Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

quản lý công ty cổ phần theo quy định pháp luật thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.11 KB, 91 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Công ty cổ phần (CTCP) là một loại hình doanh nghiệp có nhiều ưu việt và vai
trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế ở các nước trên thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng nhất là khi nước ta đang hội nhập ngày càng sâu
rộng với quốc tế.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc quản lý CTCP còn là một vấn đề khá mới mẻ nếu
so với hàng trăm năm phát triển của nó ở các nước Châu Âu. Là nước đi sau, mặc
dù có lợi thế lớn trong việc học tập kinh nghiệm của các nước đi trước nhưng việc
quản lý CTCP ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập, chưa thể bứt ra khỏi
những ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Chẳng hạn
như những khó khăn, bất cập xuất phát từ việc ban lãnh đạo công ty can thiệp vào
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ đông; một số cổ đông lớn (chủ yếu là cổ
đông nhà nước) nắm giữ quyền khống chế công ty, xâm hại vào quyền lợi của đa số
cổ đông thiểu số; Ban Kiểm soát mang tính hình thức, không phát huy được chức
năng giám sát, v.v. Có thể nói, những thực trạng nêu trên đã ảnh hưởng rất lớn tới sự
lành mạnh hóa việc quản lý CTCP ở nước ta trong thời gian qua, do đó, đòi hỏi phải
có sự quan tâm, nghiên cứu thấu đáo việc quản lý CTCP về mặt lý luận cũng như
thực tiễn đồng thời đưa ra các biện pháp về mặt pháp lý để giải quyết những thực
trạng đó.
2. Mục đích của đề tài
Đề tài được thực hiện nhằm đạt được các mục đích cụ thể như sau:
Thứ nhất, chỉ ra thực trạng pháp luật về quản lý CTCP tại Việt Nam, phân tích
bình luận những quy định của pháp luật về quản lý CTCP và đánh giá tác động, ảnh
hưởng của chúng trong thực tiễn quản lý CTCP.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về quản lý CTCP.

1



3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các vấn đề pháp lý về quản lý CTCP, đặc
biệt là quản lý các CTCP đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Hiện nay, trong các CTCP không chỉ có việc quản lý mà có đến ba lĩnh vực liên
quan đến việc điều hành công ty: (i) Một là, Quản lý CTCP: Đây là cách thức tổ
chức các cơ quan quyền lực của công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan
đó (hay còn gọi là cơ cấu quản lý CTCP); (ii) Hai là, Cơ cấu tổ chức trong công ty –
tức là cách thức sắp xếp các đơn vị khác nhau của công ty thành các phòng, ban, tổ,
v.v; (iii) Ba là, Quản trị công ty (corporate governance): Theo Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế (OECD), “Quản trị công ty là một hệ thống các cơ chế và hành vi
quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các quyền và nghĩa vụ giữa các cổ
đông, hội đồng quản trị, các chức danh quản lý và những người có lợi ích liên quan,
quy định trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng cách này, công ty tạo ra
một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương tiện thực thi và giám sát việc
thực hiện các mục tiêu đó”1.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong việc quản lý CTCP với những
vấn đề như: mô hình quản lý CTCP, cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong
công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân tích, so
sánh để đánh giá các số liệu và thông tin thu thập được liên quan đến các vấn đề
pháp lý về quản lý CTCP ở Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới. Bên cạnh
đó trong phần thực trạng, khóa luận sử dụng chủ yếu số liệu từ cuộc Điều tra thực tế
về quản trị CTCP do Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung – Trưởng Ban cứu Chính sách
Kinh tế Vĩ mô, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương thực
hiện vào cuối năm 2007 được trình bày trong cuốn sách “Công ty vốn, quản lý và
tranh chấp”2 kết hợp với thông tin thu thập được qua các cuộc hội thảo tổng kết thực
tiễn thi hành LDN vào các năm 2008-2009 liên quan đến quản lý CTCP. Các
1 OECD (2004), OECD Principles of Corporate Governance

2 Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty Vốn, Quản lý và Tranh chấp, Nxb Tri Thức,

Hà Nội.

2


phương pháp nghiên cứu trên sẽ giúp khóa luận làm sáng tỏ những luận cứ khoa
học trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và tăng tính thuyết phục cho các đề xuất
giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý CTCP.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, hình vẽ, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, nội dung của khóa luận bao gồm 3 chương:
Chƣơng I: Cơ sở lý luận về quản lý Công ty cổ phần
Chƣơng II: Thực trạng quản lý công ty cổ phần theo quy định của pháp luật
Việt Nam hiện nay.
Chƣơng III: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý
công ty cổ phần.

3


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN
I. Giới thiệu chung về CTCP
1. Quá trình hình thành và phát triển của CTCP
Trên thế giới, CTCP đã ra đời và phát triển từ rất sớm, góp phần quan trọng cho
sự nghiệp phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Một số học giả cho rằng, Công ty
Đông Ấn Anh Quốc thành lập ngày 31/10/1600 và Công ty Đông Ấn Hà Lan là tổ
tiên của CTCP hiện đại. Theo khảo cứu, Pháp là quốc gia đầu tiên trên thế giới công
nhận CTCP về mặt pháp lý. Chế độ CTCP được quy định trong Bộ Luật Thương

mại Pháp năm 1807 (Bộ Luật Napoleon), theo đó CTCP tồn tại dưới loại hình
société en commandite par actions (Công ty giao vốn), cho phép những người
không tham gia vào việc quản lý công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn.
Ở Mỹ, CTCP cũng ra đời từ sớm và phát triển rất mạnh. Lúc đầu là để phục vụ cho
việc xây dựng đường sắt, sau là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn
lãnh thổ Mỹ. Chính từ yêu cầu tài trợ cho các công ty xây dựng đường sắt mà thị
trường chứng khoán ở New York đã phát triển. Năm 1811, bang New York đã ban
hành luật về tính trách nhiệm hữu hạn dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật
này, tiền ùn ùn đổ về New York và tính hữu hạn đó trở thành phổ biến bởi vì bang
nào không dùng đến nó thì không thu hút được vốn. Từ sự phát triển kinh tế của
Mỹ, các nước Châu Âu thấy cần phải đuổi theo; vì vậy, họ đã giảm bớt sự kiểm soát
đối với các công ty. Tại Anh, Luật CTCP được ban hành vào năm 1844, theo đó các
CTCP muốn được thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Quy định này
đã tạo động lực mạnh mẽ cho các CTCP ở Anh phát triển, góp phần đáng kể đưa
nước Anh trong thời kỳ đó trở thành bá chủ về hàng hải và là một cường quốc trên
thế giới.
Trải qua hàng trăm năm phát triển, cho đến nay, cùng với quá trình toàn cầu hóa,
hình thức CTCP đã có sức bật mới với sự xuất hiện của các loại hình CTCP “đa
quốc gia”, “xuyên quốc gia” có tầm hoạt động rộng lớn và khả năng cạnh tranh cao.
Ở Việt Nam, so với các nước trên thế giới, loại hình CTCP ra đời muộn và chậm
phát triển hơn. Cột mốc đánh dấu sự ra đời của CTCP ở Việt Nam là vào ngày

