Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

KIẾN THỨC, THÁI độ và NHU cầu TRUYỀN THÔNG GIÁO dục sức KHỎE về BỆNH TĂNG HUYẾT áp của NGƯỜI đến KHÁM tại BỆNH VIỆN TIM hà nội năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.12 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ THỊ HỒNG DIỆP

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU TRUYỀN THÔNG
GIÁO DỤC SỨC KHỎE VỀ BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP
CỦA NGƯỜI ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI
NĂM 2015

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Khóa 2012-2016
Chuyên ngành: Cử nhân Y tế công cộng

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ THỊ HỒNG DIỆP

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU TRUYỀN THÔNG
GIÁO DỤC SỨC KHỎE VỀ BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP
CỦA NGƯỜI ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI
NĂM 2015


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Khóa 2012-2016
Chuyên ngành: Cử nhân Y tế công cộng

Người hướng dẫn khoa học:
Ths. Nguyễn Thùy Linh
Ts. Đặng Đức Nhu

HÀ NỘI – 2016


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cám ơn: Ban giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội, Phòng
Đào tạo Đại học đã tạo điều kiện cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu
tại trường.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong Trường Đại học Y Hà Nội, đặc
biệt là các thầy cô trong Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng, các thầy
cô trong Bộ môn Dinh dưỡng đã tận tình dạy dỗ, giúp đỡ em trong 4 năm học tại
trường cũng như trong quá trình hoàn thành khóa luận này.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cám ơn Ths.Nguyễn
Thùy Linh, TS.BS.Đặng Đức Nhu - thầy cô hướng dẫn đã dành nhiều thời gian tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành
khóa luận của mình.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các cô chú và các anh chị nhân viên
của Bệnh viện Tim Hà Nội đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong quá trình lấy số
liệu phục vụ cho khóa luận này.
Mình luôn cám ơn sự quan tâm, giúp đỡ và động viên của bạn bè trong quá
trình học tập cũng như trong cuộc sống.
Đặc biệt, con cám ơn gia đình đã luôn dành cho con sự yêu thương và những
điều kiện tốt nhất để con yên tâm học tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại

học.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Sinh viên

Lê Thị Hồng Diệp


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi : - Phòng Đào tạo đại học - Trường Đại học Y Hà Nội.
- Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng.
- Hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp, năm học 2015 - 2016.

Em xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của em, toàn bộ số
liệu được thu thập và xử lý một cách khách quan, trung thực và chưa được công bố
trong bất kỳ một tài liệu nào khác.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016


Sinh viên

Lê Thị Hồng Diệp


Danh mục chữ viết tắt
BMI
CI
ĐTNC
HATT
HATTr
OR
TBMMN
THPT
TTGDSK
WHO

Body Mass Index (Chỉ số cơ thể)
Confidentcy interval (Khoảng tin cậy)
Đối tượng nghiên cứu
Huyết áp tâm thu
Huyết áp tâm trương
Odd radio (Tỉ suất chênh)
Tai biến mạch máu não
Trung học phổ thông
Truyền thông giáo dục sức khỏe
World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)



MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


8

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp là bệnh mạn tính, phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Cùng với sự phát triển đời sống xã hội, khi tuổi thọ con người càng tăng
cùng với tình trạng béo phì tăng lên, thì tần suất mắc tăng huyết áp cũng tăng
theo. Bệnh xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới kể cả các nước phát triển cũng
như các nước đang phát triển. Bệnh là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế và
tử vong ở người cao tuổi. Các dữ kiện gần đây của nghiên cứu Framingham
về tim cho thấy người có huyết áp bình thường ở tuổi 55, sẽ có 90% nguy cơ
phát triển tăng huyết áp trong tương lai [1].
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tăng huyết áp ảnh
hưởng đến sức khỏe của hơn 1 tỷ người trên toàn thế giới và là yếu tố nguy cơ
tim mạch quan trọng nhất liên quan đến bệnh mạch vành, suy tim, bệnh mạch
máu não và bệnh thận mạn tính. Tỷ lệ mắc tăng huyết áp ở những người
trưởng thành từ 25 tuổi trở lên trên toàn thế giới vào khoảng 40%. Trong đó
cao nhất ở khu vực châu Phi (46%), thấp nhất là châu Mỹ (35%), khu vực
Đông Nam Á là 36%. Tại khu vực Đông Nam Á, cứ 3 người trưởng thành lại
có 1 người tăng huyết áp và tăng huyết áp là nguyên nhân gây tử vong khoảng
1,5 triệu người mỗi năm [2].
Ngược với tình trạng tăng huyết áp ngày càng gia tăng, sự nhận thức, điều
trị dự phòng và kiểm soát của nhiều người về tăng huyết áp ở nhiều nước,
trong đó có Việt Nam còn thấp. Nghiên cứu tại Mông Cổ năm 2010 trên 3450
người trưởng thành cho thấy có đến 20% người dân chưa biết khái niệm huyết

áp [3]. Nghiên cứu khảo sát 1019 người dân đang sinh sống tại London –
nước Anh trong năm 2014 chỉ ra có tới 52% người dân không trả lời được
khoảng giá trị huyết áp bình thường [4].


