Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở việt nam và một số vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.34 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, là công cụ quan trọng để
điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô, thể hiện ở việc góp phần thực hiện chức năng kiểm
kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông
đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch Nhà nước, góp
phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân .
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước đã thực hiện cải cách thuế. Điểm
nổi bật của cuộc cải cách này là thay thế Luật Thuế doanh thu bằng Luật thuế giá trị gia
tăng (sau đây gọi tắt là thuế GTGT) năm 1997, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1999.
Có thể nói thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống pháp luật về thuế
hiện hành ở thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Thực tiễn áp dụng thuế GTGT ở
Việt Nam trong hơn 20 năm qua đã thể hiện sự tác động to lớn và nhiều mặt của nó đến
đời sống kinh tế, xã hội cũng như sự đúng đắn của Nhà nước trong việc áp dụng sắc thuế
này. Điều này thể hiện ở việc thu hút hoạt động đầu tư từ nước ngoài, mở rộng sản xuất
kinh doanh, tăng cường xuất khẩu… Bên cạnh đó, thực trạng áp dụng thuế GTGT cũng
đã gặp những khó khăn, hạn chế nhất định, chủ yếu nảy sinh từ những hành vi như gian
lận thuế, mua bán trái phép hóa đơn thuế GTGT,...
Chính vì vậy, nhóm quyết định tìm hiểu về đề tài “Pháp luật về thuế giá trị gia
tăng ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra”. Bài tiểu luận sẽ đưa ra những kiến thức tổng
quan nhất về thuế GTGT, hiểu rõ cách thức áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam, một số ưu
nhược điểm cũng như quy định pháp luật về thuế GTGT của một số nước trên thế giới, từ
đó chú trọng lý giải bản chất của sắc thuế này dưới góc độ pháp lý.


Chương I : Cơ sở thực tiễn và pháp lý của Thuế Giá trị gia tăng

1

Cơ sở thực tiễn - Lịch sử hình thành và phát triển của Thuế GTGT:
Nếu như thuế đã xuất hiện từ rất lâu đời thì thuế GTGT có thể coi là loại thuế hiện


đại, áp dụng chính thức lần đầu tiên tại Pháp 1954, mặc dù đã được các nhà kinh tế
nghiên cứu từ những năm 1920 ở các quốc gia khác nhau. Thuế GTGT tiếng Anh là Value
Added Tax (VAT), tiếng Pháp là Taxe sur la Value Ajoutée (TVA), thuế GTGT còn được
gọi là thuế doanh thu có khấu trừ ở khâu trước, tức là chỉ tính trên khoản giá trị tăng thêm
của hàng hoá, dịch vụ ở từng khâu bán hàng, không đánh vào phần giá trị đã chịu thuế ở
khâu trước. Cho đến nay, loại thuế này đã được áp dụng ở trên 120 quốc gia, vùng lãnh
thổ, chủ yếu là các nước Châu Phi, Châu Mỹ la tinh, các quốc gia thuộc khối Liên minh
châu Âu (EU) và một số nước Châu Á trong đó có Việt Nam.
Hệ thống thuế doanh thu của Việt Nam là hệ thống thuế đa khâu, tức là đánh thuế
trên mọi khâu của quá trình từ sản xuất, đến phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Thuế doanh
thu áp dụng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá
thể. Điều lệ thuế công thương nghiệp ban hành theo Nghị quyết số 200/NQ-TVQH ngày
18/01/1966 quy định loại thuế này.
Năm 1990, Quốc hội ban hành Luật thuế doanh thu, áp dụng chung cho các chủ
thể có hoạt động sản xuất kinh doanh. Thuế doanh thu áp dụng đối với tất cả các tổ chức
cá nhân kinh doanh, có doanh thu phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Thuế doanh thu có
đặc trưng cơ bản là có nhiều mức thuế suất, phân biệt theo ngành hàng và mặt hàng. Thuế
thu hàng tháng và tính trên tổng doanh thu bán hàng, không có khấu trừ thuế đã nộp ở
khâu trước. Thuế suất được quy định thấp. Thuế doanh thu có ưu điểm là tính toán đơn
giản, thu dứt điểm từng lần bán hàng mà không phải theo dõi thoái trả số thuế đã nộp ở
khâu trước. Vì vậy, nguồn thu của các cấp ngân sách và giữa các địa phương cũng tương
đối ổn định.
Theo các nhà nghiên cứu, một loại thuế được coi là lý tưởng khi nó thỏa mãn
bốn tiêu chuẩn:
Một là, đơn giản về mặt kỹ thuật, tức là không tạo ra cơ hội trốn thuế;
Hai là hiệu quả về mặt tài chính, tức là có năng suất cao;


Ba là, công bằng về mặt xã hội, tức là đưa lại kết quả phân phối lại của cải xã hội
Bốn là, có tác dụng khuyến khích về mặt kinh tế, tức là có tác động thúc đẩy kinh

tế phát triển
Xét theo bốn tiêu chuẩn này, Luật thuế GTGT thể hiện tính hơn hẳn của nó so với
thuế doanh thu.
Thứ nhất, về kỹ thuật Luật thuế GTGT đơn giản hơn thuế DT. Nếu thuế doanh thu
bao gồm 11 mức thay đổi từ 0% đến 40% thì thuế GTGT chỉ bao gồm 3 mức (không kể
thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu) thay đổi từ 5% đến 10%. Điều này giúp giảm
đáng kể hiện tượng trốn thuế.
Thứ hai, Luật thuế GTGT hiệu quả hơn về tài chính thể hiện ở cơ sở tính thuế của
nó rộng hơn. Về nguyên tắc, Luật thuế GTGT đánh trên tất cả mọi hàng hóa, dịch vụ
(HHDV) tiêu dùng cuối cùng (trừ những trường hợp miễn thuế).
Thứ ba, về mặt xã hội Luật thuế GTGT công bằng hơn nhờ vào cơ chế đánh thuế
của nó với mức thuế suất thấp đánh vào các mặt hàng tiêu dùng thông thường và mức cao
đánh vào các mặt hàng xa xỉ, nhờ đó nó góp phần vào phân phối lại thu nhập.
Thứ tư, Luật thuế GTGT có tác dụng khuyến khích hơn về mặt kinh tế nhờ vào cơ
chế khấu trừ thuế đầu vào và miễn thuế đối với hàng xuất khẩu.
Đặc biệt một ưu thế quan trọng nổi bật của Luật thuế GTGT, đó là Luật thuế
GTGT giải quyết được vấn đề đánh thuế trùng lặp của thuế DT, bởi vì nó chỉ đánh một
lần duy nhất trên giá trị của hàng hóa dịch vụ tiêu dùng cuối cùng không phụ thuộc vào
độ dài của chu kỳ sản xuất và tiêu thụ các hàng hóa dịch vụ này.

Mặc dù Thuế GTGT ra đời khá muộn nhưng đã khắc phục được một số nhược
điểm của thuế doanh thu trước đó (không thu thuế trùng lặp vào các khâu của quá trình
sản xuất kinh doanh), góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế. Qua nhiều lần sửa
đổi bổ sung Luật Thuế GTGT kể từ khi được áp dụng chính thức có hiệu lực lần đầu tiên
tại Việt Nam năm 1999, hệ thống chính sách thuế từng bước phù hợp với thông lệ quốc
tế, tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế của nước ta với khu vực và trên thế giới.


