Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Bai thu hoạch Giảng viên chính Văn hóa chất lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.5 KB, 27 trang )

LỚP BỒI DƯỠNG THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH
NGHỀ NGHIỆP GIẢNG VIÊN/GIÁO VIÊN, HẠNG II

BÀI THU HOẠCH CUỐI KHÓA

TÊN ĐỀ TÀI: Tầm quan trọng của văn hóa đối với chất lượng giáo dục? Đề
xuất các giải pháp đảm bảo văn hóa chất lượng ở trường đại học

1


Huế, ngày 09 tháng 06 năm 2020

MỞ ĐẦU
Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng, nó là nhân tố quan trọng tạo nên
sức mạnh và bản sắc của dân tộc đó. Tổ chức cũng vậy, nó cũng có một
truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa mà ta tạm gọi là văn hóa tổ chức.
Văn hóa tổ chức là một yếu tố rất quan trọng mà nhà quản lý cần xây dựng
và duy trì nhằm tạo động lực đưa đơn vị phát triển nhanh và bền vững. Nhìn
một cách tổng thể, văn hóa tổ chức bao gồm những giá trị và chuẩn mực
chung được biểu hiện thành những nguyên tắc sống, những nguyên tắc ứng
xử có tác dụng chỉ dẫn hành vi của cá nhân trong tổ chức đó. Đối với trường
học, văn hóa tổ chức có thể được gọi là văn hóa học đường. Vậy văn hoá
học đường là gì? Có thể hiểu đó là những quan niệm, chuẩn mực quy định
cách xử sự giao tiếp giữa người học với nhau, giữa trò với thầy và ngược lại;
là cách học và tiếp thu kiến thức. Văn hoá còn được thể hiện qua triết lí giáo
dục của nhà trường, qua hành vi giao tiếp, cách ăn mặc, cách ứng xử với
cảnh quan môi trường...
Khi văn hoá đã trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của
đời sống xã hội, vấn đề xây dựng môi trường văn hoá nói chung và môi
trường văn hóa trong các nhà trường nói riêng là việc làm vô cùng quan


trọng và bức thiết. Và hơn bất cứ tổ chức nào hết trong xã hội, nhà trường
phải là tổ chức có “hàm lượng” văn hoá cao nhất; là nơi hội tụ, kết tinh văn
hoá để đào tạo ra những chuẩn mực văn hoá cho xã hội. Vì vậy, xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực trong các cơ sở giáo dục nói chung
và cơ sở giáo dục đại học nói riêng là sứ mệnh, mục tiêu định hướng của
mỗi nhà trường, là trách nhiệm, quyền lợi của mỗi cá nhân, tổ chức trong
nhà trường, là yêu cầu của xã hội. Việc xây dựng văn hóa nhà trường lành

2


mạnh, tích cực cần phải có những bước đi và những biện pháp phù hợp mới
có thể kế thừa, gìn giữ và phát triển những giá trị văn hóa tích cực phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của nhà trường, đồng thời loại bỏ được những giá
trị tiêu cực, không phù hợp hoặc cản trở sự phát triển của nhà trường.
Trong vấn đề văn hóa trường học nói chung thì xây dựng và phát triển
văn hóa chất lượng đang là mối quan tâm lớn của giáo dục đại học Việt Nam
bởi đây là một trong các yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững của
mỗi nhà trường cũng như của cả hệ thống. Do đó, văn hóa đối với chất
lượng giáo dục cũng như các giải pháp đảm bảo văn hóa chất lượng ở trường
đại học là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với cả trường đại học và cá
nhân mỗi cán bộ, giảng viên và sinh viên của trường đại học đó.
Vì vậy, trong bài thu hoạch này tôi sẽ trình bày đề tài số 14 về vấn đề:
“Tầm quan trọng của văn hóa đối với chất lượng giáo dục? Đề xuất các
giải pháp đảm bảo văn hóa chất lượng ở trường đại học”.
Bài thu hoạch với đề tài này không chỉ nhằm đạt mục tiêu làm rõ tầm
quan trọng của văn hóa đối với chất lượng giáo dục mà còn mang một ý
nghĩa thiết thực đóng vai trò định hướng trong mọi hoạt động của bản thân
là một giảng viên, một cán bộ quản lý khoa chuyên môn trong trường đại
học, Khoa Cơ khí và Công nghệ, Trường đại học Nông Lâm, Đại học Huế.

Bài thu hoạch có các nội dung chính như sau:
Phần 1. Tổng quan về văn hóa đối với chất lượng giáo dục
Phần 2. Tầm quan trọng của văn hóa đối với chất lượng giáo dục ở Việt Nam
Phần 3. Đề xuất các giải pháp đảm bảo văn hóa chất lượng ở trường đại học