9

Các cuộc điều tra về dịch tễ học tại Việt Nam trong những năm gần đây
cho thấy bệnh có chiều hướng gia tăng và đáng báo động [5]. Kết quả nghiên
cứu tại 8 tỉnh thành phố trên cả nước của Viện Tim mạch chỉ ra rằng tỉ lệ tăng
huyết áp ở người từ 25 tuổi trở lên là 25,1%, nghĩa là cứ 4 người trưởng thành
ở nước ta thì có 1 người bị tăng huyết áp. Trong số những người mắc tăng
huyết áp có tới 51,6% không biết mình bị tăng huyết áp, 38,9% biết mình có
tăng huyết áp nhưng không điều trị và 63,7% có điều trị nhưng chưa kiểm
soát được [6]. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Thiện Thuần năm 2006,
những bệnh nhân tăng huyết áp ở thành phố Hồ Chí Minh có tỉ lệ thiếu kiến
thức và thiếu thực hành theo dõi bệnh ở mức 50% [7]. Năm 2005 nghiên cứu
của Phan Nam Hùng và cộng sự về “Thí điểm mô hình quản lí bệnh nhân tăng
huyết áp có bảo hiểm y tế tại thành phố Quy Nhơn” cho kết quả 62,7% bệnh
nhân không biết huyết áp ≥ 140/90 mmHg là tăng huyết áp [8].
Tăng huyết áp còn được gọi là “Kẻ giết người thầm lặng” bởi bệnh tăng
huyết áp thường diễn biến một cách âm thầm nhưng có thể gây ra những biến
chứng nguy hiểm đến tính mạng con người [9]. Nhưng bệnh tăng huyết áp
hoàn toàn có thể phòng tránh được bằng các biện pháp thay đổi lối sống và có
thể kiểm soát tốt nếu người dân có kiến thức về bệnh và cách phòng tránh.
Tuy nhiên hầu hết người dân chỉ quan tâm đến bệnh và tìm đến các cơ sở y tế
khi đã có biểu hiện bệnh rõ rệt. Khoảng 9,8 triệu người Việt Nam (trên 10%
dân số), không biết bị tăng huyết áp hoặc là tăng huyết áp nhưng không được
điều trị hoặc có điều trị nhưng chưa kiểm soát được thì việc phổ biến kiến
thức về tăng huyết áp cho người dân Việt Nam là vô cùng quan trọng [6]. Đặc

biệt là với những đối tượng đã có các biểu hiện bệnh lí tim mạch đến khám tại
Bệnh viện Tim Hà Nội - chuyên khoa đầu ngành Tim mạch của thủ đô Hà
Nội.


10

Vì vậy, để tìm hiểu kiến thức về tăng huyết áp của người đến khám làm cơ
sở dữ liệu cho các nghiên cứu tiếp theo cũng như bằng chứng để Bệnh viện
Tim Hà Nội có thể triển khai các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe
(TTGDSK) nhằm nâng cao kiến thức về tăng huyết áp, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Kiến thức, thái độ và nhu cầu truyền thông giáo dục
sức khỏe về bệnh tăng huyết áp của người đến khám tại Bệnh viện Tim
Hà Nội, năm 2015” với hai mục tiêu:
1.

Mô tả kiến thức, thái độ và nhu cầu truyền thông giáo dục sức khỏe
về bệnh tăng huyết áp của người đến khám tại Bệnh viện Tim Hà

2.

Nội, năm 2015.
Mô tả một số yếu liên quan đến kiến thức, nhu cầu truyền thông
giáo dục sức khỏe về bệnh tăng huyết áp của đối tượng trên.


11

CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.2. Tăng huyết áp
1.1.0. Khái niệm huyết áp
Huyết áp = Cung lượng tim * Sức kháng động mạch ngoại vi.
Huyết áp được hiểu là áp lực của dòng máu đi nuôi cơ thể. Huyết áp được
tạo bởi sức co bóp hút - đẩy máu của tim và sự co giãn của thành mạch. Huyết
áp còn bị chi phối nhiều bởi nhịp tim, các yếu tố gây co mạch, thể tích tuần
hoàn. Huyết áp là một trong những biểu hiện chức phận quan trọng của cơ thể
sống. Huyết áp là một thông số huyết động học luôn biến đổi theo nhu cầu
hoạt động thể lực, tâm sinh lý và bệnh lý của từng cá nhân và theo nhịp điệu
sinh học giữa ngày và đêm [10].
1.1.0. Chẩn đoán tăng huyết áp
Theo WHO, chẩn đoán tăng huyết áp khi trị số trung bình qua ít nhất hai
lần đo của huyết áp tâm thu (HATT) ≥ 140mmHg và/hoặc trị số trung bình
của huyết áp tâm trương (HATTr) ≥ 90 mmHg, trong ít nhất hai lần thăm
khám liên tiếp.
Gần đây hơn, khuyến cáo của Hội Tăng huyết áp Anh quốc (NICE 2011)
cho rằng, nếu huyết áp đo tại phòng khám ≥ 140/90 mmHg thì cần đo huyết
áp lưu động để khẳng định chẩn đoán.
Khi sử dụng huyết áp lưu động để khẳng định chẩn đoán tăng huyết áp,
đảm bảo có ít nhất 2 lần đo/giờ trong những giờ làm việc thông thường của
người đó (ví dụ từ 8 giờ đến 22 giờ). Sử dụng giá trị trung bình của ít nhất 14
lần đo trong những giờ làm việc thông thường của người đó (≥ 135/85
mmHg) để khẳng định chẩn đoán. Nếu bệnh nhân không dung nạp được với


12

đo huyết áp lưu động, có thể sử dụng đo huyết áp tại nhà để khẳng định chẩn
đoán.
Khi sử dụng đo huyết áp tại nhà để khẳng định chẩn đoán, cần đảm bảo:

-

Mỗi lần đo huyết áp cần đo 2 lần liên tiếp, cách nhau 1 phút ở tư thế

-

ngồi.
Cần đo huyết áp 2 lần mỗi ngày, tốt nhất là một lần vào buổi sáng và

-

một lần vào buổi tối.
Cần đo huyết áp liên tục 4 ngày, lí tưởng là 7 ngày. Loại bỏ ngày đầu
tiên và sử dụng giá trị trung bình của các lần đo còn lại (≥ 135/85
mmHg) để khẳng định chẩn đoán.

