Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Một số vấn đề về đổi mới giáo dục Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.88 MB, 4 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 471 (Kì 1 - 2/2020), tr 1-3; 11

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Phạm Văn Thực - Học viên Cao học K18-S3, Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày nhận bài: 15/9/2019; ngày chỉnh sửa: 25/10/2019; ngày duyệt đăng: 13/11/2019.
Abstract: To fundamentally and comprehensively renovate education and training in order to
build a developed education, meeting the requirements of the cause of building and defending the
Socialist Republic of Vietnam, it is necessary to develop educational orientation in a specific period
on the basis of educational references of countries in the world. In this article, we focus on
analyzing the current context and require radical and comprehensive renovation of Vietnamese
education. On that basis, innovative goals, content and methods as well as organizational structure,
management and some recommendations will be proposed to promote the basic and
comprehensive renovation of education in Vietnam.
Keywords: Educational innovation, current context.
nhân lực có tri thức, kĩ năng, phẩm chất cần thiết. Do đó,
toàn cầu hóa trong giáo dục cũng là một thách thức đối
với mỗi quốc gia, đòi hỏi cần có sự đổi mới căn bản và
toàn diện.
- Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đang diễn ra mạnh mẽ (Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư) được dự báo sẽ làm thay đổi đến các mặt của xã hội,
trong đó có giáo dục. Do vậy, cuộc cách mạng này cũng
sẽ thay đổi cách thức lao động trong lĩnh vực giáo dục.
- Thứ ba, sự hình thành của nền kinh tế tri thức, xã
hội tri thức; trong đó, tri thức có vai trò quyết định đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự hình thành của
nền kinh tế tri thức đòi hỏi giáo dục phải vượt khỏi
những khuôn khổ truyền thống và không ngừng đổi


mới, thích nghi.
2.1.2. Bối cảnh trong nước
Sau 30 năm đổi mới, nền giáo dục nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu trong việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người nhằm thúc
đẩy sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được, chất lượng, hiệu quả GD-ĐT
còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo
dục nghề nghiệp; hệ thống GD-ĐT thiếu liên thông giữa
các trình độ và giữa các phương thức GD-ĐT, còn nặng
lí thuyết, nhẹ thực hành; đào tạo thiếu gắn kết với nghiên
cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị
trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục
đạo đức, lối sống và kĩ năng làm việc; phương pháp giáo
dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập còn lạc
hậu; quản lí GD-ĐT còn nhiều yếu kém; đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lí giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng
và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và
phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm
đạo đức nghề nghiệp [1].

1. Mở đầu
Ở mỗi quốc gia, việc xác định, chỉ rõ quan điểm giáo
dục trong một giai đoạn cụ thể, thường thông qua hai
phương thức sau: tổng kết thực tiễn giáo dục và rút ra
quan điểm giáo dục phù hợp với thực tiễn, hoặc là trên
cơ sở một nền giáo dục khoa học trên thế giới, rút ra quan
điểm giáo dục phù hợp với nước mình. Thực tiễn cho
thấy, cả hai phương thức này đều đã được lựa chọn, hoặc
có sự kết hợp bởi cả hai nhưng ở các mức độ khác nhau.

Giáo dục Việt Nam đang trong quá trình đổi mới toàn
diện và hội nhập quốc tế. Việc nghiên cứu các quan điểm,
mô hình giáo dục của các nước trên thế giới để đưa ra
những khuyến nghị cho giáo dục ở Việt Nam là cần thiết,
góp phần vào sự thành công của công cuộc đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục Việt Nam.
Bài viết đề cập một số vấn đề về đổi mới giáo dục của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay dựa trên những phân
tích bước đầu về bối cảnh giáo dục.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Bối cảnh hiện nay và yêu cầu đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục Việt Nam
2.1.1. Bối cảnh thế giới
Thế giới đã chuẩn bị đi hết thập niên thứ hai của thế
kỉ XXI với những diễn biến mạnh mẽ, tác động không
nhỏ đến sự phát triển KT-XH của Việt Nam nói chung
cũng như sự phát triển giáo dục đất nước nói riêng. Một
số yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng tới giáo dục Việt
Nam có thể chỉ ra ở dưới đây:
- Trước hết, đó là quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế đang diễn ra rất mạnh mẽ. Sự tác động của quá
trình toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy sự
phát triển của nền giáo dục nước mình. Bởi lẽ, muốn hội
nhập quốc tế sâu rộng, các quốc gia cần xây dựng nguồn