4


21/12/1990 khi Quốc hội khóa VIII thông qua hai đạo luật quan trọng là: Luật công
ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Việc ban hành hai đạo luật này đã đặt cơ sở pháp
lý cho việc hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt
Nam như: CTCP, CTTNHH, DNTN. Tuy nhiên, sau gần mười năm thực hiện, nhiều
nội dung của hai đạo luật trên đã tỏ ra bất cập, không đáp ứng được nhu cầu điều

chỉnh hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nên rất cần phải sửa đổi bổ sung
cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới.
Đáp ứng nhu cầu đó, trên cơ sở hợp nhất có sửa đổi, bổ sung Luật Công ty và
Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh Nghiệp Việt Nam (LDNVN) năm 1999 đã
ra đời và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2000. LDN năm 2000 là nền
tảng quan trọng nhất cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là sự
phát triển của CTCP tại Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Cục Phát triển Doanh
nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), từ đầu năm 2000 đến hết năm 2006, số
lượng các CTCP ở Việt Nam đã liên tục tăng lên, tăng từ khoảng 7% tổng số các
doanh nghiệp thành lập năm 2000 lên trên 20% năm 2006.
Vào năm 2005-2006 dưới áp lực và nhu cầu mạnh mẽ của việc gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới WTO, hàng loạt các luật có liên quan phải ban hành mới hoặc
sửa đổi, bổ sung; trong đó có các luật về đầu tư và doanh nghiệp. LDN 2005 đã ra
đời trong hoàn cảnh đó, nó thay thế cho LDN 2000, Luật DNNN năm 2003, các quy
định về doanh nghiệp của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và bắt đầu có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/07/2006. Kể từ khi LDN 2005 có hiệu lực, lần đầu tiên
chúng ta có một LDN duy nhất, áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối
với tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở hữu, người trong
nước cũng như người nước ngoài có quyền tự chủ lựa chọn bất kỳ loại hình nào
trong bốn loại hình doanh nghiệp do luật quy định (bao gồm: DNTN, công ty hợp
danh, CTTNHH và CTCP). Ngoài ra, LDN 2005 đã xác định thời hạn bốn năm kể
từ khi Luật này có hiệu lực để các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành
CTTNHH hay CTCP nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.

5


Như vậy, cùng với các loại hình doanh nghiệp khác, CTCP ở Việt Nam ra đời
khá muộn so với các nước trên thế giới, được hình thành và phát triển cùng với sự

thừa nhận nền kinh tế thị trường có điều tiết, thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong tư
duy lãnh đạo kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
2. Khái niệm và đặc điểm của CTCP
2.1. Khái niệm
CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay cho nên để
tìm hiểu khái niệm CTCP trước tiên cần tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của một
doanh nghiệp nói chung.
Theo khoản 1 Điều 4 LDN 2005, Doanh nghiệp được định nghĩa là “tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh”. Như vậy, một doanh nghiệp nói chung có những đặc điểm pháp lý cơ bản
sau đây:
 Thứ nhất, là tổ chức kinh tế, có tư cách chủ thể pháp lý độc lập;
 Thứ hai, được xác lập tư cách (thành lập và đăng ký kinh doanh) theo thủ tục
do pháp luật quy định;
 Thứ ba, có nghề nghiệp kinh doanh.
Do CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp theo LDN 2005 nên ngoài
mang các đặc điểm nói chung của một doanh nghiệp thì trên cơ sở các dấu hiệu đặc
trưng về số lượng thành viên, cơ cấu góp vốn, trách nhiệm pháp lý của cổ đông, tư
cách pháp nhân của công ty, việc chuyển nhượng vốn và phát hành chứng khoán,
CTCP theo điều 77 LDN 2005 còn được định nghĩa như sau:
“CTCP là doanh nghiệp, trong đó:
-

Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;

-

Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế số lượng tối đa;


-

Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;

6


-

Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được
chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác và hạn chế quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày CTCP được cấp
GCNĐKKD đối với các cổ đông sáng lập theo quy định tại khoản 3 Điều 81 và
khoản 5 Điều 84 của LDN 2005;

- Có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
- Có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”.
2.2. Đặc điểm của CTCP
Thứ nhất, về số lượng thành viên: Hầu hết pháp luật các nước đều quy định số
lượng thành viên tối thiểu mà không giới hạn số lượng tối đa đối với CTCP. Ở nước
ta, Luật Công ty năm 1990 quy định số lượng thành viên tối thiểu trong suốt quá
trình hoạt động của CTCP là 7 và theo LDN năm 1999 và LDN năm 2005 thì số
lượng này là 3. Đặc điểm này thể hiện đặc trưng cơ bản của CTCP là loại hình công
ty đối vốn nên có sự liên kết của nhiều thành viên tham gia góp vốn vào CTCP.
Thứ hai, về hình thức góp vốn: Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu,
người mua cổ phiếu gọi là cổ đông, lợi nhuận có được hàng năm từ cổ phần gọi là

cổ tức. Việc góp vốn vào CTCP được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu, mỗi cổ
đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu. Đăc điểm này cũng thể hiện đặc trưng cơ
bản của CTCP là loại hình công ty đối vốn, nghĩa là khi thành lập và trong suốt quá
trình hoạt động, các thành viên công ty hoàn toàn không quan tâm đến nhân thân
người góp vốn mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp của họ. Bởi vì đối với loại hình
công ty này tư cách thành viên công ty và các quyền của cổ đông trong việc quyết
định các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty được quyết
định trước hết bởi số lượng các cổ phiếu của công ty mà người đó nắm giữ.
Thứ ba, về huy động vốn: Trong quá trình hoạt động của mình, CTCP được
quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn theo qui định của
pháp luật về phát hành chứng khoán. Luật Công ty năm 1990, LDN năm 1999 và
LDN năm 2005 đều qui định rõ: đối với CTTNHH khi muốn tăng vốn điều lệ của