Khi bệnh nhân có tăng huyết áp nặng, thì xem xét sử dụng thuốc hạ áp
ngay mà không cần kết quả đo huyết áp lưu động hay theo dõi huyết áp tại
nhà.
Trong khi chờ đợi để chẩn đoán tăng huyết áp, cần tiến hành các thăm dò
để chấn đoán phát hiện tổn thương cơ quan đích (như phì đại thất trái, bệnh
thận mãn tính và bệnh đáy mắt do tăng huyết áp) và đánh giá nguy cơ tim
mạch.
Người có huyết áp bình thường cần đo lại huyết áp sau mỗi 2 năm và
người tiền tăng huyết áp nên thực hiện thay đổi lối sống và kiểm tra lại huyết
áp sau 1 năm [10].
1.1.0. Phân loại tăng huyết áp
Có nhiều cách phân loại rất hữu ích cho chẩn đoán và điều trị. Tuy nhiên,
hai cách phân loại chính là dựa vào mức độ tăng huyết áp (trị số huyết áp) và
dựa vào nguyên nhân (tăng huyết áp nguyên nhân thứ phát hay nguyên phát).

Một yếu tố thứ ba quan trọng là tuổi: sinh lí bệnh tăng huyết áp ở người trẻ và
người lớn tuổi rất khác nhau.
Trong đa số trường hợp, bệnh nhân tăng huyết áp thường tăng cả HATT
và HATTr, nhưng cũng có một số trường hợp, chỉ một trong hai trị số đó tăng.


13

Phổ biến là tăng HATT đơn độc ở người lớn tuổi, đây là dạng tăng huyết áp
có cơ chế sinh lí bệnh khác với dạng tăng huyết áp khác. Tăng HATT đơn độc
cũng có thể xảy ra ở những người lớn trẻ tuổi, nhưng có cơ chế khác hẳn.
Tăng HATTr đơn độc cũng có thể xảy ra. Theo phương pháp phân loại tăng
huyết áp truyền thống, chúng ta dựa vào trị số huyết áp đo được ở phòng
khám hay trong bệnh viện, nhưng với việc sử dụng phổ biến các dụng cụ đo
huyết áp tại nhà, người ta thấy có sự khác biệt đáng kể về trị số huyết áp đo
được tại bệnh viện so với mức huyết áp đo tại nhà hàng ngày. Thông thường
thì khi đo huyết áp trong bệnh viện, trị số huyết áp sẽ cao hơn và được gọi là
“hội chứng áo choàng trắng”.
Các khuyến cáo hiện hành đều thống nhất đưa ra định nghĩa tăng huyết áp
khi huyết áp ≥ 140/90 mmHg đối với người lớn (≥ 18 tuổi), phân loại này dựa
trên trị số trung bình của 2 hoặc 3 lần đo huyết áp ở tư thế ngồi, với dụng cụ
đo chuẩn, ở ít nhất 2 lần khám khác nhau. Các khuyến cáo khác nhau đưa ra
cách phân độ khác nhau. Nhìn chung huyết áp bình thường là < 120 và < 80
mmHg. Khoảng huyết áp ở giữa từ 120-139 và 80-90 mmHg được định nghĩa
là tiền tăng huyết áp, là nhóm có yếu tố nguy cơ trung bình và có thể tiến triển
thành tăng huyết áp thực sự.
Bảng 1.1: Phân loại huyết áp ở người ≥ 18 tuổi (WHO - 2003)
Phân độ
Huyết áp tối ưu
Huyết áp bình thường

Huyết áp bình thường cao
Độ 1: Tăng huyết áp nhẹ
Độ 2: Tăng huyết áp vừa
Độ 3: Tăng huyết áp nặng
Tăng huyết áp tâm thu đơn độc

HATT (mmHg)
< 120
< 130
130-139
140-159
160-179
≥ 180
≥ 140

HATTr (mmHg)
< 80
< 85
85-89
90-99
100-109
≥ 110
< 90

Bảng 1.2: Phân loại huyết áp ở người ≥ 18 tuổi (Báo cáo VII của Liên ủy ban
quốc gia về phòng ngừa, phát hiện, đánh giá và điều trị cao huyết áp - 2003)


14


Phân độ
Huyết áp bình thường
Tiền tăng huyết áp
Tăng huyết áp độ 1
Tăng huyết áp độ 2

HATT (mmHg)
< 120
130-139
140-159
≥ 160

HHTTr (mmHg)
< 80
85-89
90-99
≥ 100

Bảng 1.3: Phân loại huyết áp ở người ≥ 18 tuổi (Hiệp hội tăng huyết áp châu
Âu/Hiệp hội tim mạch châu Âu-2007)
Phân độ
Huyết áp tối ưu
Huyết áp bình thường
Huyết áp bình thường cao
Độ 1:
Độ 2:
Độ 3:
Tăng HATT đơn độc