1

Email:



VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 471 (Kì 1 - 2/2020), tr 1-3; 11

Nghị quyết số 29-NQ/TW đã đưa ra quan điểm chỉ
đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để định hướng phát
triển giáo dục trong thời kì mới. Một hệ thống giải pháp
toàn diện và đồng bộ được đưa ra, gồm: - Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với đổi
mới GD-ĐT; - Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các
yếu tố cơ bản của GD-ĐT theo hướng phát triển phẩm
chất, năng lực của người học; - Đổi mới căn bản hình thức
và phương pháp thi kiểm tra, đánh giá kết quả GD-ĐT,
đảm bảo trung thực, khách quan; - Hoàn thiện hệ thống
giáo dục quốc dân theo hệ thống giáo dục mở, học tập suốt
đời và xây dựng xã hội học tập; - Đổi mới căn bản công
tác quản lí GD-ĐT, đảm bảo dân chủ, thống nhất, tăng
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở GD-ĐT;
coi trọng quản lí chất lượng; - Phát triển đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lí, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD-ĐT; - Đổi
mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia
đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát
triển GD-ĐT; - Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu
và ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo
dục và khoa học quản lí; - Chủ động hội nhập và nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế trong GD-ĐT [1]. Đây là những
định hướng lớn và đang được các cấp, các ngành triển khai
tích cực nhằm tạo nên những bước chuyển căn bản, toàn
diện trong giáo dục Việt Nam hiện nay.
Từ đó, Bộ GD-ĐT đã đề ra nhiều chủ trương nhằm

đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đáp ứng yêu cầu
mới, khắc phục những hạn chế của giáo dục Việt Nam
hiện nay.
2.1.3. Những khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình
đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay
Từ thực tiễn giáo dục cho thấy, giáo dục Việt Nam
đang có những khó khăn và thách thức sau:
- Khó khăn về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, kinh
phí đào tạo trong ngành giáo dục. Để thực hiện chương
trình giáo dục phổ thông mới, cần giải quyết vấn đề đội
ngũ giáo viên thừa, thiếu cục bộ; cơ sở vật chất, trang
thiết bị dạy học ở nhiều địa phương chưa đáp ứng được
yêu cầu của môn học.
- Công tác xã hội hóa giáo dục. Bên cạnh những
thành tích đã đạt được, việc thực hiện xã hội hóa giáo dục
vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như: một số xã,
phường, cấp ủy, chính quyền địa phương, đoàn thể và
phụ huynh HS chưa chú trọng đến việc học tập của con
em mình; chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, tầm quan
trọng của giáo dục. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên
một bộ phận HS phải bỏ học để đi làm. Mặt khác, việc
quản lí công tác xã hội hóa giáo dục còn thiếu biện pháp
phù hợp, tính khả thi chưa cao.
- Xu thế hội nhập. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và
hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất

lượng cao, trong khi nguồn lực đầu tư cho giáo dục của
Nhà nước còn hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực còn
thấp, đặt ra những thách thức trong quá trình đổi mới
GD-ĐT; khoảng cách giàu nghèo, sự phát triển không