Cơ sở pháp lý:


Thuế GTGT là một sắc thuế hiện đại, ra đời với vai trò cải thiện những nhược
điểm của loại thuế tiền nhiệm nó – thuế doanh thu. Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và sự đa dạng của các lĩnh vực, ngành nghề, các loại thuế GTGT có ngày càng nhiều
biến động hơn, dẫn đến việc, cơ quan lập pháp và các cơ quan có thẩm quyền phải ban
hành những quy định mới, sửa đổi bổ sung các quy định lỗi thời để kịp thời điều chỉnh
các quan hệ phức tạp phát sinh trong mối quan hệ giữa các chủ thể của thuế GTGT. Do
đó, có thể khẳng định nguồn của pháp luật về thuế tương đối đa dạng. Hệ thống cơ sở
pháp lý của Thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay có các văn bản sau đây vẫn còn
hiệu lực:

Tên văn bản

Ngày có
hiệu lực

Luật Thuế giá trị gia tăng

01/01/201
4

Luật sửa đổi các Luật về thuế 2014

01/01/201
5

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng; Luật thuế tiêu thụ 01/07/201
đặc biệt và Luật quản lý thuế.
6
Nghị định 92/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều có hiệu lực từ 13/08/201
ngày 01/07/2013 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập 3

doanh nghiệp và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng.
Nghị định 209/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều 01/01/201
Luật Thuế giá trị gia tăng
4
Nghị định 91/2014/NĐ-CP sửa đổi các Nghị định quy định về thuế

15/11/201
4

Văn bản hợp nhất 13/VBHN-BTC năm 2015 hợp nhất Nghị định hướng dẫn Luật 01/01/201
Thuế GTGT
4


Nghị định 100/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều 01/01/201
của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, Luật thuế TTĐB và 4
Luật quản lý thuế.
Thông tư 128/2011/TT-BTC hướng dẫn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh 01/01/201
nghiệp đối với cơ sở y tế công lập.
2
Thông tư 141/2013/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 92/2013/NĐ-CP quy 01/07/201
định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập 3
doanh nghiệp và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng
Thông tư 219/2013/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật Thuế giá trị gia tăng và Nghị 01/01/201
định 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng 4
dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng
Thông tư 72/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng 01/07/201
đối với hàng hóa của người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài mang theo 4
khi xuất cảnh
Thông tư 119/2014/TT-BTC sửa đổi Thông tư 156/2013/TT-BTC, 111/2013/TT-BTC, 15/01/201

219/2013/TT-BTC, 08/2013/TT-BTC, 85/2011/TT-BTC, 39/2014/TT-BTC và 5
78/2014/TT-BTC để cải cách, đơn giản thủ tục hành chính về thuế
Thông tư 151/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 91/2014/NĐ-CP sửa 15/01/201
đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định quy định về thuế
5
Thông tư 26/2015/TT-BTC hướng dẫn thuế giá trị gia tăng và quản lý thuế tại Nghị 15/01/201
định 12/2015/NĐ-CP, sửa đổi Thông tư 39/2014/TT-BTC về hóa đơn bán hàng hóa, 5
cung ứng dịch
Thông tư 92/2015/TT-BTC hướng dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu 30/07/201
nhập cá nhân đối với cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh; hướng Luật sửa đổi, 5
bổ sung một số điều của các Luật về thuế số 71/2014/QH13 và NĐ 12/2015/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và
sửa đổi, bổ sung một số điều của các NĐ về thuế
Thông tư 193/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung TT 219/2013/TT-BTC hướng dẫn thi 10/01/201
hành Luật thuế GTGT và NĐ 209/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi 6
hành Luật thuế GTGT.
Văn bản hợp nhất 16/VBHN-BTC năm 2015 hợp nhất Thông tư hướng dẫn thi hành 17/06/201
Luật Thuế GTGT và NĐ 209/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành 5
Luật Thuế GTGT
Hệ thống văn bản liên quan


Thông tư 99/2016/TT-BTC hướng dẫn về quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng
Thông tư 21/2016/TT-BTC hướng dẫn về khai thuế giá trị gia tăng và ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ


Chương II: Những vấn đề lí luận chung về Thuế Giá trị gia tăng
1.


Khái niệm Thuế và Thuế giá trị gia tăng
1.1.
Khái niệm về Thuế
Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối khái niệm về thuế. Nhiều quan
điểm đưa ra mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế nên chưa phản ánh
đầy đủ bản chất chung nhất của phạm trù này. Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan
niệm rất đơn giản. C. Mác đã chỉ rõ: “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có
những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước đó là thuế má”… 1
Sau này khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong cuốn
từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes cho rằng:
“Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của
các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ
(thuế gián thu) và trên tài sản”.
Một định nghĩa khác về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn “Kinh
tế học” của hai nhà kinh tế Mỹ Makkollhell và Bruy như sau: “Thuế là một khoản chuyển
giao bắt buộc bằng tiền (hoặc là chuyển giao bằng hàng hóa, dịch vụ) của các công ty và
các hộ gia đình cho Chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách
trực tiếp hàng hóa hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà tòa án
tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật” 2
Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze, trong cuốn “Tài chính công” đã đưa ra một định
nghĩa tương đối cổ điển nhất: “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác
định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho Nhà nước thông qua con
đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước 3.
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức phân phối
và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên góc độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ
chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo Luật định để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

Trên góc độ kinh tế học, thuế được xem xét như là một biện pháp đặc biệt, theo
đó, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư
sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội của Nhà nước.
1 Mác -Ăng ghen. TT. T2 -NXB Sự thật -Hà nội -2014. tr.522
2 Makkollhell and Bruy. “Economics”, -M. 1993. tr.14
3 Gaston Jeze. “Finances Publiques”, 1934


Ở nước ta đến nay cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Theo từ điển
tiếng Việt - Trung tâm từ điển học (1998), thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân
hoặc các tổ chức kinh doanh, tùy theo tài sản,thu nhập, nghề nghiệp... buộc phải nộp cho
Nhà nước theo mức qui định.
Mặc dù chưa đi tới một định nghĩa thống nhất về thuế, song nếu khái quát chung
để tìm các hạt nhân hợp lý của từng quan điểm, có thể rút ra một số đặc trưng chung của
thuế sau đây:
Thứ nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mối quan hệ tiền tệ
phát sinh giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân trong xã hội.
Thứ hai, những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách
quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt -việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo
mệnh lệnh của Nhà nước.
Thứ ba, xét theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được
pháp luật qui định theo mức thu và thời hạn nhất định nhằm sử dụng cho các mục đích
công cộng.
Thứ tư, thuế là khoản thu không có tính hoàn trả trực tiếp. Đặc trưng này liên quan
mật thiết đến mục đích công cộng của thuế. Chẳng hạn như các khoản thu thuế sẽ được
sử dụng vào các mục đích công cộng và an sinh xã hội, người nộp thuế trong phạm vi
quốc gia đó sẽ được sử dụng các công trình, hưởng lợi từ các dự án được thực hiện bằng
các khoản thu từ thuế.
Từ những nội dung trên, có thể đưa ra khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế
là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ

và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng và không có
tính hoàn trả trực tiếp.
1.2