7


mình thì chỉ được thực hiện bằng cách hoặc tăng thêm phần vốn góp của các thành
viên, hoặc kết nạp thêm thành viên mới. Trong khi đó khả năng huy động vốn để
tăng thêm vốn điều lệ của CTCP là rất lớn, bất cứ lúc nào khi hội đủ các điều kiện
theo luật định thì CTCP cũng có quyền phát hành cổ phiếu mới để kêu gọi vốn đầu
tư từ các cổ đông mới. Với tính chất này, CTCP là một hình thức tổ chức đặc biệt,
năng động có thể sử dụng để huy động vốn thông qua các giao dịch trên thị trường
chứng khoán.
Thứ tư, về chuyển nhượng phần vốn góp: Trong CTCP, phần vốn góp của các cổ
đông được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do CTCP phát hành là
“hàng hóa” nên người sở hữu các “hàng hóa” này có thể tự do chuyển nhượng một
cách dễ dàng mà không bị ràng buộc bất kỳ điều kiện nào. Các cổ đông muốn
chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số cổ phiếu của mình trong CTCP cho các
cổ đông khác đều được thực hiện một cách dễ dàng theo quy định của điều lệ công
ty, trừ trường hợp đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được

chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác và hạn chế quyền tự do chuyển nhượng
cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày CTCP được cấp GCNĐKKD
đối với các cổ đông sáng lập. Đối với CTTNHH, việc chuyển nhượng phần vốn góp
bị hạn chế hơn, tức là nếu thành viên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ
phần vốn góp của mình thì trước tiên phải chào bán phần vốn góp đó cho các thành
viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng
điều kiện.
Như vậy, so sánh với các loại hình công ty khác thì CTCP có nhiều ưu điểm hơn,
khắc phục được những hạn chế của loại hình công ty đối nhân và CTTNHH, phù
hợp với nền kinh tế thị trường. Với loại hình CTCP, công ty có thể huy động được
nguồn vốn lớn thỏa mãn nhu cầu kinh doanh miễn là sản xuất kinh doanh của công
ty có hiệu quả, mức cổ tức đủ sức hấp dẫn những người có vốn, đồng thời chia sẻ
rủi ro cho các thành viên. Tuy vậy, do CTCP thường có quy mô kinh doanh lớn, số
lượng thành viên đông nên việc quản lý, điều hành sẽ gặp nhiều phức tạp. Kết quả
hoạt động của công ty ảnh hưởng nhiều đến sự ổn định xã hội vì công ty được công
khai phát hành cổ phiếu huy động vốn trong xã hội và số đông các thành viên

8


góp vốn có thể là người lao động. Mặc dù công ty chịu trách nhiệm hữu hạn nhưng
để bảo đảm an toàn cho xã hội và hoạt động của công ty có hiệu quả nhà nước phải
có nhiều ràng buộc chặt chẽ về tổ chức, hoạt động của loại hình công ty này.
3. Những ưu thế của CTCP
So với các loại hình doanh nghiệp khác ở nước ta hiện nay thì CTCP có nhiều ưu
thế hơn. Những ưu thế này xuất phát từ chính đặc điểm của CTCP và được thể hiện
ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, CTCP là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập: Tức là sự tồn tại của
công ty không phụ thuộc vào một người chủ sở hữu hay một số cổ đông nào. Với tư
cách chủ thể là pháp nhân độc lập, CTCP có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy

định, và thông qua người đại diện theo quy định của pháp luật, CTCP có thể trở
thành nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại tòa án. Trong
quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng chính tài sản
của mình. Khi mua sắm các tài sản mới thì tài sản đó thuộc sở hữu của công ty còn
các cổ đông chỉ được sở hữu cổ phần trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở
hữu nào đối với tài sản của công ty.
Thứ hai, Các cổ đông trong CTCP chịu trách nhiệm hữu hạn: Khi một tổ chức
hay cá nhân mua cổ phiếu của CTCP tức là họ đã chuyển dịch vốn của mình theo
những phương thức nhất định vào công ty và phần vốn đó trở thành tài sản thuộc sở
hữu công ty, đồng thời cổ đông sẽ được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
việc góp vốn. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, các quyền và nghĩa vụ của
CTCP hoàn toàn tách biệt khỏi các quyền và nghĩa vụ của cổ đông. Vốn thuộc sở
hữu của CTCP chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số
vốn đã đầu tư vào CTCP nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ
của công ty được hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu. Xét trên
phương diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có quyền đối với tài sản
của CTCP nên họ không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của CTCP; CTCP chịu
trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả CTCP lẫn chủ nợ của công ty đều
không có quyền kiện đòi tài sản của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ công ty do
chưa đóng đủ tiền góp vốn hoặc chưa thanh toán đủ cho công ty số tiền mua cổ

9


phiếu phát hành. Đây là điểm khác nhau cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể kinh
doanh giữa CTCP với các loại hình công ty đối nhân. Đối với công ty hợp danh hay
doanh nghiệp tư nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam và đối với công ty đối
nhân hay doanh nghiệp một chủ theo quy định của hầu hết các nước thì các thành
viên hợp danh và chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm cá nhân vô hạn về các
nghĩa vụ của công ty hay của doanh nghiệp bằng tài sản của mình bất kể tài sản đó

có liên quan đến hoạt động kinh doanh hay không.
Như vậy, khi đầu tư vào CTCP nếu mức độ rủi ro chỉ giới hạn trong số lượng giá
trị cổ phiếu mà các cổ đông đã đầu tư, thì ngược lại, khi đầu tư vào công ty hợp
danh hay doanh nghiệp tư nhân mức độ rủi ro là vô hạn. Với tính chất chịu trách
nhiệm hữu hạn như trên, CTCP thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn so với các loại
hình doanh nghiệp khác mà ở đó nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm vô hạn. Chính
nhờ lợi thế này nên các CTCP có khả năng huy động lớn các nguồn vốn đầu tư của
xã hội vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Thứ ba, Việc chuyển nhượng các phần vốn góp được thực hiện một cách tự do:
Hầu hết pháp luật về công ty của các nước trên thế giới đều quy định và cho phép
chuyển nhượng một cách dễ dàng và tự do các loại cổ phiếu do CTCP phát hành từ
cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác với các loại hình công ty khác, vốn điều lệ
của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ
phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào CTCP được thực hiện bằng cách
mua cổ phiếu nên cổ phiếu được xem là hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ
đông. Các cổ phiếu do CTCP phát hành là “hàng hóa” nên các cổ đông khi sở hữu
cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng; hơn thế nữa trách nhiệm của các cổ đông chỉ
giới hạn trong phạm vi giá trị các cổ phiếu mà họ sở hữu nên khi họ muốn rút lui
khỏi công việc kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu của mình cho người khác thì họ
thực hiện rất dễ dàng. Đó là lý do giải thích vì sao có rất nhiều người muốn đầu tư
vào CTCP chứ không muốn đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác. Đây cũng
là một trong những yếu tố cần thiết cho việc hình thành và phát triển thị trường
chứng khoán.