đều giữa các địa phương là nguyên nhân dẫn đến thiếu
bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục và khoảng cách
chất lượng giáo dục giữa các đối tượng người học và giữa
các vùng miền.
Khoảng cách phát triển về KT- XH, khoa học và công
nghệ, GD-ĐT giữa nước ta và các nước tiên tiến trong khu
vực, trên thế giới có xu hướng gia tăng, hội nhập quốc tế
và sự phát triển của kinh tế thị trường đang làm nảy sinh
nhiều nguy cơ tiềm ẩn như sự thâm nhập lối sống không
lành mạnh, làm lu mờ bản sắc văn hóa dân tộc; sự thâm
nhập của các loại dịch vụ giáo dục kém chất lượng,…
- Nguy cơ thương mại hóa giáo dục. Đây là hậu quả
của việc áp dụng các nguyên tắc kinh tế thị trường một
cách quá mức vào giáo dục, coi giáo dục thuần túy là một
ngành kinh doanh mang lại lợi nhuận. Điều này sẽ làm
suy giảm chức năng xã hội của giáo dục, giảm chất lượng
giáo dục; đồng thời làm mất đi sự tự do, sáng tạo trong
giáo dục. Điều này cũng có thể dẫn đến gia tăng bất bình
đẳng trong giáo dục, mất dân chủ trong giáo dục.
Từ những khó khăn, thách thức này, Đảng và nhà
nước ta chủ trương định hướng chiến lược đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục: 1) Phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; 2) Đảm bảo định
hướng chủ nghĩa xã hội trong phát triển GD-ĐT [1].
2.2. Một số định hướng cơ bản trong quá trình đổi mới
giáo dục Việt Nam hiện nay
2.2.1. Định hướng chung về giáo dục và vị trí, vai trò của
giáo dục hiện nay
Theo chúng tôi, trong quá trình đổi mới giáo dục cần
thống nhất một số quan niệm, định hướng về vị trí, vai

trò của giáo dục:
- Giáo dục cần hướng tới phát triển tiềm năng của
người học. Không chỉ cung cấp tri thức, giáo dục còn rèn
luyện người học toàn diện cả về năng lực và phẩm chất.
- Giáo dục cần có mô hình định hướng nhân cách
nhưng không giáo điều; tôn trọng sự phát triển đa dạng
của cá nhân, của từng nhân cách cụ thể.
- Phát huy tinh thần tự học, học gắn với hành, lí luận
gắn với thực tiễn.
- Giáo dục cần thể hiện tinh thần tự do, dân chủ của
xã hội, đặc biệt rèn luyện và thực hành dân chủ trong giáo
dục. Tinh thần tự do thể hiện trong sự sáng tạo không
ngừng của người dạy và người học trên cơ sở những tri
thức chung.
- Giáo dục là một quá trình lâu dài, không chỉ giáo
dục trong nhà trường mà còn ở xã hội, trong gia đình,…

2


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 471 (Kì 1 - 2/2020), tr 1-3; 11

Do vậy, cần xây dựng xã hội tri thức, xã hội học tập với
phương châm học tập suốt đời.
- Cần kết hợp giữa dịch vụ và chính sách xã hội trong
giáo dục, tránh tình trạng thương mại hóa quá mức giáo dục.
- Ở bậc đại học, cần kết hợp giữa giảng dạy và nghiên
cứu khoa học để nâng cao chất lượng đào tạo cũng như

đảm bảo đúng chức năng của các trường đại học, học viện.
- Tăng cường hội nhập quốc tế trong giáo dục. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện
nay, việc xây dựng nền giáo dục, hệ thống giáo dục theo
những tiêu chuẩn quốc tế sẽ góp phần tăng cường chất
lượng nguồn nhân lực, rút ngắn khoảng cách giữa nhân
lực Việt Nam và nhân lực quốc tế.
2.2.2. Mục tiêu giáo dục
Tăng cường tiếp cận theo hướng xác định chuẩn đầu
ra trong giáo dục, nghĩa là hướng tới kết quả giáo dục.
Chú trọng thực học, chống bệnh thành tích trong giáo
dục. Tăng cường khảo sát nhu cầu thực tiễn đối với từng
ngành học để xác định chuẩn đầu ra phù hợp.
Đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, cần căn cứ vào yêu
cầu xã hội để xây dựng mục tiêu đào tạo, từ đó xây dựng
chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo hợp lí. Điều
này sẽ tạo ra sự gắn kết giữa giáo dục với thị trường, với
yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước.
2.2.3. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, đổi
mới tổ chức và quản lí đào tạo
Trong quá trình đổi mới giáo dục, cần đổi mới nội
dung và phương pháp giáo dục theo hướng tăng cường cả
tri thức, kĩ năng và phẩm chất của người học. Về nội dung,
cần không ngừng đổi mới chương trình đào tạo theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, kết hợp giữa lí thuyết và ứng
dụng, thực hành. Về phương pháp, cần tăng cường các
phương pháp giảng dạy tích cực, kết hợp với phương tiện
hiện đại nhằm nâng cao chất lượng bài giảng, tăng cường
tính tích cực, chủ động của người học. Dạy người học biết
cách học, tự học, tự nghiên cứu. Tăng cường tính sáng tạo,