Khái niệm về Thuế Giá trị gia tăng:

Thuế giá trị gia tăng (viết tắt là VAT của từ tiếng Anh Value Added Tax) là một
dạng của thuế tiêu thụ. Tại một số quốc gia, như Australia, Canada, New Zealand,
Singapore thì thuế này được gọi là "goods and services tax" (viết tắt GST) nghĩa là “Thuế
hàng hóa và dịch vụ”; còn tại Nhật Bản thì nó được biết đến dưới tên gọi "thuế tiêu thụ".
“Thuế tiêu thụ (sales tax) là hình thức của thuế gián thu, được tính vào giá bán của hàng
hóa và người mua hàng phải chịu. Thuế tiêu thụ bao gồm cả thuế giá trị gia tăng và thuế
tiêu thụ đặc biệt” 4 . Tromg khi thuế tiêu thụ đặc biệt quy định những đối tượng chịu thuế
nhất định, chỉ đánh trên các loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể như: thuốc lá, rượu, bia, du
thuyền...; dịch vụ casino, dịch vụ xổ số… 5 , Thuế Giá trị gia tăng lại quy định đối tượng
4 Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân
5 Quy định chi tiết tại Điều 2, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008


chiu thuế một cách khái quát “là các loại hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng ở Việt Nam” và chỉ ra cụ thể đối với các đối tượng không thuộc diện
chịu thuế theo quy định cuả Luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản pháp luật hướng dẫn
thi hành.
Trải qua quá trình áp dụng Luật thuế GTGT từ năm 1999 đến nay, người ta đã đưa
ra nhiều quan niệm về Thuế GTGT. Theo cách hiểu chung nhất, Thuế GTGT là thuế
đánh trên phần giá trị gia tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản
xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được thu ở khâu tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ.
Luật Thuế Giá trị gia tăng Việt Nam 2008 đưa ra định nghĩa như sau về Thuế GTGT
“Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh
trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.”

(Điều 2. Thuế giá trị gia tăng – Luật Thuế giá trị gia tăng 2008)
Như vậy, để hiểu được định nghĩa trên về Thuế GTGT, ta phải hiểu được các thành
tố quan trọng rút ra từ khái niệm đó: “giá trị của hàng hóa, dịch vụ”, “phát sinh trong quá
trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Và đặt ra câu hỏi: “Thế nào là giá trị tăng
thêm của hàng hóa, phát sinh từ quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng?”
Trước hết, giá trị của hàng hóa dịch vụ là lao động kết tinh trong hàng hóa, dịch vụ
từ khâu sản xuất, thương mại đến thời điểm tiêu dùng. Vậy giá trị hàng hóa được tạo ra ở
khâu nào? Xét ví dụ dưới đây:
10 đồng

8 đồng

Sản xuất 12 đồng

Thương mại 20 đồng

Tiêu dùng 30 đồng

Giá trị hàng hóa được tính theo công thức: GT = C + V + m = 12 + 8 + 10 = 30
Trong đó: C – là tư liệu sản xuất; V – là sức lao động; m – là giá trị thặng dư do chính
người lao động tạo ra. Như vậy, giá trị hàng hóa còn là giá mà người tiêu dùng cuối
cùng chấp nhận (30 đồng).
Giá trị tăng thêm của hàng hóa trong trường hợp này được tính qua các khâu,
trong đó tại khâu sản xuất giá trị hàng hóa tăng thêm là 12 đồng (từ giá trị bằng 0 nhờ có
nguyên vật liệu và quy trình sản xuất đã tăng lên 12 đồng), giá trị tăng thêm của hàng hóa
tại khâu thương mại là 8 đồng (từ 12 đồng lên 20 đồng) và tại khâu tiêu dùng là 10 đồng
(từ 20 đồng lên 30 đồng).
Như vậy, dưới góc độ kinh tế chính trị, sự tồn tại và phát triển của xã hội không
thể tách rời với quá trình tái sản xuất - thực chất là sự lặp đi, lặp lại của sản xuất. Quá



trình tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu quan hệ biện chứng, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn
nhau: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Để 4 khâu trên vận hành liên tục, đạt
được các mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử,
nhà nước cần phải thực hiện vai trò điều tiết trên cơ sở sử dụng những công cụ, trong đó
có thuế. Điều đáng chú ý là qua mỗi khâu của quá trình tái sản xuất, giá trị của hàng hóa,
dịch vụ có thể tăng thêm. Thuế giá trị gi tăng chính là loại thuế đánh trên phần giá trị tăng
thêm này và không quan tâm ai là người sử dụng các hàng hóa, dịch vụ đó. Dù là người
có thu nhập thấp hay thu nhập cao, một khi đã tiêu dùng mặt hàng, sử dụng loại dịch vụ
đó đều phải chịu một khoản Thuế GTGT đã được ấn định như nhau.
2.

Đặc điểm của Thuế giá trị gia tăng

Từ việc phân tích khái niệm về Thuế nói chung và Thuế GTGT nói riêng, phần
nào đã nêu được những đặc điểm cơ bản nhất của Thuế GTGT. Trong phần này, bài tiểu
luận hệ thống các đặc điểm chung được rút ra từ các quan niệm về Thuế và Thuế GTGT
đã nêu ở phần trên.
Một là, Luật thuế GTGT đánh vào các giai đoạn sản xuất kinh doanh nhưng chỉ
tính phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn. Vì thế, tổng số thuế thu được ở các giai
đoạn sẽ bằng số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Cho nên, thực
chất, thuế giá trị gia tăng là loại thuế duy nhất thu theo phân đoạn trong quá trình sản
xuất, lưu thông hàng hoá từ khâu đầu tiên đến người tiêu dùng, khi khép kín một chu kỳ
kinh tế. Vì thế Luật thuế GTGT tạo ra sự công bằng trong nộp thuế cho các doanh nghiệp,
tránh được tình trạng “thuế chồng thuế”.
Hai là, Người tiêu dùng cuối cùng phải chịu thuế. Luật Thuế GTGT quy định rõ,
chỉ có người bán hàng lần đầu phải nộp thuế GTGT trên toàn bộ doanh thu bán hàng.
Người bán hàng ở các khâu tiếp theo đối với hàng hoá đó, chỉ phải nộp thuế trên phần giá
trị tăng thêm. Như vậy về nguyên tắc chỉ cần thu thuế ở khâu bán hàng cuối cùng là đủ.
Tuy nhiên trên thực tế rất khó phân biệt đâu là tiêu dùng cuối cùng và đâu là tiêu dùng

trung gian vì thế cứ có hành vi mua hàng là phải tính thuế. Nếu là tiêu dùng trung gian thì
số thuế đó sẽ tự động chuyển vào giá bán hàng cho người mua giai đoạn sau.
Ba là, Thuế GTGT có tính trung lập kinh tế cao, không chịu ảnh hưởng của kết
quả kinh doanh. Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người