10


Thứ tư, CTCP có cơ cấu vốn và tài chính linh hoạt, có thể huy động được vốn
theo yêu cầu kinh doanh: CTCP không thể được thành lập và không thể hoạt động
nếu không có vốn. Vốn quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ

cũng như quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty
được xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trưng là loại hình công ty đối vốn,
quyền lực trong CTCP sẽ thuộc về những ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty.
Trong quan hệ với bên ngoài, vốn của CTCP là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài
chính của công ty. Tuy nhiên, khác với nhiều yếu tố khác, vốn trong CTCP là yếu tố
năng động nhất. Các quy luật kinh tế thị trường chỉ ra rằng cùng với sự lưu thông
hàng hóa là sự lưu thông tiền tệ, tức là sự chu chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển
của CTCP tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận
động của vốn trong CTCP vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui luật kinh tế,
vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. Điều này đặt ra một đòi hỏi là
con người phải tạo ra cách góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn để có thể đáp ứng
được sự vận động linh hoạt của vốn. Sự linh hoạt trong vận động của vốn vừa phải
thích ứng với yêu cầu đòi hỏi đa dạng của nhà đầu tư, vừa không mất đi bản chất
vốn có của CTCP. Điều đó có nghĩa là phải tạo cho bản thân CTCP khả năng
chuyển nhượng các phần vốn góp một cách dễ dàng song tư cách pháp nhân của
công ty không vì sự chuyển nhượng đó mà bị thay đổi.
LDNVN 2005 quy định một CTCP có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ
phiếu khác nhau như: cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi (trong cổ phiếu ưu đãi
có: cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và
các loại cổ phiếu ưu đãi khác) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại chứng
khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng thu hút vốn đầu
tư cho kinh doanh của CTCP. Ngoài ra, với việc xác lập mệnh giá của cổ phiếu thấp
đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư dù cho khả năng tài chính không
nhiều nhưng vẫn có khả năng tham gia đầu tư vốn vào CTCP.
Thứ năm, Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về thời
gian tồn tại: Đối với các loại hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh, sự
tồn tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tư cách của chủ sở hữu

11



doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh bởi vì hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết hay sự rút lui của chủ
doanh nghiệp tư nhân hay của một trong các thành viên hợp danh công ty. Khác với
các loại hình doanh nghiệp trên, hoạt động kinh doanh của CTCP hoàn toàn không
phụ thuộc vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với các cổ đông trong CTCP; bởi vì
CTCP có tư cách pháp nhân độc lập nên nếu có bất kỳ sự rút lui, sự phá sản hoặc
thậm chí cái chết nào có thể xảy ra đối với các cổ đông thì CTCP vẫn tiếp tục tồn tại
và phát triển mà hoàn toàn không bị ảnh hưởng gì cả. Đây chính là một ưu điểm bảo
đảm cho việc kinh doanh của CTCP diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác,
pháp luật công ty của một số nước đều không hạn chế về thời gian tồn tại của CTCP
trừ những trường hợp như: công ty phá sản hoặc các cổ đông cùng thỏa thuận chấm
dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều lệ công ty quy định. Chính sự ổn
định trong kinh doanh và thời gian hoạt động lâu dài đã khiến CTCP được ưa
chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ sáu, CTCP có cơ chế quản lý tập trung cao và minh bạch: Với tư cách là
một pháp nhân độc lập, ở CTCP có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý
công ty. Trong CTCP, việc quản lý các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty
được giao cho ban giám đốc mà không trải đều cho tất cả các cổ đông. Sự tách biệt
giữa quyền sở hữu và việc quản lý còn được thể hiện ở chỗ Luật Công ty hiện đại
của một số nước còn qui định cho phép giám đốc quản lý công ty có thể không phải
là cổ đông của công ty. Giám đốc có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty
và là người điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Rõ ràng
việc quy định như vậy một mặt thu hút được những người quản lý chuyên nghiệp
được CTCP thuê làm công tác quản lý, mặt khác việc tách biệt vai trò chủ sở hữu
với chức năng quản lý đã tạo cho CTCP có được sự quản lý tập trung cao thông qua
cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù hợp với điều kiện quản lý trong các
doanh nghiệp có quy mô lớn.

12



II. Tổng quan về quản lý CTCP theo quy định của Pháp Luật Việt Nam
1. Khái niệm quản lý CTCP
Định nghĩa
Khi nói đến quản lý CTCP là nói đến các trung tâm hay cơ cấu quyền lực ở đó.
Theo quan niệm của luật học, quản lý CTCP là phương thức tổ chức các cơ quan
quyền lực trong công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó. Chính vì có
liên quan đến việc bố trí và tổ chức quyền lực, nên quản lý CTCP còn được gọi là
“Cơ cấu quản lý CTCP” (Corporate Governance Structure) 1. Nhìn chung, trong các
CTCP thông thường thiết lập ba cơ quan có quyền lực chủ yếu là Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
Theo nghĩa hẹp, quản lý CTCP có nghĩa là cách thức tổ chức và phân chia quyền
lực giữa ba cơ quan nêu trên và mối quan hệ giữa chúng. Luật Công ty Anh Quốc
(năm 1985) xác định quản lý công ty là một thiết chế pháp lý về mối quan hệ giữa
cổ đông, thành viên HĐQT và kiểm soát viên. Theo đó, các thành viên HĐQT là
người quản lý điều hành và lãnh đạo công ty thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận; các cổ đông bảo đảm các thành viên HĐQT làm việc đúng hướng và đúng
luật pháp; và các kiểm soát viên thực hiện quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt động
quản lý kinh doanh của HĐQT để bảo đảm công ty không có sai phạm về tài chính
và bảo đảm HĐQT được đề xuất báo cáo tài chính một cách chân thực và công
bằng.
Tại Việt Nam, khái niệm quản lý CTCP cũng tương tự như ở các nước khác.
Theo Tiến sỹ Phạm Ngọc Côn: “Cơ cấu quản lý doanh nghiệp là sự thiết lập, vận
hành của các cơ quan quyền lực trong doanh nghiệp và mối quan hệ giữa các cơ
quan quyền lực đó. Một cơ cấu quản lý doanh nghiệp có hiệu quả được thể hiện ở
sự hợp tác lâu dài giữa những người có quan hệ lợi ích trên cơ sở cân đối trách
nhiệm, quyền hạn và lợi ích”2. Ở đây, “doanh nghiệp” có thể được hiểu là CTCP.