tinh thần say mê, hứng thú của người học. Về quản lí quá
trình đào tạo, cần chuyển đổi mạnh mẽ theo những mô
hình quản lí đào tạo hiện đại trên thế giới.
2.2.4. Đổi mới cơ chế quản lí giáo dục
Mỗi cơ sở giáo dục cần gắn với nhu cầu thị trường,
tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở
giáo dục. Cụ thể, cần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các cơ sở giáo dục. Tự chủ đại học là một
hướng đi đúng và cần đẩy mạnh thực hiện trong thời gian
tới nhằm tạo cơ chế thúc đẩy sự phát triển và hội nhập
của giáo dục đại học. Thực hiện kiểm định chất lượng
giáo dục do các có sở độc lập hoặc (kết hợp với) các cơ
quan chuyên trách của nhà nước; tăng cường quản lí nhà
nước song song với tăng cường tính tự chủ của các cơ sở

giáo dục, thể hiện ở trách nhiệm giải trình, ở kiểm định
chất lượng, ở kết quả đào tạo và khả năng đáp ứng yêu
cầu xã hội của giáo dục.
2.3. Đề xuất một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục của Việt Nam
Từ những phân tích trên, chúng tôi đề xuất một số
kiến nghị nhằm đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của ngành Giáo dục
về thực hiện chủ trương của Đảng đối với việc thực hiện
đổi mới căn bản và toàn diện GD-ĐT. Nâng cao chất
lượng GD-ĐT là vai trò, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn xã hội là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, cơ
quan, đơn vị. Ưu tiên đầu tư xây dựng trường lớp theo
hướng đạt chuẩn quốc gia; giữ vững kết quả phổ cập giáo

dục đã đạt được. Phát huy vai trò, trách nhiệm của người
đứng đầu trong việc xây dựng và triển khai thực hiện kế
hoạch. Đồng thời, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục, của người
học, gia đình và xã hội trong thực hiện các nhiệm vụ và
nội dung đổi mới GD-ĐT.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lí giáo dục. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lí, đáp ứng yêu đổi mới GD-ĐT; thực hiện chuẩn
hóa, đảm bảo đồng bộ về cơ cấu đội ngũ nhà giáo, cán bộ
quản lí ở các trường học. Đội ngũ giáo viên là một trong
những nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi
mới giáo dục. Vì vậy, cần chú trọng bồi dưỡng, tạo động
lực để giáo viên hăng say với nghề, có trí tuệ, tâm huyết;
tạo điều kiện cho cán bộ giáo viên được tham quan học tập
mô hình dạy học mới; tích cực xây dựng các mô hình dạy
học điển hình tiên tiến, đổi mới phương pháp bồi dưỡng
về năng lực sư phạm cho giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu
đổi mới chương trình, thay sách giáo khoa mới. Đặc biệt,
cần thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách đối với nhà giáo
và cán bộ quản lí trên cả nước, đảm bảo quyền lợi cho cán
bộ, công chức viên chức,...
- Đổi mới công tác quản lí: Thực hiện có hiệu quả
việc đổi mới quản lí giáo dục, bảo đảm tính dân chủ,
thống nhất, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, coi
trọng quản lí chất lượng, nâng cao vai trò, trách nhiệm
của người đứng đầu cơ sở giáo dục trong quản lí, điều
hành, thực hiện nhiệm vụ. Nâng cao năng lực quản lí ở
cơ sở giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn
diện về GD-ĐT.

- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng giáo dục
“mở”, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập: Tăng
cường đầu tư, phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả
giáo dục để xây dựng một hệ thống giáo dục mở, tạo điều
kiện học tập cho mọi người.
(Xem tiếp trang 11)

3


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 471 (Kì 1 - 2/2020), tr 4-11

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI...
(Tiếp theo trang 3)

[24] Miranda, R. - Gramani, M. C. - Andrade, E. (2012).
Technical efficiency of business administration
courses: a simultaneous analysis using DEA and
SFA. International Transactions in Operational
Research, 19(6), 847-862.
[25] Castano, M. C. N. - Cabanda, E. (2007). Sources Of
Efficiency And Productivity Growth In The
Philippine State Universities And Colleges: A NonParametric Approach. International Business &
Economics Research Journal, 6(6).
[26] Johnes, J. - Yu, L. (2008). Measuring the research
performance of Chinese higher education
institutions using data envelopment analysis. China
Economic Review, 19, 679-696.

[27] Tran, T. T. (2014). Is graduate employability the
“whole of-higher-education-issue”? Journal of
Education and Work, 18(27).
[28] Thach, N. P. - Mandy, L. - James, J. W. (2016).
Understandings of the higher education curriculum
in Vietnam. Higher Education Research &
Development, 10(28).
[29] Tran, T. T. (2011). Enterprises’ Responsibility for
Training High Skilled Workforce. Retrieved from
Hanoi: IC:
[30] Agasistia, T. - Pohl, C. (2012). Comparing German
and Italian Public Universities: Convergence or
Divergence in the Higher Education Landscape?
Managerial and Decision Economics, 33, 71-85.
[31] Evans, K. - Adam, R. (2010). Optimising the Impact
of Vietnam’s Higher Education Sector on Socioeconomic Development. Retrieved from London:
Springer.
[32] Hayden, M. (2012). Building Vietnamese higher
education system in the global integration: 9 key
points. Retrieved from International Conference in
Vietnamese
Higher
Education,
National
Development Fund & International Education
Institute, National University of Ho Chi Minh City.
[33] Kruecken, G. - Meier, F. (2006). Turning the
University into an Organizational Actor. Oxford:
Oxford University Press.
[34] Mikušová, P. (2015). An Application of DEA

Methodology in Efficiency Measurement of the
Czech Public Universities. Procedia Economics and
Finance, 25(569-578).
[35] Bộ GD-ĐT. (2009b). Quy trình và kết quả kiểm định
các trường đại học. Một số vấn đề về xếp hạng các
trường đại học [Results of the Pilot Accreditation
from 2005-2007]. Retrieved from Hanoi, Vietnam.

- Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, huy động
mọi nguồn lực để phát triển GD-ĐT: Tiếp tục huy động
các nguồn lực, sự tham gia đóng góp của toàn xã hội để
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học ở các trường
đại học, học viện.
3. Kết luận
Toàn cầu hóa là cơ hội, xu thế tất yếu, diễn ra trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện đại: kinh tế, văn
hóa, giáo dục,… tác động trực tiếp đến con người. Do
vậy, đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
chính là đầu tư cho giáo dục con người, mang lại hiệu
quả kinh tế cao, tiết kiệm được việc khai thác sử dụng
các nguồn lực khác. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, đầu
tư vào giáo dục, phát triển nguồn lực con người mang lại
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định nhất. Mặt khác,
hiệu quả đầu tư cho phát triển con người có độ lan tỏa
đồng đều, mang lại sự công bằng hơn về cơ hội phát triển
cũng như việc hưởng thụ các lợi ích của sự phát triển. Vì
vậy, việc đầu tư cho giáo dục và phát triển con người là
rất cần thiết hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số

29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
[2] Phạm Minh Hạc (1999). Giáo dục Việt Nam trước
ngưỡng cửa của thế kỉ XXI. NXB Chính trị Quốc gia
- Sự thật.
[3] Trần Bá Hoành (2010). Vấn đề giáo viên - Những
nghiên cứu lí luận và thực tiễn. NXB Đại học Sư
phạm.
[4] Bộ GD-ĐT (2015). Một số tài liệu dùng cho Ban xây
dựng Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.
[5] Đỗ Minh Cương - Nguyễn Thị Doan (2001). Phát
triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam.
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[6] Chính phủ (2010). Chiến lược phát triển giáo dục
Việt Nam 2011-2020. NXB Giáo dục Việt Nam.
[7] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ
thông - Chương trình tổng thể (Ban hành kèm theo
Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018
của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).

11



×