nộp thuế, không phải là yếu tố của chi phí mà chỉ đơn thuần là một khoản cộng thêm vào
giá bán cho người cung cấp hàng hoá dịch vụ.
Bốn là, Thuế GTGT là thuế gián thu. Thuế GTGT do người tiêu dùng cuối cùng
phải thanh toán nhưng không phải do người tiêu dùng trực tiếp nộp mà là do người bán
sản phẩm nộp thay vào kho bạc. Theo quy định, người mua hàng hoá, dịch vụ cuối cùng
phải thanh toán thuế GTGT được ghi trong hóa đơn giá bán hàng hoá. Người bán hàng
giúp nhà nước thu mức thuế này để nộp vào kho bạc.
Năm là, Luật Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia
các chu trình kinh tế. Như ta đã biết GTGT là phần giá trị mới, được tạo ra trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và
tiêu thụ với tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng, tổng GTGT ở tất cả các
giai đoạn luân chuyển có giá trị bằng giá bán của sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng, nên
việc thu thuế trên GTGT ở từng giai đoạn đảm bảo cho tổng số thuế thu được tương
đương với số thuế tính trên giá bán trong giai đoạn cuối cùng. Chính vì thế quá trình tổ
chức kinh tế và phân chia các chu trình kinh tế có diễn ra dài hay ngắn hay như thế nào đi
nữa thì thuế GTGT cũng không bị ảnh hưởng và tổng số thuế ở các giai đoạn luôn khớp
với số tính thuế trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít.
Sáu là, Thuế GTGT không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thuế GTGT được thu
nhằm mục đích công cộng, công dân của một quốc gia khi nộp thuế được hưởng các lợi
ích từ chính việc thu thuế của mình qua các dự án, công trình công cộng của nhà nước.
Bảy là, Thuế GTGT là loại thuế có đối tượng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trên
lãnh thổ Việt Nam. Nói cách khác thuế GTGT mang tính lãnh thổ. Chính vì vậy, những
mặt hàng xuất khẩu dù sản xuất tại Việt Nam nhưng được đem đi tiêu thụ ở ngoài lãnh
thổ Việt Nam thường không phải nộp thuế hoặc được hoàn lại.

Tám là, Thuế GTGT cũng mang tính chất như của thuế nói chung – tính bắt buộc.
Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các hình
thức động viên tài chính khác của ngân sách Nhà nước. Nhà kinh tế học nổi tiếng Joseph
E. Stiglitz cho rằng: “Thuế khác với đa số những khoản chuyển giao tiền từ người này


sang người kia: Trong khi tất cả những khoản chuyển giao đó là tự nguyện thì thuế lại là
bắt buộc”.6 Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành
động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện phạm
pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân. Từ
đặc trưng này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính khác của ngân
sách Nhà nước như phí, lệ phí, công trái, hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình thức phí, lệ
phí và công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Còn phạt tiền
cũng là hình thức bắt buộc, song nó chỉ xảy ra khi người bị phạt có hành vi vi phạm luật
lệ làm phương hại đến lợi ích Nhà nước hoặc cộng đồng.
Cuối cùng, Thuế GTGT có tính bắt buộc nhưng là bắt buộc một cách hợp pháp,
nói cách khác, Thuế GTGT có tính pháp lý. Đặc điểm này thể hiện thuế là một công cụ tài
chính có tính pháp lý cao. Điều này được quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà
nước. Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi
hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Vì vậy, để bắt buộc các
công dân “tự nguyện” nộp thuế thì Nhà nước phải sử dụng đến quyền lực của mình,
quyền lực ấy được thể hiện bằng luật pháp. Nhà kinh tế học Joseph E. Stiglitz nói rằng:
“Việc chuyển giao bắt buộc này giống như là ăn trộm, chỉ có một điểm khác chủ yếu là:
trong khi cả hai cách chuyển đều là không tự nguyện, thì cách chuyển qua Chính phủ có
mang tấm áo choàng hợp pháp và sự tôn trọng do các quá trình chính trị ban cho”. 7
Nhìn chung, Thuế GTGT mang các đặc điểm của Thuế nói chung, tuy nhiên vì
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu nên nó còn mang những tính chất “gián thu”. Và dù
như ở trên đã khẳng định Thuế GTGT có tính pháp lý cao, nhưng những quy định của
pháp luật cũng không thể tùy tiện áp đặt, thu nộp thuế dựa trên cái bóng “quyền lực nhà
nước” mà phải dựa trên cơ sở khoa học. Vì vậy, trong luật thuế thường xác định trước các

yếu tố có tính chất điều chỉnh hành vi nộp thuế như: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp
thuế, mức thuế suất phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác
– phạm vi bài tiểu luận xin được xác định đó là những nội dung cơ bản của Thuế GTGT
và đi sâu phân tích tại phần (3).
6 Joseph E. Stiglitz –Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, H., 1995, tr.456
7 Joseph E. Stiglitz –Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, H., 1995, tr.456.


1.

Những nội dung cơ bản của Thuế giá trị gia tăng:
3.1 Đối tượng chịu thuế - Đối tượng không chịu thuế:
3.1.1 Đối tượng chịu thuế:
Căn cứ Điều 3 Luật thuế GTGT 2008 được hướng dẫn bởi Điều 2 Đối tượng chịu

thuế tại Thông tư 219/2013/ TT-BTC, khái niệm về đối tượng chịu thuế được phát biểu
như sau:“Đối tượng chịu thuế GTGT được định nghĩa là hàng hóa dịch vụ được dùng
cho sản xuất và kinh doanh được tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hóa dịch vụ
mua của cá nhân, tổ chức ở nước ngoài), trừ các đối tượng không chịu thuế GTGT (được
quy định tại điều 4 của thông tư 219/2013/ TT-BTC).”
Qua đó, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản về đối tượng chịu thuế. Trước hết đó là
hàng hóa và dịch vụ, tức các “sự vật, sự việc". Đây là một đặc điểm quan trọng để phân
biệt hai thuật ngữ dễ gây nhầm là “đối tượng chịu thuế” và “người chịu thuế” hay “người
nộp thuế”. Mặt khác, đó phải là những hàng hóa, dịch vụ được tiêu thụ trên chính lãnh
thổ Việt Nam. Thuế GTGT mang tính chất lãnh thổ, tính chất này dẫn đến trường hợp
hoàn thuế khi xuất khẩu hàng hóa sang nước ngoài hoặc mua hàng tại Việt Nam nhưng
đem đi tiêu thụ tại nước ngoài và hàng hóa nhập khẩu – sản xuất tại nước ngoài nhưng
tiêu thụ tại Việt Nam, dù hàng hóa không được tạo ra tại Việt Nam nhưng tiêu thụ tại Việt
Nam nên vẫn là đối tượng chịu Thuế GTGT.
Như vậy, hầu hết hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho sản xuất và kinh doanh để tiêu

dùng trên lãnh thổ Việt Nam đều là đối tượng chịu Thuế GTGT. Tuy nhiên, không phải
mọi trường hợp đều phải chịu thuế, mà có các ngoại lệ sẽ được phân tích dưới đây.
3.1.2 Đối tượng không chịu thuế:
Các căn cứ pháp lý: Điều 5, Luật Thuế GTGT 2008, quy định về các đối tượng
không chịu thuế; Thông tư 219/2013/TT-BTC; Thông tư 26/2015/TT-BTC. Từ các căn cứ
trên, bài tiểu luận nhóm 31 đối tượng không chịu thuế thành bảy nhóm chính:
(1) Sản phẩm nông nghiệp:
-