1 Mai Thận Thực (2001), Luận về sự vận hành của cơ cấu quản lý công ty hiện đại, Nxb Pháp Chế, Trung

Quốc, tr.7.
2 Phạm Ngọc Côn (2002), Một số ý kiến nhằm hoàn thiện việc quản lý ở doanh nghiệp sau cổ phần hóa, Tạp
chí Kinh tế và Phát triển, số 3/2002, tr.49.

13


Trên cơ sở tham khảo các khái niệm nêu trên và nghiên cứu các quy định của
LDNVN 2005 về cơ cấu tổ chức quản lý CTCP, Quản lý CTCP được trình bày trong
phạm vi khóa luận được định nghĩa là cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực của
công ty bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ/TGĐ, BKS và mối quan hệ quyền lực giữa
các cơ quan đó.
1.2. Đặc trưng của việc quản lý CTCP
Sự khác biệt mang tính bản chất giữa CTCP và các doanh nghiệp cổ điển chính
là việc quyền sở hữu tách biệt với quyền quản lý điều hành, hay nói cách khác tức là
chủ sở hữu công ty xa rời với việc quản lý điều hành. Chính vì thế, vấn đề làm sao
tạo ra sự tự do không quá lớn, sự giám sát không quá yếu để khuyến khích những
người quản lý điều hành (thường là thành viên ban giám đốc, HĐQT) hành động
một cách năng động, sáng tạo, linh hoạt vì lợi ích của chủ sở hữu công ty đã trở
thành một bài toán khó từ hàng trăm năm nay đối với vấn đề quản lý CTCP. Đi theo
vấn đề trên chính là sự phân chia quyền lực giữa các cơ quan quản lý trong công ty
để tạo ra một cơ chế vừa bảo đảm cổ đông được thực hiện quyền sở hữu công ty vừa
bảo đảm cho nhóm người quản lý điều hành có quyền thiết thực để quản lý kinh
doanh có hiệu quả. Trong cơ cấu tổ chức quản lý CTCP, toàn thể các cổ đông hợp
thành một cơ quan để hình thành ý chí và thể hiện lợi ích của toàn thể các cổ đông,
đó là ĐHĐCĐ - cơ quan quyết định cao nhất. Cơ quan này xây dựng và thông qua
một quy chế quản lý chung được gọi là Điều lệ. Theo Điều lệ công ty, ĐHĐCĐ bầu
ra và ủy quyền một số người để hình thành cơ quan chấp hành là HĐQT để thực
hiện ý chí của cơ quan quyết định. Bên cạnh cơ quan chấp hành, ĐHĐCĐ lại bầu ra
và ủy quyền cho một nhóm người để hình thành cơ quan giám sát là BKS để thường

xuyên kiểm soát hoạt động quản lý điều hành của cơ quan chấp hành. Cơ cấu quản
lý như vậy đã thể hiện sự tách biệt giữa quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh
và sự cân bằng giữa các cơ quan quyền lực trong nội bộ công ty.
Như vậy, có thể nói rằng, cơ sở của chế độ quản lý CTCP chính là cơ chế phân
quyền và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan quyền lực trong công ty trên cơ
sở tách biệt quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh của công ty.

14


1.3. Trọng tâm của quản lý CTCP
Khi công việc quản lý kinh doanh ngày càng phức tạp và chuyên nghiệp thì
quyền chi phối công ty của nhóm người quản trị ngày càng lớn, trong khi đó đông
đảo các nhà đầu tư (các cổ đông), do đã chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản
cho công ty, đã từ chủ sở hữu tài sản trở thành người chỉ thu nhận khoản tiền lợi tức
theo định kỳ. Nhưng về mặt pháp lý, cổ đông vẫn là chủ sở hữu của công ty. Cổ
đông có quyền yêu cầu có một cơ chế hữu hiệu để bảo vệ các quyền lợi của mình
cũng như để công ty được đứng vững và phát triển mạnh mẽ. Cho nên, vấn đề làm
sao để xây dựng một cơ chế hợp lý để các cổ đông có thể kiểm soát và khống chế
hoạt động của HĐQT và đội ngũ giám đốc đã trở thành một vấn đề được quan tâm
rộng rãi. Đó chính là trọng tâm của việc quản lý CTCP.
2. Nguồn luật điều chỉnh việc quản lý CTCP ở Việt Nam
2.1. Các văn bản luật và dưới luật do nước CHXHCN Việt Nam ban hành
- Luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2005: là nguồn luật chủ yếu điều chỉnh việc
thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của CTCP. LDNVN 2005 có 172 điều
khoản, trong đó có 54 điều khoản quy định riêng về CTCP.
- Các văn bản luật chuyên ngành: Chẳng hạn như Luật Các tổ chức tín dụng,
Luật Dầu khí, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Chứng khoán, Luật Kinh
doanh bảo hiểm, v.v. Ngoài ra, các Luật sửa đổi, bổ sung các luật trên và các luật
chuyên ngành khác được Quốc hội thông qua sau khi Nghị định 139/2007/NĐ-CP

có hiệu lực thi hành cũng là nguồn luật điều chỉnh việc quản lý CTCP. Các luật
chuyên ngành này được áp dụng khi có sự khác nhau giữa các quy định của LDN
2005 với các luật này về việc quản lý CTCP;
- Nghị định 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/09/2007 về việc hướng
dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp;
- Quyết định 12/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 13/03/2007 về việc ban
hành Quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng khoán;
- Quyết định 15/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 19/03/2007 về việc ban
hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán.

15


- Nghị Quyết 71/2006/QH11 của Quốc Hội ngày 29 tháng 11 năm 2006 về việc
phê chuẩn Nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập WTO của nước
CHXHCNVN.
- Các văn bản dưới luật khác của các luật chuyên ngành đã kể ở trên;
- Các văn bản dưới luật sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản dưới luật kể trên
được Quốc hội thông qua sau khi Nghị định 139/2007/NĐ-CP có hiệu lực thi hành.
2.2. Các Điều ước quốc tế
Trường hợp Điều ước quốc tế mà nước CHXHCNVN là thành viên có quy định
khác với quy định của LDN 2005 về vấn đề quản lý CTCP thì áp dụng theo quy
định của Điều ước quốc tế đó.
Trong trường hợp này, nếu các cam kết song phương có nội dung khác với cam
kết đa phương thì áp dụng theo nội dung cam kết thuận lợi hơn đối với doanh
nghiệp và nhà đầu tư. (Khoản 2 điều 3 Nghị định 139/2007/NĐ-CP).
3. Khái quát chung về quản lý CTCP theo quy định của LDNVN 2005
Điều 95 LDN 2005 quy định: CTCP có ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ/TGĐ; đối với
CTCP có trên 11 thành viên (n >11) là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu

trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có BKS.

Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần của Việt Nam

16


Như vậy, theo LDNVN 2005, trong CTCP có bốn cơ quan quyền lực là:
ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ/TGĐ và BKS. BKS chỉ bị buộc phải lập nếu CTCP có trên 11
cổ đông là cá nhân, hoặc có một tổ chức nắm trên 50% tổng số cổ phần của công ty.
3.1. Đại hội đồng cổ đông
 Thành phần ĐHĐCĐ:
ĐHĐCĐ gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao
nhất của CTCP (khoản 1 điều 96). Cổ đông là tổ chức có quyền cử một hoặc một số
người đại diện theo ủy quyền tham gia vào ĐHĐCĐ để thực hiện các quyền cổ đông
của mình theo quy định của pháp luật (khoản 3 điều 96).
Cổ đông có quyền biểu quyết là cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông (được gọi là
cổ đông phổ thông) và cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết. Cổ đông không
có quyền biểu quyết là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn
lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
 Quyền và nhiệm vụ của ĐHĐCĐ:

Khoản 2 điều 96 LDN 2005 quy định quyền và nhiệm vụ của ĐHĐCĐ gồm:
 Quyết định số phận của công ty: Bao gồm (i) Quyết định thông qua định
hướng phát triển của công ty; (ii) Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ; (iii)
Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty.
 Quyết định tài chính của công ty: Bao gồm (i) Quyết định loại cổ phần và tổng
số cổ phần của từng loại được quyền chào bán, quyết định mức cổ tức hàng năm
của từng loại cổ phần, trừ trường hợp Điều lệ có quy định khác; (ii) Quyết định
đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản

được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, nếu Điều lệ không quy
định một tỷ lệ khác; (iii) Thông qua báo cáo tài chính hàng năm; (iv) Quyết định
mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại.

 Quyết định người lãnh đạo công ty: (i) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành
viên HĐQT, thành viên BKS, xem xét và xử lý các vi phạm của HĐQT, BKS
gây thiệt hại cho công chúng và cổ đông công ty; (ii) Xem xét và xử lý các vi
phạm của HĐQT, BKS gây thiệt hại cho công ty và cổ đông của công ty.

17


 Cuộc họp ĐHĐCĐ:
ĐHĐCĐ phải tổ chức họp thường niên hoặc bất thường, ít nhất mỗi năm họp
một lần. Các cuộc họp bất thường có thể được triệu tập bởi HĐQT trong các trường
hợp quy định sau: (i) HĐQT xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty; (ii) Số thành
viên HĐQT còn lại ít hơn số thành viên theo quy định của pháp luật; (iii) Theo yêu
cầu của một cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% tổng số cổ phần phổ
thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định
tại Điều lệ công ty, và (iv) Theo yêu cầu của Ban Kiểm soát (khoản 1 và khoản 3
điều 97, LDN 2005).
Điều kiện tỷ lệ triệu tập cuộc họp: ĐHĐCĐ được tiến hành khi có (i) số cổ đông
đại diện ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết đối với triệu tập lần đầu;
(ii) số cổ đông đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết đối với
triệu tập lần 2; hoặc (iii) các cổ đông có mặt tại cuộc họp (không phụ thuộc số cổ
đông dự họp) đối với triệu tập lần 3 (Điều 102).
Thông qua quyết định của ĐHĐCĐ: Quyết định của ĐHĐCĐ sẽ được thông qua
tại cuộc họp trong các trường hợp sau đây: (a) Được số cổ đông đại diện ít nhất 75%
tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận đối với các quyết
định – về: (i) loại cổ phần và tổng số cổ phần; (ii) sửa đổi, bổ sung điều lệ CTCP,

hoặc (iv) đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài
sản (trừ khi điều lệ CTCP có quy định một tỷ lệ khác); (b) Được số cổ đông đại diện
ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp nhận đối
với các quyết định ngoài quyết định nêu tại điểm (a) nêu trên.
Trường hợp thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì
quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 75%
tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận. (khoản 3 và khoản 5 điều 104 LDN 2005)
3.2. Hội đồng quản trị
HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết
định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của
ĐHĐCĐ (khoản 1điều 108).

18


 Nhiệm kỳ và số lượng thành viên HĐQT
HĐQT có không ít hơn 3 thành viên, không quá 11 thành viên, được ĐHĐCĐ bổ
nhiệm và bãi nhiệm. Thành viên HĐQT không nhất thiết phải là cổ đông của CTCP
(điều 109).
Nhiệm kỳ của HĐQT không quá 5 năm. Thành viên HĐQT có thể được bầu lại
với số nhiệm kỳ không hạn chế.
 Chủ tịch HĐQT

Chủ tịch HĐQT được bổ nhiệm bởi ĐHĐCĐ hoặc HĐQT theo điều lệ và người
này có thể kiêm TGĐ công ty nếu Điều lệ công ty không cấm.
Quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch HĐQT bao gồm: (i) Lập chương trình, kế
hoạch hoạt động của HĐQT; (ii) Chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình,
nội dung, tài liệu phục vụ cuộc họp; triệu tập và chủ tọa cuộc họp HĐQT; (iii) Tổ
chức việc thông qua quyết định của HĐQT; (iv) Giám sát quá trình tổ chức thực
hiện các quyết định của HĐQT; (v) Chủ tọa họp ĐHĐCĐ.

 Quyền hạn và nhiệm vụ của HĐQT

Quyền kiến nghị: Bao gồm: (i) Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được
quyền chào bán của từng loại; (ii) Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên
ĐHĐCĐ; (iii) Kiến nghị mức cổ tức được trả, quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ
tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh; (iv) Kiến nghị việc tổ chức
lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty; (v) Duyệt chương trình, nội dung tài liệu
phục vụ họp ĐHĐCĐ, triệu tập họp ĐHĐCĐ hoặc lấy ý kiến để ĐHĐCĐ thông qua
quyết định.
Quyền quyết định: Bao gồm các quyết định: (i) Chiến lược, kế hoạch phát triển
trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty; (ii) Chào bán cổ phần mới
trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; huy động thêm vốn
theo hình thức khác; (iii) Giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty; (iv) Mua
lại cổ phần; (v) Phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn
theo luật hoặc Điều lệ công ty; (vi) Giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công
nghệ; thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng
hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của