HATT (mmHg)

< 120 và
< 130 và/hoặc
130-139 và/hoặc
140-159 và/hoặc
160-179 và/hoặc
≥ 180 và/hoặc
≥ 140 và

HATTr (mmHg)
<80
<85
85-89
90-99
100-109
≥ 110
< 90

Những điểm mới trong phân độ tăng huyết áp theo Hiệp hội tăng huyết áp
châu Âu/Hiệp hội tim mạch châu Âu 2007 là dung độ 1, 2, 3 thay cho từ “nhẹ,
vừa và nặng” của phân loại Hiệp hội tim mạch châu Âu 2003 và WHO/ISH
1999 để tránh nhầm lẫn với tình trạng thực của bệnh nhân. Khi một trong hai
trị số của huyết áp (tâm thu hoặc tâm trương) rơi vào độ nào, thì lấy độ có trị
số cao hơn (có khái niệm và/hoặc). Tăng HATT đơn độc cũng được chia theo
các độ 1, 2, 3 [10].
1.1.0. Các biểu hiện bệnh tăng huyết áp
+ Lâm sàng:
Bệnh nhân bị tăng huyết áp đa số đều không có triệu chứng gì cho tới khi
phát hiện ra bệnh. Hay gặp nhất là đau đầu vùng chẩm và hai bên thái dương,
ngoài ra còn có thể có hồi hộp, mệt, khó thở, mờ mắt, tê đầu chi… một số
triệu chứng khác tùy thuộc và nguyên nhân hoặc biến chứng của tăng huyết

áp [11].


15

Đo huyết áp là động tác quan trọng nhất có ý nghĩa chẩn đoán xác định.
Phương pháp Korotkoff dùng huyết áp kế thủy ngân hoặc các loại huyết áp kế
khác được chuẩn lại 6 tháng 1 lần. Số đo huyết áp được đánh giá theo tiêu
chuẩn của Hội Tim mạch học Việt Nam như sau:
-

Tại phòng khám: Khi bệnh nhân có trị số huyết áp ≥ 140/90 mmHg.
Sau khám lại lâm sàng ít nhất 2 hoặc 3 lần khác nhau. Mỗi lần khám

-

được đo ít nhất 2 lần [12].
Tại nhà khi đo nhiều lần dùng phương pháp tăng huyết áp có trị số
huyết áp ≥ 135/85 mmHg.

Các dấu hiệu lâm sàng khác: Bệnh nhân có thể béo phì, mặt tròn, cơ chi
trên phát triển hơn cơ chi dưới trong hẹp eo có động mạch chủ. Tìm các biểu
hiện xơ vữa động mạch trên da (u vàng, u mỡ...).
Khám tim phổi có thể phát hiện sớm dày thất trái hay dấu hiệu suy tim
trái. Sờ và nghe động mạch để phát hiện các trường hợp nghẽn hay tắc động
mạch cảnh.
Khám bụng có thể phát hiện tiếng thổi tâm thu hai bên rốn, trong hẹp
động mạch thận, phồng động mạch chủ hoặc phát hiện thận to, thận đa nang.
Khám thần kinh có thể phát hiện các tai biến mạch máu não cũ hoặc nhẹ.
+ Cận lâm sàng:

Mục đích để đánh giá nguy cơ tim mạch, tổn thương thận và tìm nguyên
nhân.
Những xét nghiệm tối thiểu:
-

Máu: công thức máu, ure, creatinin, điện giải đồ, cholesterol toàn phần,
cholesterol tỉ trọng cao, cholesterol tỉ trọng thấp, glucose, acid uric

-

trong máu.
Nước tiểu: protein, hồng cầu…
Soi đáy mắt, điện tâm đồ, X-quang tim, siêu âm tim…

Những xét nghiệm hay trắc nghiệm đặc biệt:


16

-

Đối với tăng huyết áp thứ phát hay tăng huyết áp khó xác định nghi ngờ

-

có bệnh mạch thận: chụp UIV nhanh, thận đồ.
U tủy thượng thận định lượng catecholamin nước tiểu 24h.

1.1.0. Yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp
- Hút thuốc lá: Mỗi khi hút thuốc lá sẽ làm huyết áp tăng lên.

Nicotin trong thuốc lá có tác dụng chủ yếu làm co mạch ngoại biên, làm
tăng nồng độ serotonin, catecholamin ở não và tuyến thượng thận. Mặt khác,
cacbondioxit và một số chất có trong thuốc lá có thể làm tổn thương nội mạc
và thành mạch dẫn đến hẹp lòng mạch, tăng sức cản ngoại vi. Nguy cơ mắc
bệnh mạch vành ở bệnh nhân tăng huyết áp có hút thuốc cao hơn 50-60% so
với những người không hút thuốc, nhưng hút dưới số lượng đó thì không khác
nhau nhiều [13].
- Uống rượu: Nghiên cứu của Phạm Gia Khải về Dịch tễ học tăng huyết
áp tại Hà Nội (1999) cho thấy uống rượu có mối liên quan chặt chẽ với tăng
huyết áp ở cả hai giới [14].
- Ăn mặn: Ăn mặn làm tăng mật độ thụ cảm thể nhạy cảm với muối.
Hậu quả là tăng quá trình co thành mạch và tăng tiết thể dịch ở trong lòng
thành mạch làm tăng huyết áp. Nhiều nghiên cứu đều khẳng định chắc chắn
và đã cho thấy về lượng muối ăn hàng ngày quá cao là một trong những
nguyên nhân gây tăng huyết áp. Vì vậy hạn chế muối ăn trong khẩu phần ăn
hàng ngày là một trong những biện pháp dễ thực hiện nhất để phòng ngừa
tăng huyết áp và cách điều trị mà không phải dùng thuốc tốt nhất [15],[16].
- Tiền sử gia đình: Người ta nhận thấy rằng tăng huyết áp có yếu tố di
truyền và tính gia đình. Điều tra phả hệ những gia đình có người tăng huyết
áp thấy có trên 50% số người bị tăng huyết áp. Trước đây thường được quy là
do cùng bộ gen, cùng chung môi trường, hoàn cảnh sống và thói quen sinh