Sản phẩm trồng trọt: với điều kiện các sản phẩm này chưa chế biến hoặc
chỉ qua sơ chế;


-

Giống cây trồng và vật nuôi: với điều kiện là người tiêu dùng là các cơ sở
nuôi trồng, nhập khẩu và kinh doanh thương mại có giấy đăng kí kinh
doanh giống vật nuôi, cây trồng do CQNN cấp;

-

Dịch vụ nông nghiệp: với điều kiện là tất cả các dịch vụ “nội đồng” bên
trong cánh đồng;

-

Phân bón: các loại phân bón

-


Thức ăn gia súc bao gồm đã qua chế biến hoặc chưa qua chế biến, các
chất phụ gia thức ăn chăn nuôi;

-

Tàu đánh bắt xa bờ: tàu bắt xa bờ công suất từ 90VC trở lên và các dịch
vụ hậu cần, máy, thiết bị phục vụ cho tàu này;

-

Máy móc, thiết bị dùng cho nông nghiệp: máy chuyên dùng phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp; VD: Bình thuốc trừ sâu là đối tượng không chịu
thuế, tuy nhiên thuốc trừ sâu là đối tượng chịu thuế.
(2) Sản phẩm thiết yếu:

-

Sản phẩm muối được sản xuất từ nước biển, muối mỏ tự nhiên, muối tinh,
muối i-ốt có thành phần chính là NACL

-

Nhà ở thuộc sở hữu nhà nước do nhà nước bán cho người đang thuê

-

Chuyển quyền sử dụng đất (lưu ý không bao gồm việc chuyển nhượng cả
tài sản gắn liền trên đất, nhóm này là đối tượng chịu Thuế GTGT)
(3) Dịch vụ tài chính và bảo hiểm: Dịch vụ cấp tín dụng (cho vay, bảo
lãnh ngân hàng, bán tài sản bảo đảm tiền vay...); Hoạt động cho vay riêng

lẻ, không phải hoạt động kinh doanh, cung ứng thường xuyên của người
nộp thuế không phải là tổ chức tín dụng; Kinh doanh chứng khoán;
Chuyển nhượng vốn.


(4) Dịch vụ an sinh xã hội: Dịch vụ y tế, thú ý; Công trình văn hóa, nghệ
thuật; Dạy học, dạy nghề; Xuất bản, nhập khẩu phát hành báo chí, sách
giáo khoa; Hàng viện trợ không hoàn lại; Sản phẩm nhân tạo; Hộ kinh
doanh; Hàng hóa, dịch vụ.
(5) Dịch vụ công ích: Dịch vụ viễn thông, vườn thú, hoa; Phát sóng truyền
hình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước; Vận chuyển công cộng;
(6) An ninh quốc phòng: vụ khí khí tài, vàng nhập khẩu chưa được chế
tác; tài nguyên khoáng sản;
(7) Nhóm đối tượng khác: Hàng hóa nhập khẩu trong nước chưa sản xuất
được để nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Hàng hóa chuyển
khẩu, quá cảnh qua Việt Nam;
Như vậy, nhìn chung việc quy định các loại hàng hóa dịch vụ nào thuộc nhóm các
đối tượng không chịu Thuế GTGT đều dựa trên tinh thần các chính sách khuyến khích,
động viên phát triển kinh tế, quốc tế, an sinh xã hội, chính trị quốc gia, phù hợp với thông
lệ quốc tế (trường hợp các khoản viện trợ không hoàn lại) đảm bảo đời sống cho nhân
dân.
3.1.3

Phân biệt đối tượng không chịu thuế, đối tượng không kê khai tính nộp thuế, đối tượng
chịu thuế suất 0% và đối tượng được miễn thuế:

Đối tượng chịu thuế
(1 )Đầu ra phải nộp
(2) Đầu vào được khấu
trừ


Không kê khai tính nộp thuế
GTGT: Đầu ra không phải nộp
và đầu vào được khấu trừ
toàn bộ

Đối tượng không chịu thuế:
(1) Đầu ra không phải nộp
(2)Đầu vào không được
khấu trừ

Hình minh họa mối quan hệ giữa Đối tượng không kê khai tính nộp Thuế GTGT với Đối
tượng chịu Thuế GTGT và Đối tượng không chịu Thuế GTGT


Đối tượng không kê khai tính nộp thuế là “con lai” của hai nhóm đối tượng chịu
thuế và đối tượng không chịu thuế và mang đặc điểm “có lợi” hơn cho người nộp thuế
của hai nhóm này. Những hàng hóa, dịch vụ thuộc nhóm đối tượng không kê khai không
nộp Thuế GTGT, vừa không phải nộp Thuế GTGT đầu ra, vừa được khấu trừ toàn bộ
Thuế GTGT đầu vào, gồm những đối tượng sau theo quy định tại Thông tư
219/2013/TT-BTC và Thông tư 193/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư
219/2013/TT-BTC:
(1) Nhận các khoản thu bồi thường bằng tiền (không cần xuất hóa đơn khi nhận

các khoản này mà chỉ cần ghi nhận phiếu thu và chi)
(2) Mua dịch vụ của tổ chức nước ngoài;
(3) Tổ chức, cá nhân không kinh doanh, không phải là người nộp Thuế GTGT bán

tài sản; (vì họ đã thực hiện hết các nghĩa vụ Thuế GTGT trong quá trình hình
thành tài sản)

(4) Tổ chức, cá nhân chuyển nhượng dự án đầu tư để sản xuất, kinh doanh hàng

hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT cho doanh nghiệp, hợp tác xã;
(5) Sản phẩm nông nghiệp ở khâu thương mại: Công ty, tổ chức bán mặt hàng

trồng trọt, chăn nuôi thủy sản cho cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp, HTX
theo phương phác khấu trừ;
(6) Điều chuyển tài sản giữa các đơn vị hạch toán phụ thuộc trong doanh nghiệp;

(do khi điều chuyển không tạo ra giá trị tăng thêm);
(7) Các đối tượng khác: như góp vốn bằng tài sản để thành lập doanh nghiệp; Thu

đòi người thứ 3 của hoạt động bảo hiểm; Khoản thù lao từ cơ quan Nhà nước
do thực hiện hoạt động thu hộ, chi hộ các cơ quan Nhà nước …
Đối tượng không kê khai tính nộp thuế hưởng ưu đãi hơn so với Đối tượng không
chịu thuế vì được khấu trừ toàn bộ Thuế GTGT đầu vào trong khi Đối tượng không chịu
thuế vẫn phải chịu Thuế GTGT đầu vào (chỉ trừ một số trường hợp được quy định tại


điểm a, b khoản 7 Điều 14 TT 219/2013/TT-BTC), Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng
hóa, dịch vụ không chịu thuế được tính vào chi phí hợp lý được trừ của doanh nghiệp
(tính vào nguyên giá tài sản cố định, giá trị nguyên vật liệu hoặc chi phí kinh doanh).
Ngoài ra, hai nhóm đối tượng này còn dễ gây nhầm lẫn với đối tượng có mức thuế
suất 0%. Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai nhóm này với đối tượng chịu thuế suất 0% là
việc kê khai thuế và xuất hóa đơn, bản chất thuế 0% là mức thuế ưu đãi, cho phép khấu
trừ toàn bộ Thuế GTGT đầu vào và đầu ra vì mức thuế suất 0% nên không phải trả thêm
một khoản Thuế GTGT, tuy nhiên, cá nhân/doanh nghiệp vẫn phải kê khai thể hiện mức
thuế suất và Thuế GTGT là 0% trên hóa đơn.