19


công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ; trừ một số hợp đồng và
giao dịch bị hạn chế; (vii) Cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty, quyết
định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua
cổ phần của doanh nghiệp khác.
Quyền quyết định về nhân sự: Bao gồm: (i) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức,
ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với TGĐ và người quản lý quan trọng khác do
Điều lệ quy định; quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý
đó; cử người đại diện theo ủy quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn
góp ở công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những người đó; (ii)

Giám sát, chỉ đạo TGĐ và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh
hàng ngày của công ty
 Cuộc họp HĐQT

HĐQT có thể họp định kỳ hoặc bất thường, tại trụ sở chính của công ty hoặc ở
một nơi khác. Cuộc họp định kỳ của HĐQT do Chủ tịch triệu tập bất cứ khi nào nếu
xét thấy cần thiết, nhưng mỗi quý phải họp ít nhất một lần. Chủ tịch HĐQT phải
triệu tập họp HĐQT bất thường theo yêu cầu của (i) Ban kiểm soát, (ii) TGĐ hoặc ít
nhất 5 người quản lý khác, (iii) ít nhất 2 thành viên HĐQT, hoặc (iv) các trường hợp
khác quy định trong điều lệ. Chủ tịch HĐQT phải triệu tập họp bất thường trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị đã nêu, đồng thời phải gửi thông
báo mời họp chậm nhất 5 ngày làm việc trước ngày họp cùng với tài liệu kèm theo
cho các thành viên BKS và TGĐ cũng như cho thành viên HĐQT.
Điều kiện tiến hành cuộc họp HĐQT: Cuộc họp HĐQT được tiến hành khi có từ
75% tổng số thành viên HĐQT trở lên tham dự.
Thông qua quyết định HĐQT: HĐQT thông qua quyết định bằng biểu quyết tại
cuộc họp, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác do Điều lệ quy định. Mỗi
thành viên có một phiếu biểu quyết, tức là – khác với ĐHĐCĐ – HĐQT quyết định
theo đầu người. Quyết định của HĐQT được thông qua nếu được đa số thành viên
dự họp chấp thuận; trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định cuối cùng thuộc
về phía có ý kiến của Chủ tịch HĐQT.

20


3.3. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
GĐ/TGĐ được HĐQT bổ nhiệm/bãi nhiệm hoặc cách chức, họ có thể là thành
viên của HĐQT hoặc là một người khác do HĐQT thuê. GĐ/TGĐ là người điều
hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước HĐQT và
trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Nhiệm kỳ của

GĐ/TGĐ không quá năm năm và có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không
hạn chế. GĐ/TGĐ không được đồng thời làm GĐ/TGĐ của doanh nghiệp khác
(điều 116, LDN 2005).
Quyền và nhiệm vụ của GĐ/TGĐ bao gồm:
Quyền kiến nghị lên HĐQT: Gồm kiến nghị (i) Phương án trả cổ tức hoặc xử lý
lỗ trong kinh doanh, và (ii) Phương án tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty.
Quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hàng ngày của
công ty mà không cần phải có quyết định của HĐQT: Gồm (i) Tổ chức thực hiện
các quyết định của HĐQT; (ii) Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương
án đầu tư của công ty; (iii) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý
trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của HĐQT; (iv) Quyết định mức
lương và phụ cấp (nếu có) đối với người lao động trong công ty, kể cả người quản lý
thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của GĐ/TGĐ; (v) Tuyển dụng lao động; (vi) Các quyền
và nhiệm vụ khác theo quyết định của HĐQT.
3.4. Ban Kiểm soát
 Thành phần:
BKS do ĐHĐCĐ bầu ra, có từ 3 đến 5 thành viên, nhiệm kỳ không quá 5 năm
và có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Các thành viên BKS bầu một người trong số họ làm Trưởng ban. Quyền và
nhiệm vụ của Trưởng ban này do Điều lệ công ty quy định. BKS phải có hơn một
nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam và phải có ít nhất một thành viên là kế
toán viên hoặc kiểm toán viên. (điều 121 LDN 2005)
 Quyền và nhiệm vụ của BKS:

Quyền và nhiệm vụ chính của BKS là: (i) giám sát HĐQT, GĐ/TGĐ trong việc
quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ trong việc thực hiện

21



các nhiệm vụ được giao; (ii) Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức
độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác
kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính; (iii) Thẩm định báo cáo tình hình kinh
doanh, báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công
tác quản lý của HĐQT; trình báo cáo thẩm định của mình về các việc trên và báo
cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT lên ĐHĐCĐ tại cuộc họp thường niên;
(iv) Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều
hành hoạt động của công ty, bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết, hoặc theo quyết
định của ĐHĐCĐ hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên
10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một
tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty; (v) Khi có yêu cầu của cổ đông
hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên
tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, BKS
đi kiểm tra trong 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trong vòng 15
ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, BKS phải báo cáo giải trình về những vấn đề
được yêu cầu kiểm tra đến HĐQT và cổ đông hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu; (vi)
Kiến nghị HĐQT hoặc ĐHĐCĐ các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ
chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty; (vii) Khi phát hiện có
thành viên HĐQT, GĐ hoặc TGĐ vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty theo
LDN thì phải thông báo ngay bằng văn bản cho HĐQT, yêu cầu người có hành vi vi
phạm chấm dứt hành vi vi phạm đó và có giải pháp khắc phục hậu quả; (viii) BKS
có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao. BKS cũng có
thể tham khảo ý kiến của HĐQT trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên
ĐHĐCĐ.
III. Tham khảo mô hình quản lý CTCP theo quy định của một số nƣớc trên thế giới

Trong việc quản lý CTCP, mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy định và
đặc điểm riêng. Tuy nhiên, nếu xem xét và phân loại chúng thành một số mô hình
thì có thể đưa ra ba mô hình quản lý CTCP điển hình là mô hình quản lý CTCP của
Hoa Kỳ, của Đức và của Nhật Bản. Để phục vụ cho việc tham khảo và so sánh việc


22


quản lý CTCP ở Việt Nam với các nước điển hình trên thế giới, dưới đây khóa luận sẽ
trình bày sơ lược các đặc điểm căn bản về mô hình quản lý CTCP của ba nước trên.