17

hoạt… [10]. Nghiên cứu của Phạm Thị Kim Lan (2002) cho kết quả tiền sử
gia đình có người bị tăng huyết áp thì nguy cơ tăng huyết áp là 50,25% [13].
- Thừa cân (BMI ≥ 23): Có mối liên quan chặt chẽ giữa huyết áp và trọng
lượng cơ thể. Người béo phì dễ bị tăng huyết áp hơn người gầy. Các nghiên
cứu cho thấy HATT, HATTr đều tăng khi chỉ số khối cơ thể tăng, người béo

có nguy cơ tăng huyết áp cao hơn bình thường và nguy cơ này càng cao khi
tuổi càng trẻ, thời gian béo phì càng dài [17],[18]. Những người có chỉ số
BMI từ 25 - 29 có nguy cơ tăng huyết áp cao hơn 70% so với người có chỉ số
BMI < 25. Nếu BMI từ 29 - 34 và có phối hợp với tăng lipid máu, kháng
insulin ở lứa tuổi cao có tăng huyết áp thì hầu hết bị tăng huyết áp và
biến chứng đột quỵ hoặc bệnh mạch vành [10].
- Sang chấn tâm lý (stress): Là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh lý trong đó
có tăng huyết áp. Khi cơ thể trong tình trạng stress, catecholamin và cortisol
được giải phóng tăng lên làm tăng hoạt động của hệ giao cảm và tăng chuyển
hoá, adrenalin được giải phóng làm tim tăng co bóp, nhịp tim nhanh hơn,
động mạch co nhỏ lại làm tăng huyết áp.
- Tuổi: huyết áp tăng dần theo tuổi, sự đàn hồi thành mạch càng kém
bởi sự xơ hoá mạch theo tuổi tác sự xơ vữa động mạch ở người cao tuổi cũng
là nguyên nhân làm cho bệnh tăng huyết áp thêm nặng nề và có nhiều biến
chứng.
- Đái tháo đường: Tỉ lệ bệnh tăng huyết áp thường gặp ở quần thể người
đái tháo đường hơn là những quần thể không bị đái tháo đường. Bệnh đái tháo
đường hay có cùng với bệnh tăng huyết áp. Đái tháo đường và bệnh tăng
huyết áp là hai bệnh nội khoa riêng biệt, nhưng giữa chúng có mối liên hệ tác
động lẫn nhau. Đái tháo đường là một trong những yếu tố nguy cơ tăng huyết
áp. Có 30-50% bệnh nhân đái tháo đường bị tăng huyết áp. Đái tháo đường
làm tăng cao nguy cơ xơ vữa độnh mạch [19].


18

- Rối loạn lipid máu: Rối loạn lipid máu vừa có tác dụng thúc đẩy bệnh xơ
vữa động mạch, vừa có tác dụng thúc đẩy bệnh tăng huyết áp.
- Những yếu tố khác có thể ảnh hưởng tới tăng huyết áp, như: Ít vận động
thể lực. Dùng thuốc: thuốc tránh thai, corticoid. Thai nghén, nữ giới tiền mãn

kinh. Uống trà, cà phê nhiều. Tăng fibrinogen: tăng fibrinogen có nguy cơ
tăng huyết áp 2 lần so với người bình thường.
1.1.0. Kiểm soát tăng huyết áp
Mục tiêu kiểm soát: Mức huyết áp được gọi là kiểm soát, theo quan niệm
thông thường là dưới 140/90 mmHg. Tuy nhiên đối với những bệnh nhân bị
đái tháo đường hay bệnh thận mạn tính thì huyết áp mục tiêu phải đạt thấp
hơn 130/80 mmHg. Kiểm soát một số yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh tăng huyết áp.
Nguyên tắc kiểm soát: Bệnh tăng huyết áp là một bệnh toàn thể vì vậy
cần có một chế độ điều trị toàn diện và liên tục, lâu dài, gần như suốt đời,
trong quá trình đó cần phối hợp nhiều phương pháp khác nhau:
- Thay đổi lối sống.
- Loại trừ yếu tố nguy cơ.
- Dùng thuốc đơn độc hoặc phối hợp thuốc.
Phương pháp kiểm soát tăng huyết áp:
+ Phương pháp không dùng thuốc (thay đổi lối sống):
- Giảm cân nặng nếu thừa cân.
- Hạn chế rượu bia: Cần hạn chế ít hơn 30 ml ethanol/ngày (ít hơn 720 ml
bia, 300 ml rượu vang và 60 ml rượu Whisky).
- Tăng cường luyện tập thể lực tùy theo mức độ bệnh vào khả năng của
từng người.
- Chế độ ăn: Giảm muối (Natri) đã được chứng minh làm giảm trị số
huyết áp và nguy cơ biến chứng ở bệnh nhân tăng huyết áp. Chế độ ăn giảm


19

muối nên thực hiện với lượng muối < 6g (NaCl)/ngày hoặc 2,4g Natri/ngày.
Chế độ ăn hạn chế các mỡ động vật, các thức ăn giàu cholesterol.
- Bỏ thuốc lá, thuốc lào.