Đối tượng không

chịu thuế

Đối tượng
không kê khai
tính nộp thuế

Đối tượng chịu
thuế suất 0%

Đối tượng được miễn thuế

Đầu ra không phải Miễn thuế là trường hợp vẫn
nộp thuế
phải chịu thuế, tuy nhiên vì lý
do khách quan nào đó sẽ được
miễn giảm một phần theo quy
Đầu ra không phải nộp thuế, dẫn đến
Phải kê khai: Trên
việc người mua không có Thuế GTGT hóa đơn, dòng thuế định của pháp luật 8 (Chỉ là ưu
đầu vào được khấu trừ;
suất và Thuế GTGT đãi trong một thời gian)
đều ghi 0%
Phải kê khai
Trên hóa đơn, dòng thuế suất và Thuế
GTGT đều không ghi và gạch bỏ.
Thuộc diện đối
tượng chịu thuế với Thường được áp dụng trong
mức thuế suất bằng trường hợp hàng hóa hư hỏng,
0
giám sát hải quan có chứng

nhận của cơ quan hải quan,
hàng hóa xuất nhập khẩu,
Không được khấu
thực hiện khuyến khích kinh
trừ Thuế GTGT đầu
Được khấu trừ toàn bộ Thuế GTGT
tế, khuyến khích đầu tư.
vào, trừ các trường
đầu vào
hợp ngoại lệ
Sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng không chịu thuế, đối tượng không kê khai tính nộp thuế
và đối tượng chịu thuế suất 0%

Ba nhóm đối tượng trên cũng có những khác biệt cơ bản đối với nhóm các đối tượng
được miễn Thuế GTGT, miễn Thuế GTGT là trường hợp thuộc diện các đối tượng chịu
8 Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân


thuế tuy nhiên được miễn giảm một phần/toàn bộ Thuế GTGT trong một khoảng thời
gian nhất định khi các loại hàng hóa, dịch vụ đó đáp ứng những điều kiện mà nhà nước
đưa ra để hỗ trợ, khuyến khích đầu tư tại các vùng khó khăn, trọng điểm hoặc phù hợp
với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, đặc biệt là trường hợp của hàng hóa xuất
nhập khẩu 9.
3.2 Các trường hợp hoàn thuế và khấu trừ thuế giá trị gia tăng:
a.

Hoàn thuế giá trị gia tăng:
Hoàn thuế tiếng anh là “Tax Refund” – tạm dịch là “hoàn trả lại thuế”. Hoàn thuế

GTGT là việc cơ quan thuế “hoàn trả lại” số tiền thuế đã nộp cho các doanh nghiệp, tổ

chức, cá nhân.
Những quy định về các trường hợp được hoàn Thuế GTGT, điều kiện, hồ sơ, thủ
tục hoàn Thuế GTGT được quy định trong các văn bản:
-

Các trường hợp hoàn Thuế GTGT quy định tại Điều 13 Luật Thuế giá trị
gia tăng 2008 (sửa đổi bổ sung tại Điều 18, Thông tư 219/2013/TT-BTC
và Khoản 3, điều 1 Thông tư 130/2016/TT-BTC);

-

Điều kiện hoàn Thuế GTGT: Điều 19, Thông tư 219/2013/TT-BTC;

-

Thủ tục hoàn Thuế GTGT quy định tại Thông tư 156/2013/TT-BTC;

-

Hồ sơ hoàn thuế GTGT tại Điều 10 Thông tư 99/2016/TT-BTC trong đó
đối với các trường hợp khác nhau có quy định riêng tại Thông tư
156/2013/TT-BTC;

Trong phạm vi bài tiểu luận, nhóm phân tích hai yếu tố cơ bản hơn của vấn đề
hoàn Thuế GTGT là các trường hợp hoàn thuế và điều kiện để hoàn thuế. Đối với các
trường hợp hoàn thuế GTGT, có 8 trường hợp thuộc diện các trường hợp được hoàn thuế
như: Dự án sử dụng vốn ODA, viện trợ không hoàn lại hoặc viện trợ nhân đạo 10, Đối
9 Luật Thuế Xuất khẩu, Nhập khẩu 2016
10 Khoản 6, Điều 18, Thông tư 219/2013/TT-BTC



tượng được hưởng quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao theo quy định của pháp luật mua
hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam11; Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài mang hộ chiếu hoặc giấy tờ nhập cảnh do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp
được hoàn thuế đối với hàng hoá mua tại Việt Nam mang theo người khi xuất cảnh 12…
Thứ nhất, về điều kiện được hoàn thuế được quy định tại Điều 19 Thông tư 219/2013/TTBTC, doanh nghiệp muốn xin hoàn thuế, phải thỏa mãn các điều kiện:
-

Là cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ;

-

Đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy phép đầu tư(giấy
phép hành nghề) hoặc quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền;

-

Có con dấu theo đúng quy định của pháp luật;

-

Lập và lưu giữ sổ kế toán, chứng từ kế toán theo quy định của pháp luật về kế
toán;

-

Có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng theo mã số thuế của cơ sở kinh doanh.
Thứ hai, khấu trừ là hình thức “ưu tiên”. Trường hợp hoàn thuế GTGT đối với cơ

sở kinh doanh được dựa trên kết quả tính số thuế GTGT phải nộp theo Phương pháp khấu

trừ:
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra phát sinh – Thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ
Nếu kết quả mang giá trị dương, có nghĩa Thuế GTGT đầu ra lớn hơn Thuế GTGT đầu
vào được khấu trừ trong kì, cơ sở kinh doanh sẽ có số Thuế GTGT phải nộp trong kì.

