


thiếu thận trọng. Và trong nhiều trường hợp, hậu quả của những đe dọa loại
này còn nghiêm trọng hơn những vụ tấn công từ bên ngoài doanh nghiệp.
2.2.2. Rủi ro mang tính kỹ thuật
a. Rủi ro do công nghệ lạc hậu hoặc lỗi mà doanh nghiệp đang sử dụng
Khi doanh nghiệp mua phần mềm để phục vụ cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh của mình nhưng không kiểm tra và chạy thử phần mềm đó hoặc
ngay cả khi có làm như vậy thì cũng luôn tồn tại rủi ro từ phần mềm khiến
cho công việc kinh doanh bị rối loạn, có khi dẫn đến hậu quả xấu nhất có thể
xảy ra.

Mặt khác, làm việc với các đối tác kinh doanh thông qua thương mại
điện tử đòi hỏi sự cân bằng giữa khả năng của bản thân doanh nghiệp và khả
năng của các đối tác truyền thông. Nếu cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của
doanh nghiệp không tương thích, sẽ tạo ra những khó khăn trong việc truyền
tải những thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp tới khách
hàng và đối tác.
b. Rủi ro từ hệ thống bảo mật an toàn của doanh nghiệp
Hệ thống bảo mật, an ninh của chính doanh nghiệp là một thành tố quan
trọng trong an toàn của cả hệ thống mạng. Nếu hệ thống này được thiết kế
yếu, lỏng lẻo thì tất yếu các nguy cơ ngày càng trở nên nghiêm trọng. Việc
thiết kế hệ thống này khá tốn kém, do vậy, nhiều công ty, tổ chức bỏ qua cho
đến khi họ bị tấn công thực sự.
Trên đây là một số rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong quá
trình kinh doanh trên mạng, tuy nhiên không phải tất cả rủi ro đó đều có khả
năng xảy ra như nhau. Tùy từng tình hình, thời điểm cụ thể mà có rủi ro hay
gặp phải, có rủi ro ít gặp hơn, do đó, doanh nghiệp phải luôn chú ý để có
những biện pháp đề phòng hợp lý, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại có thể
xảy ra.

28


×