+ Kiểm soát bằng thuốc:
Có rất nhiều thuốc được áp dụng để điều trị tăng huyết áp, tùy thuộc vào
mức độ tăng huyết áp và chẩn đoán của bác sĩ. Việc điều trị bằng thuốc cần
liên tục, lâu dài và gần như suốt đời.
Một số thuốc điều trị tăng huyết áp:
- Nhóm thuốc lợi tiểu: Gồm có Hydroclorothiazid, Indapamid, Furosemid,
Spironolacton, Amilorid, Triamteren... Cơ chế của thuốc là làm giảm sự ứ
nước trong cơ thể, tức làm giảm sức cản của mạch ngoại vi, dẫn đến làm hạ
huyết áp. Dùng đơn độc khi bị tăng huyết áp nhẹ, có thể phối hợp với thuốc
khác khi tăng huyết áp nặng thêm. Cần lựa chọn loại phù hợp do có loại làm
thải nhiều kali, loại giữ kali, tăng acid uric trong máu, tăng cholesterol máu.
- Nhóm thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương: Gồm có Reserpin,
Methyldopa, Clonidin... Cơ chế của thuốc là hoạt hóa một số tế bào thần kinh
gây hạ huyết áp. Hiện nay ít dùng do tác dụng phụ gây trầm cảm, khi ngừng
thuốc đột ngột sẽ làm tăng vọt huyết áp.
- Nhóm thuốc chẹn alpha: Gồm có Prazosin, Alfuzosin, Terazosin,
Phentolamin... Cơ chế của thuốc là ức chế giải phóng noradrenalin tại đầu dây
thần kinh (là chất sinh học làm tăng huyết áp), do đó làm hạ huyết áp. Có tác
dụng phụ gây hạ huyết áp khi đứng lên (hạ huyết áp tư thế đứng), đặc biệt khi
dùng liều đầu tiên.


20

- Nhóm thuốc chẹn beta: Gồm có Propanolol, Pindolol, Nadolol, Timolol,
Metoprolol, Atenolol, Labetolol, Acebutolol... Cơ chế của thuốc là ức chế thụ
thể beta - giao cảm ở tim, mạch ngoại vi, do đó làm chậm nhịp tim và hạ
huyết áp. Thuốc dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt lưng, ngực hoặc
nhức nửa đầu. Chống chỉ định đối với người có kèm hen suyễn, suy tim, nhịp
tim chậm.

- Nhóm thuốc đối kháng calci: Gồm có Nifedipin, Nicardipin, Amlodipin,
Felodipin, Isradipin, Verapamil, Diltiazem... Cơ chế của thuốc là chặn dòng
ion calci không cho đi vào tế bào cơ trơn của các mạch máu, vì vậy gây giãn
mạch và từ đó làm hạ huyết áp. Dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt
ngực, hiệu quả đối với bệnh nhân cao tuổi, không ảnh hưởng đến chuyển hóa
đường, mỡ trong cơ thể.
- Nhóm thuốc ức chế men chuyển: Gồm có Captopril, Enalapril,
Benazepril, Lisinopril, Perindopril, Quinepril, Tradola-pril... Cơ chế của thuốc
là ức chế một enzym có tên là men chuyển angiotensin (angiotensin
converting enzym, viết tắt ACE). Nhờ men chuyển angiotensin xúc tác mà
chất sinh học angiotensin I biến thành angiotensin II và chính chất sau này
gây co thắt mạch làm tăng huyết áp. Nếu men chuyển ACE bị thuốc ức chế
(làm cho không hoạt động) sẽ không sinh ra angiotensin II, gây ra hiện tượng
giãn mạch và làm hạ huyết áp.
Nhóm thuốc này hữu hiệu trong 60% trường hợp khi dùng đơn độc (tức
không kết hợp với thuốc khác). Là thuốc được chọn khi bệnh nhân bị kèm hen
suyễn (chống chỉ định với chẹn beta), đái tháo đường (lợi tiểu, chẹn beta). Tác
dụng phụ: làm tăng kali huyết và gây ho khan.


21

- Nhóm thuốc mới ức chế thụ thể angiotensin: Tác dụng phụ có thể gặp là
chóng mặt, hoặc rất hiếm là gây tiêu chảy. Chống chỉ định của thuốc là không
dùng cho phụ nữ có thai hoặc người bị dị ứng với thuốc.
1.1.0. Biến chứng của tăng huyết áp
Tăng huyết áp gây nhiều biến chứng ở não, mắt, tim, thận, mạch máu.
- Tim: Suy tim và bệnh mạch vành là hai biến chứng và là hai nguyên
nhân tử vong cao nhất đối với tăng huyết áp. Tăng huyết áp thường xuyên làm
cho thất trái to ra, về lâu dài thất trái bị giãn, khi sức co bóp của tim bị giảm