11 Khoản 7, Điều 18, Thông tư 219/2013/TT-BTC
12 Khoản 8, Điều 18, Thông tư 219/2013/TT-BTC


Ngược lại khi kết quả mang giá trị âm, nghĩa là Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn
hơn Thuế GTGT đầu ra phát sinh thì phần chênh lệch này được phép chuyển sang kỳ sau
khấu trừ tiếp hoặc được hoàn nếu thoả mãn điều kiện. Chẳng hạn, pháp luật hiện hành
quy định trường hợp hoàn thuế GTGT đối với HHDV xuất khẩu chưa được khấu trừ thuế
GTGT đầu vào từ 300 triệu trở lên thì được hoàn thuế theo tháng, quý hoặc trường hợp
hoàn Thuế GTGT đối với dự án đầu tư khi đáp ứng điều kiện theo luật định.
Thứ ba, hoàn Thuế GTGT cho DN mới thành lập từ dự án đầu tư 13.
Thứ tư, hoàn Thuế GTGT cho doanh nghiệp đang hoạt động có dự án đầu tư mới
14

, trong đó, dự án đầu tư sẽ không được hoàn thuế GTGT mà chỉ được khấu trừ sang kì

tiếp theo khi có các điều kiện luật định15.
Thứ năm, “Ưu tiên” hoàn thuế GTGT cho hoạt động xuất khẩu. Cơ sở kinh doanh
không cần phải là doanh nghiệp mới thành lập từ dự án đầu tư… cũng được xem xét hoàn
thuế GTGT đầu vào16.
Thứ sáu, Phải tách biệt giữa hoạt động xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Nguyên tắc
này yêu cầu nếu trong kỳ kê khai, cơ sở kinh doanh vừa có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu
& hàng hoá, dịch vụ bán trong nước thì doanh nghiệp phải hạch toán riêng số thuế GTGT
đầu vào sử dụng cho sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu 17.

b. Khấu trừ thuế giá trị gia tăng:

Quy định về khấu trừ thuế giá trị gia tăng tại: Thông tư 219/2013/TT-BTC; Thông
tư 151/2014/TT-BTC; Thông tư 119/2014/TT-BTC; Thông tư 26/2015/TT-BTC; Thông tư
173/2016/TT-BTC.
13 Khoản 2, điều 18, Thông tư 219/2013/TT-BTC
14 Khoản 3, điều 18, Thông tư 219/2013/TT-BTC (sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 điều 1 Thông tư 130/2016/TT-BTC)
15 Các điều kiện quy định tại điểm c khoản 3, điều 18, Thông tư 219/2013/TT-BTC (sửa đổi, bổ sung tại khoản 3
điều 1 Thông tư 130/2016/TT-BTC)
16 Khoản 4, điều 18, Thông tư 219/2013/TT-BTC ((sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 điều 1 Thông tư 130/2016/TT-BTC)
17 Khoản 4, điều 18, Thông tư 219/2013/TT-BTC ((sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 điều 1 Thông tư 130/2016/TT-BTC).
Đây là điểm khác biệt từ khi thông tu 130/2016/TT-BTC có hiệu lực


Đối với quy định về khấu trừ thuế GTGT, sự phù hợp giữa thuế GTGT đầu ra
và thuế GTGT đầu vào được coi là một nguyên tắc nền tảng nhất. Cơ sở kinh doanh
sẽ được khấu trừ toàn bộ Thuế GTGT đầu vào của HHDV dùng cho sản xuất, kinh doanh
HHDV nếu HHDV đó thuộc đối tượng chịu thuế GTGT đầu ra, nói cách khác, thuế
GTGT đầu vào của HHDV dùng cho sản xuất, kinh doanh HHDV không phải chịu Thuế
GTGT đầu ra, sẽ không được khấu trừ. Trong trường hợp khó để có thể tách riêng được
HHDV nào chịu/không chịu thuế GTGT đầu ra (khi những HHDV được dùng chung để
sản xuất kinh doanh cả HHDV chịu/không chịu Thuế GTGT đầu ra) để tính số thuế được
khấu trừ, một phương pháp được áp dụng phổ biến là sử dụng tỷ lệ về mặt doanh số để
phân bổ, về mặt thủ tục và quản lý kê khai hàng tháng, ta có tỷ lệ phân bổ GTGT đầu vào
tương ứng được tính như sau:
Tỷ lệ phân bổ
Thuế GTGT
đầu vào được khấu trừ

Doanh thu bán ra của HHDV

chịu Thuế GTGT
=

x
Tổng doanh thu

Tiền Thuế
GTGT dùng
chung

Phương pháp này có thể áp dụng tạm thời phân bổ theo doanh thu hàng tháng/quý để
tổng kết thực hiện kê khai theo doanh thu cả năm.
Ngoài ra, còn có các quy định về các trường hợp được khấu trừ Thuế GTGT đối
với các cơ sở sản xuất kinh doanh có dự án đầu tư thực hiện đầu tư theo nhiều giai đoạn;
Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh tổ chức sản xuất khép kín, hạch toán tập trung có sử
dụng sản phẩm thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT qua các khâu để sản xuất ra mặt
hàng chịu thuế GTGT… đều được khấu trừ toàn bộ thuế GTGT đầu vào 18.
Về điều kiện để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, đó là:
+ Thứ nhất: Có hóa đơn, chứng từ hợp lý, hợp lệ, hợp pháp; Đối với hàng hóa
nhập khẩu thì cần phải có chứng từ nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước (Trừ nhập khẩu
hàng hóa, biếu tặng);

18 Các trường hợp khấu trừ thuế GTGT khác được quy định tại Điều 14 Thông tư 219/2103/TT-BTC (đã được cập
nhật theo Điều 1 Thông tư 26/2015/TT-BTC, Điều 9 Thông tư 151/2014/TT-BTC; Điều 3 Thông tư 119/2014/TT-BTC)


+ Thứ hai: Đối với giá trị hàng hóa (mua theo từng lần hoặc trong ngày mua nhiều
lần của cùng 1 nhà cung cấp) nếu > 20.000.000 đồng thì phải thanh toán không dùng tiền
mặt.
Như vậy, có thể thấy điểm khác biệt cơ bản giữa hai trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng

và khấu trừ thuế giá trị gia tăng, sự khác biệt này dẫn đến việc thủ tục kê khai, hồ sơ, quy
trình thực hiện cũng khác nhau, như sau:

Hoàn thuế giá trị gia tăng
Điểm chung

Khác biệt

Khấu trừ thuế giá trị gia tăng

Đều nhận lại được số thuế GTGT đầu vào đã nộp
Cơ sở kinh doanh nhận tiền thuế
GTGT được hoàn từ
cơ quan thuế.

Cơ sở kinh doanh nhận lại tiền
thuế GTGT được hoàn thông qua
việc bù trừ vào số thuế GTGT
đầu ra phải nộp.

3.3 Căn cứ - Phương pháp tính thuế:
3.3.1 Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng:
Căn cứ tính thuế GTGT được xác định dựa trên giá tính thuế và thuế suất thuế
GTGT.
Giá tính thuế GTGT, về lý thuyết có hai cách xác định: Thứ nhất, giá tính thuế là
giá đã bao gồm thuế GTGT, có nghĩa là thuế được tính trên giá bán đã bao gồm thuế; Thứ
hai, giá tính thuế là giá chưa bao gồm thuế GTGT. Cách tính này làm cho bên mua và bên
bán thấy rõ ràng hơn là giá chưa có thuế và thuế GTGT.
Giá tính thuế GTGT được xác định tùy thuộc vào loại hàng hóa và dịch vụ. Cụ thể
là: Đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT; Đối với hàng hoá nhập khẩu

là giá tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu; Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi,
sử dụng nội bộ, biếu tặng là giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc
tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này; Đối với hoạt động cho thuê tài
sản là số tiền thuế thu từng kỳ; Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là giá bán


của hàng hóa tính theo giá bán trả 1 lần không tính theo số tiền trả từng kỳ; Đối với gia
công hàng hoá là giá gia công; Đối với hàng hoá, dịch vụ khác là giá do chính phủ quy
định.
Thuế suất là đại lượng xác định mức độ, phạm vi, nghĩa vụ nộp thuế trên một đơn
vị của đối tượng chịu thuế. Hay nói cách khác, thuế suất là định mức thu thuế trên một
đơn vị của đối tượng chịu thuế. Thuế suất biểu hiện chính sách điều chỉnh kinh tế xã hội
của Nhà nước, tức là thể hiện quan điểm động viên của Nhà nước với từng hoạt động sản
xuất kinh doanh. Thuế suất thuế GTGT là loại thuế suất theo giá trị tức là thuế suất quy
định tỷ lệ % huy động trên một đơn vị giá trị đối tượng nộp thuế.
Mức thuế suất thuế GTGT theo Luật thuế GTGT hiện hành là ba mức: 0%, 5% và 10%.
Đối tượng chịu thuế