1. Mô hình quản lý CTCP của Nhật Bản
Trong các CTCP của Nhật, ĐHĐCĐ là cơ quan quyết định cao nhất. Cơ quan này
bầu ra các thành viên HĐQT và các kiểm soát viên để hình thành hai cơ quan chức
năng thường trực là HĐQT (hay còn gọi là Hội đồng đổng sự) và BKS (còn gọi là Hội
đồng Giám sự). HĐQT trong nội bộ bầu ra một số thành viên và ủy quyền cho họ đại
diện công ty, những người này được gọi là “Đổng sự đại diện”. Các đổng sự đại diện có
quyền đại diện công ty quản lý điều hành các mặt mà mình đảm nhiệm. HĐQT còn bổ
nhiệm một số chuyên gia làm cán bộ quản lý cao cấp để trợ giúp công việc quản lý kinh
doanh. BKS giữ quyền và nhiệm vụ giám sát, kiểm toán các hoạt động kinh doanh của
HĐQT, điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hoặc các hành vi không hợp lý
gây hậu quả nghiêm trọng. Ngoài ra, ĐHĐCĐ còn thuê công ty kiểm toán độc lập làm
“Người giám sát kế toán”để thẩm tra tính hợp pháp của hoạt động kinh doanh của
HĐQT trong phạm vi tài chính. Ngoài ra, khi tiến hành điều tra một vụ việc nghiêm
trọng, ĐHĐCĐ sẽ trực tiếp bổ nhiệm một “người điều tra” nhằm giám sát HĐQT cũng
như BKS một cách thiết thực.

Năm 1950 khi Nhật Bản sửa đổi lại Luật Thương mại, quyền lực của các giám
sự đã bị cắt giảm, họ chỉ thực hiện quyền kiểm soát tài chính còn quyền kiểm soát
nghiệp vụ thuộc về HĐQT. Nhưng sau một thời gian thi hành HĐQT đã không thực
sự làm tốt nhiệm vụ kiểm soát các đổng sự đại diện. Vì vậy, Luật Thương mại Nhật
Bản sửa đổi năm 1974 đã lại tăng cường quyền lực cho các kiểm soát viên và khôi
phục quyền giám sát nghiệp vụ công ty cho họ. Ngoài ra, nhằm tăng cường giám sát
tài chính trong các CTCP, Nhật Bản đã ban hành Luật thương mại đặc biệt về việc

giám sát CTCP, trong đó quy định bắt buộc những CTCP lớn phải thiết lập cơ chế
kiểm soát viên song trùng, tức là, ngoài có kiểm soát viên theo Luật Thương mại,
các công ty có quy mô lớn còn phải thiết lập Kiểm soát viên về tài chính. Năm
1993, Luật thương mại Nhật Bản sửa đổi quy định các CTCP có quy mô lớn phải
thành lập BKS có ít nhất 3 kiểm soát viên, trong số đó có ít nhất một kiểm soát viên

23


độc lập. Những CTCP nhỏ chỉ cần một kiểm soát viên, với trách nhiệm chủ yếu là
giám sát tài chính công ty. Sơ đồ minh họa:

Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức quản lý CTCP của Nhật Bản
Năm 2002, mô hình công ty có thiết lập ủy ban được du nhập vào Nhật Bản.
Khác với CTCP có thiết lập BKS, mô hình CTCP có thiết lập ủy ban bao gồm
ĐHĐCĐ, HĐQT, các ủy ban, bên cạnh đó có người điều hành, giám sát viên kế
toán. Việc du nhập mô hình công ty có thiết lập ủy ban trong hoàn cảnh HĐQT,
BKS trong mô hình truyền thống bị hình thức hóa, không phát huy được vai trò
giám sát phát hiện ra những gian lận tài chính trong công ty.
2. Mô hình quản lý CTCP của Đức
Cơ cấu quản lý CTCP của Đức được giới luật học khái quát là “Song lớp” (twotier board) với hai cơ quan chức năng và thường trực là BKS và HĐQT. Luật CTCP
của Đức năm 1998 quy định HĐQT là cơ quan quản lý điều hành và đại diện đối
ngoại của công ty, nhưng xét về địa vị pháp lý nó đứng dưới BKS. Các thành viên
HĐQT và chủ tịch HĐQT do BKS bổ nhiệm. HĐQT có nghĩa vụ báo cáo công tác
và chịu trách nhiệm trước BKS. BKS giám sát hoạt động điều hành nghiệp vụ của
HĐQT, bao gồm kiểm tra sổ sách tài chính, văn kiện và vật tư tài sản của công ty.

24



BKS có thể triệu tập họp ĐHĐCĐ để giải quyết việc thực hiện nghiệp vụ của HĐQT.
Trong điều lệ công ty có thể quy định và BKS có thể ra quyết định rằng, việc HĐQT
tiến hành một số nghiệp vụ nhất định cần phải có sự đồng ý của BKS; trường hợp BKS
không đồng ý, thì HĐQT mới được tiến hành nghiệp vụ đó sau khi được 3/4 số phiếu
biểu quyết của ĐHĐCĐ tán thành. Cho dù HĐQT có quyền đại diện công ty trong mọi
hoạt động đối ngoại, nhưng BKS có quyền đại diện công ty đối với HĐQT. Các kiểm
soát viên và BKS do ĐHĐCĐ bầu và bổ nhiệm, trừ một số kiểm soát viên là đại biểu
của công nhân viên tùy theo quy mô công ty. ĐHĐCĐ còn có thể bổ nhiệm Kiểm toán
viên đặc biệt để kiểm soát các nghiệp vụ của công ty.

Ở Đức, quyền lực của ĐHĐCĐ bị giới hạn trong một phạm vi do luật định. Điều
119 Luật CTCP Đức quy định quyền hạn của ĐHĐCĐ bao gồm: Bổ nhiệm các kiểm
soát viên; quyết định việc sử dụng khoản tiền lợi nhuận; quyết định việc giảm hay
miễn trừ trách nhiệm của Kiểm soát viên và các thành viên HĐQT; bổ nhiệm kiểm
toán viên độc lập; sửa đổi điều lệ công ty; quyết định huy động vốn hoặc cắt giảm
vốn; quyết định giải thể công ty. Ngoài các quyền hạn nêu trên, mọi thẩm quyền
khác về cơ bản thuộc về HĐQT, nếu điều lệ công ty không quy định khác, HĐQT
thực hiện việc quản lý kinh doanh theo phương thức tập thể.
Ban kiểm soát là cơ quan giám sát đồng thời là cơ quan lãnh đạo của HĐQT.
Dưới cơ chế này BKS có quyền lực rất lớn, nó không những thực hiện quyền giám
sát, mà còn bổ miễn nhiệm các thành viên HĐQT, quyết định mức lương của họ
đồng thời phê chuẩn hay hủy bỏ những nghiệp vụ trọng đại của công ty. Với cơ chế
giám sát như vậy, hoạt động giám sát của BKS ở Đức có hiệu quả cao hơn ở Việt
Nam. Có thể minh họa mô hình quản lý CTCP của Đức thông qua sơ đồ sau:

25


×