nhiều thì sẽ bị suy tim, lúc đầu suy tim trái rồi suy tim phải và trở thành suy
tim toàn bộ. Người bệnh mệt mỏi, khó thở khi gắng sức, da xanh, phù , tím
tái…
- Não: Tai biến mạch máu não (TBMMN) thường gặp như: nhũn não, xuất
huyết não có thể tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề. Có thể gặp TBMMN
thoáng qua với các triệu chứng thần kinh khu trú không quá 24h hoặc bệnh
não do tăng huyết áp với lú lẫn, hôn mê kèm co giật, nôn mửa, nhức đầu dữ
dội.
- Thận: Xơ vữa động mạch thận sớm và nhanh.
Xơ thận gây suy thận dần dần.
Hoại tử dạng tơ huyết tiểu động mạch thận gây tăng huyết áp ác
tính.
Giai đoạn cuối thiếu máu cục bộ nặng ở thận sẽ dẫn đến nồng độ
renin và angiotensin II trong máu tăng gây cường aldosterone thứ
phát.
- Mạch máu: hẹp, phình các động mạch lớn như động mạch chủ, động
mạch đùi, động mạch cảnh.
- Mắt: xơ hóa động mạch võng mạc trung tâm gây giảm thị lực, thậm chí
mù lòa.


22

1.2. Dịch tễ học bệnh tăng huyết áp
Bệnh tăng huyết áp trong cộng đồng ngày càng gia tăng và hiện tại đang ở
mức cao, đặc biệt là các nước phát triển. Mô hình bệnh tật đang chuyển dịch
từ các bệnh lây nhiễm sang các bệnh không lây nhiễm, trong đó có bệnh tăng
huyết áp.
Tỉ lệ mắc tăng huyết áp trên Thế giới:
Các nhà khoa học của trường Đại học Tulane khi phân tích gánh nặng của

bệnh tăng huyết áp ở cấp độ toàn cầu trong những năm 1980 đến 2000 đã ước
tính rằng khoảng 26,4% dân số toàn cầu bị tăng huyết áp với con số tuyệt đối
là 330 triệu người bị tăng huyết áp ở các nước phát triển và 639 triệu người ở
các nước đang phát triển trong năm 2000. Nghiên cứu này cũng dự đoán rằng
vào năm 2025 sẽ có 29,2% dân số toàn cầu tức gần 1,5 tỉ người bị tăng huyết
áp, tăng 60% so với năm 2000 [20].
Theo số liệu báo cáo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh –
Hoa Kỳ từ 2003-2010, tỷ lệ tăng huyết áp người trưởng thành ở Mỹ (từ 18
tuổi) là 30,4% [21]. Nghiên cứu của tác giả Kaur P năm 2012 tại khu vực
nông thôn miền Nam của Ấn Độ cũng ở độ tuổi 18 trở lên cho thấy tỷ lệ mắc
tăng huyết áp là 21,4% [22].
Các nghiên cứu ở châu Âu cho thấy tỉ lệ tăng huyết áp rất cao. Trong
nghiên cứu so sánh tỉ lệ tăng huyết áp ở 7 nước châu Âu, đứng đầu là Đức
(55%) và thấp nhất là Ý (38%), ở giữa là Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Thụy
Điển. Tỷ lệ mắc của Canada cũng tương tự như Mỹ (27%). Nguyên nhân của
sự khác biệt lớn này không rõ, nhưng dường như không phải do sự khác nhau
trong cách đo hay cách lấy mẫu. Ở Ai Cập, tỷ lệ này khoảng 25%, trong khi
đó ở Trung Quốc, nơi mà phần lớn dân số ở nông thôn, tỉ lệ này chỉ có 14%
nhưng đang tăng lên rất nhanh [19].
Tỉ lệ mắc tăng huyết áp ở Việt Nam:


23

Bệnh tăng huyết áp ở Việt Nam tăng nhanh một cách đáng kể. Năm 1992
công trình điều tra dịch tễ học bệnh tăng huyết áp ở Việt Nam với 48.303 đối
tượng thì tỷ lệ tăng huyết áp là 11,7%. Tỷ lệ tăng huyết áp cũng tăng dần theo
tuổi, dưới 39 tuổi là 6,04%, 40-49 tuổi là 10,6%, 50-59 tuổi là 21,5%, 60-69
tuổi là 30,6% và từ 70 tuổi trở lên là 47,4%. Điều đáng chú ý là tỷ lệ mắc
bệnh ở nam nhiều hơn ở nữ một cách rõ rệt, nam là 18% trong khi đó nữ chỉ

có 14,5% [23]. Đến năm 1999 theo thống kê của Phạm Gia Khải thì số người
tăng huyết áp đã lên đến 16,09%, so với năm 1960 tỷ lệ là 1% nay đã tăng lên
20 lần [24].
Theo số liệu của Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam, điều tra trên 8 tỉnh
của cả ba miền Bắc, Trung, Nam (2008), tỉ lệ tăng huyết áp lên tới 25,1% ở
người ≥ 25 tuổi. Trong đó số người được điều trị vẫn rất thấp, chiếm 34,2%
và tỉ lệ được kiểm soát tốt chỉ đạt 11% [6].
Nghiên cứu của Nguyễn Thái Hoàng và cộng sự (2009) về tình hình tăng
huyết áp của người cao tuổi tại thành phố Cần Thơ cho tỉ lệ 49,89% người cao
tuổi mắc tăng huyết áp, tỉ lệ tăng HATT đơn độc là 22,99%, phân loại tăng
huyết áp theo báo cáo lần thứ VII của Liên ủy ban quốc gia về phòng ngừa,
phát hiện , đánh giá và điều trị cao huyết áp: huyết áp bình thường là 13,44%,
tiền tăng huyết áp là 39,7%, tăng huyết áp giai đoạn 1 là 26,26%, tăng huyết
áp giai đoạn 2 là 20,6% [25]. Một nghiên cứu khác của Hoàng Đức Thuận
Anh (2013) về tình hình tăng huyết áp của người cao tuổi huyện Hương Thủy,
Thừa Thiên Huế cho tỉ lệ 35,6% người cao tuổi mắc tăng huyết áp [26].
Nghiên cứu của Trần Thanh Tú (2014) cho kết quả 45% người cao tuổi mắc
tăng huyết áp [27]. Nghiên cứu của Trần Văn Long (2015) cũng cho tỉ lệ mắc
tăng huyết áp ở người cao tuổi khá cao 52,8% [28].
1.2. Một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ và nhu cầu truyền thông giáo
dục sức khỏe về tăng huyết áp trên Thế giới và Việt Nam