Thuế suất 0%
Căn cứ: Điều 8
VB số 01/2016:
VBHN-VPQH
Điều 9 Thông tư
219/2013/TTBTC (sửa đổi,
bổ sung bởi
Thông tư
26/2015/TTBTC)

HHDV xuất khẩu, vận tải quốc tế và
hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế

giá trị gia tăng quy định tại Điều 5
của Luật Thuế GTGT khi xuất khẩu,
trừ các trường hợp sau đây:
+Chuyển giao công nghệ, chuyển
nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước
ngoài;
+Dịch vụ tái bảo hiểm ra nước
ngoài;
+Dịch vụ cấp tín dụng;
+Chuyển nhượng vốn;
+Dịch vụ tài chính phái sinh;
+Dịch vụ bưu chính, viễn thông;
+ Sản phẩm xuất khẩu là tài
nguyên, khoáng sản khai thác chưa
chế biến thành sản phẩm khác...

Ý nghĩa
+Khuyến khích hoạt động xuất
khẩu do được hoàn thuế: Các cơ sở
kinh doanh khi thực hiện hành vi
xuất khẩu hàng hóa dịch vụ sẽ được
hưởng mức thuế suất 0%. Theo
công thức tính thuế GTGT đầu ra
thì : Thuế GTGT đầu ra = giá xuất
khẩu x 0% = 0 đồng.
+ Kiểm soát hoạt động xuất khẩu
nói chung và số lượng, chất lượng
hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nói
riêng.
+ Hạ giá thành hàng hóa, dịch vụ,

giúp hàng hóa Việt Nam dễ cạnh
tranh trên thị trường nước ngoài;
+Đồng thời thực hiện đúng tinh
thần gỡ bỏ các hàng rào thuế quan
theo các Hiệp định thươn mại quốc
tế


Thuế suất 5%
Căn cứ: Điều 8
VB số 01/2016:
VBHN-VPQH
Điều 10 Thông
tư 219/2013/TTBTC (sửa đổi bổ
sung tại Điều 1
Thông tư
26/2015/TTBTC

Thuế suất 10%

+Các mặt hàng thiết yếu phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày
Các loại hàng hóa như: nước sạch của người dân;
phục vụ sản xuất và sinh hoạt, +Đảm bảo an sinh xã hội.
đường, thực phẩm tươi sống không
qua chế biến, lương thực, lâm sản,
sản phẩm thủ công tận dụng từ
nguyên liệu nông nghiệp; các ấn
phẩm giáo dục; thiết bị, dụng cụ y
tế, dược liệu là nguyên liệu sản xuất

thuốc; đồ chơi trẻ em; hoạt động văn
hóa nghệ thuật...

Áp dụng với HHDV chịu thuế
GTGT và các TH không áp dụng áp
mức 0% và 5%. Trong đó nhóm thuế
suất ưu đãi giao động từ 5%- 7%.

Hầu hết các HHDV chịu thuế suất
10% là những mặt hàng bổ sung,
không thiết yếu đối với cuộc sống,
ví dụ: nước giải khát, dịch vụ ăn
uống, sản phẩm may mặc, thêu ren,
giày, sữa, bánh kẹo, sản phẩm gốm
sứ, thuỷ tinh, dịch vụ tư vấn pháp
luật...

Ngoài ba mức thuế suất trên, đặc biệt những HHDV bị áp dụng mức thuế suất
trên10%, là những đối tượng chịu Thuế tiêu thụ đặc biệt (một dạng của Thuế tiêu thụ nói
chung đã nhắc đến ở phần khái niệm). Chẳng hạn mức thuế suất 20% áp dụng đối với
một số sản phẩm kinh doanh thu lãi cao cần phải điều tiết, gồm: vàng, bạc, đá quý... Mức
thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cao nhất hiện nay là 75% đối với thuốc lá, xì gà và các sản
phẩm từ cây thuốc lá. Các loại hình dịch vụ vuc trường, casino... chịu mức thuế suất từ
30-40%. Có thể thấy đó đều là những HHDV bị hạn chế tiêu thụ hoặc các loại hình xa xỉ.
Với mục tiêu khi ban hành là Luật thuế GTGT là mức động viên vào ngân sách
Nhà nước tương đương với mức động viên của thuế doanh thu. Do vậy thuế suất GTGT
được thiết kế vừa phải, để các doanh nghiệp không phải nộp thuế nặng hơn so với thuế
doanh thu. Xu hướng chung ở các nước trên thế giới có áp dụng thuế GTGT là không quy
định nhiều thuế suất, thậm chí có nhiều nước chỉ quy định một mức thuế suất GTGT cho
tất cả hàng hóa và dịch vụ (như Ðan Mạch (22 %), Nhật Bản, Singapore (3%), Italia

(38%). Tuy nhiên cách quy định này gây khó khăn cho Nhà nước trong việc phân khúc
các loại HHDV.


3.3.2 Phương pháp tính thuế:
Theo Pháp luật hiện hàng, có hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng: Phương
pháp khấu trừ thuế và Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.
a. Phương pháp khấu trừ thuế:

Số thuế phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của HHDV bán ra

x

Thuế suất (trong đó, giá tính

thuế và thuế suất đã được giải thích cụ thể thông qua ví dụ ở mục 3.2.1).
Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hoá đơn
GTGT mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu.
b.

Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng:

Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của HHDV x Thuế suất thuế GTGT
Giá trị gia tăng của HHDV bằng giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra trừ giá thanh
toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào.
Phương pháp tính trực tiếp này chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc,
đá quý quy định cụ thể tại khoản 1, điều 13, TT 219/2013/TT-BTC
-


Số thuế GTGT phải nộp = Tỷ lệ %

x Doanh thu

Đối với trường hợp này, pháp luật đưa ra các đối tượng áp dụng cụ thể 19 và tỷ lệ phần
trăm nhất định trên doanh thu theo các ngành nghề20.
Để hiểu rõ hơn về phương pháp tính thuế GTGT khấu trừ và trực tiếp trên giá trị tăng
thêm, bài tiểu luận xin được phân tích thông qua ví dụ tại phần tiếp sau (Người nộp thuế người chịu thuế).
19 Quy định tại khoản 2, điều 13 TT 219/2013/TT-BTC
20 Quy định chi tiết tại Danh mục ngành nghề tính thuế GTGT theo tỷ lệ % trên doanh thu được ban hành kèm theo
TT 219/2013/TT-BTC


×