24

1.3.0. Trên Thế giới
Để góp phần vào công tác dự phòng, quản lí điều trị bệnh tăng huyết áp,
tại nhiều quốc gia trên thế giới người ta đã tiến hành các nghiên cứu đánh giá
về kiến thức, thực hành về bệnh tăng huyết áp trong cộng đồng.
Tại Thụy Sĩ – một nước thu nhập cao, nghiên cứu tại nước này trong giai

đoạn từ 1999-2009 cho thấy số người dân có hiểu biết kém về căn bệnh tăng
huyết áp đã giảm đi trong vòng 10 năm, từ tỉ lệ 36% xuống còn 17,7% [29].
Trong khi đó ở Mỹ, báo cáo của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch
bệnh chỉ ra rằng trong giai đoạn 2003-2010 có tới 39% người bệnh bị tăng
huyết áp không biết mình đang mắc bệnh [21].
Nghiên cứu tại Bồ Đào Nha (2010) cho thấy tỉ lệ người dân hiểu biết về
bệnh tăng huyết áp tương đối cao, có tới 59% nữ và 41% nam hiểu biết về
bệnh tăng huyết áp. Những người già, những người có chỉ số BMI cao có tỉ lệ
hiểu biết về bệnh tăng huyết áp cao hơn so với những người sống độc thân,
nam giới nghiện rượu, trẻ tuổi [30].
Một nghiên cứu khác tại Mông Cổ năm 2010 trên 3450 người trưởng
thành cho thấy có đến 20% người dân chưa hề biết khái niệm huyết áp. Trong
đó những người đàn ông trẻ có kiến thức về chủ đề này có kiến thức kém hơn
so với phụ nữ, người dân ở thành thị có kiến thức tốt hơn về chủ đề này so với
người dân ở nông thôn [31].
Còn tại Trung Quốc (2011), một nghiên cứu chỉ ra rằng 43% người bệnh
tăng huyết áp biết tình trạng sức khỏe của mình tuy nhiên có tới 38% người
dân tham gia nghiên cứu này cho rằng bệnh tăng huyết áp không ảnh hưởng
nghiêm trọng tới cuộc sống của họ [32]. Một nghiên cứu khác của tác giả Cai
L (2012) cho biết những người trẻ tuổi, nam giới, sống tại khu vực nông thôn
có hiểu biết và thực hành kém hơn về bệnh tăng huyết áp [33].


25

Nghiên cứu khảo sát 1019 người dân đang sinh sống tại London – nước
Anh trong năm 2014 cho thấy có tới 52% người dân không trả lời được
khoảng giá trị huyết áp bình thường [34].
1.3.2. Tại Việt Nam
Các nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy kiến thức và thực hành phòng bệnh

tăng huyết áp của người dân còn chưa tốt, tỉ lệ người dân không biết tình
trạng mắc bệnh tăng huyết áp còn tương đối cao.
Nghiên cứu từ năm 2001-2002 tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam của nhóm
tác giả Phạm Gia Khải cùng cộng sự cho thấy tỉ lệ người dân hiểu biết đúng
tất cả các yếu tố nguy cơ chỉ chiếm 23% (18,8% ở nông thôn so với 29,5% ở
thành thị), trong khi hiểu biết sai về yếu tố nguy cơ chiếm hơn 1/3 dân số
(44,1% ở nông thôn so với 27,1% ở thành thị) [35].
Một nghiên cứu khác của Viên Văn Đoan và cộng sự năm 2004 về “Bước
đầu nghiên cứu mô hình quản lí, theo dõi và điều trị có kiểm soát bệnh tăng
huyết áp khu vực Hà Nội” trên 300 bệnh nhân theo dõi và điều trị trong 2 năm
cho thấy tỉ lệ bệnh nhân không biết về tăng huyết áp cũng như không biết
mình bị tăng huyết áp là khá cao 47,6%, tỉ lệ hiểu biết về bệnh chỉ có 9,5%
[36].
Theo nghiên cứu của Ong Thế Viên năm 2005 về hiệu quả quản lí và điều
trị ngoại trú bệnh nhân tăng huyết áp tại bệnh viện Bạch Mai cho kết quả tỉ lệ
bệnh nhân không hiểu và chưa nhận thức được bệnh chiếm 92,6%, chỉ có
7,4% hiểu biết về bệnh và điều trị đúng [37].
Cũng năm 2005 nghiên cứu của Phan Nam Hùng và cộng sự về thí điểm
mô hình quản lí bệnh nhân tăng huyết áp có bảo hiểm y tế tại thành phố Quy
Nhơn cho thấy 62,7% bệnh nhân không biết huyết áp ≥ 140/90 mmHg là tăng
huyết áp [8].


×