3


Phần 1
TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA ĐỐI VỚI CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
1.1. VĂN HÓA TRƯỜNG HỌC
1.1.1. Khái niệm về văn hóa
Muốn nghiên cứu về văn hóa đối với chất lượng trong giáo dục và vai
trò của văn hóa chất lượng đối với sự phát triển của xã hội nói chung và nhà
trường nói riêng, trước tiên phải có một khái niệm chính xác và nhất quán về
văn hóa, văn hóa chất lượng cũng như cấu trúc của nó.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Năm 1952, Alfred Kroeber
và Clyde Kluckhohn (Mỹ), đã tìm thấy không dưới 164 định nghĩa về văn
hóa. Sự khác nhau của chúng không chỉ là ở bản chất của định nghĩa đưa ra
(bởi nội dung, chức năng, các thuộc tính) mà cả ở cách sử dụng rộng rãi của
từ này. Nghĩa gốc của văn hóa là cái đẹp. Theo cách nhìn phương Đông, hình
thức đẹp đẽ biểu hiện trước hết là trong lễ, nhạc, cách lãnh đạo, quản lý,…
đặc biệt trong ngôn ngữ, cách ứng xử lịch sự. Nó biểu hiện thành một hệ
thống các chuẩn mức, giá trị ứng xử được mọi người chấp nhận và xem là đẹp
đẽ [1]. Định nghĩa Văn hóa của UNESCO: “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là
một phức thể, tổng thể các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức,
tình cảm khắc họa lên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, xã hội,
…”. Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả những lối
sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những
truyền thống tín ngưỡng.

Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp: Văn hóa là một tổng thể những hệ thống
biểu trưng (kí hiệu) chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một cộng đồng
khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng… Văn hóa bao gồm hệ thống những giá

4


trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, có đạo đức hay vô
đạo đức, phải hay trái, đúng hay sai v.v. . .) theo cộng đồng ấy.
Dưới góc độ xã hội học thì văn hóa là một hiện tượng xã hội gắn với
đời sống XH, còn nội dung của văn hóa chính là sản phẩm của hoạt động thực
tiễn có tính sáng tạo của con người, luôn được chắt lọc kế thừa, phát triển
dưới tác động củacon người, vì hạnh phúc của con người.
Theo những ý nghĩa đó, văn hóa là một hiện tượng xã hội đặc thù mà
nét trội cơ bản của hiện tượng này là ở chỗ chúng là một hệ thống những giá
trị chung nhất cả về vật chất và tinh thần cho một cộng đồng, một dân tộc,
một thời đại hay một giai đoạn lịch sử nào đó, là kết quả của quá trình hoạt
động thực tiễn của con người trong môi trường tự nhiên và trong các mối
quan hệ xã hội
Cấu trúc của hệ thống văn hóa được thể hiện qua sơ đồ 1 [2]

5


Sơ đồ 1. Cấu trúc của hệ thống văn hoá

1.1.2. Môi trường văn hóa
Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các quan hệ của con
người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các
sản phẩm vật chất và tinh thần của mình, là tổng hòa các giá trị văn hóa vật

chất và văn hóa tinh thần tác động đến con người và cộng đồng trong một
không gian và thời gian xác định.
Môi trường văn hóa bao gồm nhiều yếu tố hợp thành các hệ thống nhất
định. Đó là hệ thống những giá trị văn hóa (các giá trị), hệ thống những quan
hệ văn hóa (cái mang giá trị), hệ thống những hình thái hoạt động văn hóa (cái
thực hiện giá trị) và hệ thống những thiết chế văn hóa (các định hướng giá trị).
Mỗi hệ thống đều ở trong quá trình phát triển không ngừng chứ không phải
đứng yên, bất biến.
Vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa thực chất là xây dựng và phát huy
tác dụng của từng hệ thống trong cấu trúc tổng thể của nó [3].
- Thành tố thứ nhất là: hệ thống những giá trị văn hóa.
- Thành tố thứ hai là: hệ thống những quan hệ văn hóa.
- Thành tố thứ ba là: hệ thống những hình thái hoạt động văn hóa và
cảnh quan văn hóa.
- Thành tố thứ tư là: hệ thống những thiết chế văn hóa.
Với ý nghĩa là tổng hòa các thành tố trên đây, môi trường văn hóa có
vai trò cực kỳ quan trọng đối với đời sống cộng đồng và quá trình xây dựng
con người. Bởi vì, văn hóa “trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn
thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.

6


1.1.3. Các quan niệm về văn hoá tổ chức, văn hoá trường học
Văn hoá trường học là một thuật ngữ tuy không mới nhưng chưa được
nghiên cứu đúng tầm mức ở Việt Nam trong những năm vừa qua.
Khái niệm này khởi nguồn từ quan niệm của các nhà nghiên cứu quốc tế khi
tiếp cận về vấn đề “văn hoá tổ chức”. Theo Farmer (1990): “Văn hóa tổ
chức được hiểu là tổng của các quan niệm, niềm tin, giá trị - những yếu tố mà

các thành viên của tổ chức chia sẻ, chuyển tải thông qua: "Làm cái gì
? Làm như thế nào? và Ai làm?"”[5]. Văn hóa tổ chức là những niềm tin, thái
độ, giá trị tồn tại phổ biến và tương đối ổn định trong tổ chức. Nói cách
khác, văn hóa tổ chức là hệ thống các giá trị, niềm tin, truyền thống và thói
quen có khả năng quy định hành vi của mỗi thành viên trong tổ chức, mang
lại cho tổ chức một bản sắc riêng, ngày càng phong phú thêm và có thể thay
đổi theo thời gian.
Trên cơ sở xem xét nhà trường cũng như một tổ chức lưu giữ và phát
triển văn hoá, các nhà nghiên cứu giáo dục, văn hoá lần lượt đưa ra định nghĩa
về văn hoá nhà trường, vai trò, đặc điểm, cấu trúc, thành tố của văn hoá nhà
trường. Nhà nghiên cứu Barbara Fralinger, trong bài viết “Văn hoá tổ chức ở
cấp độ một trường đại học: Một nghiên cứu dựa trên bộ công cụ đánh giá tổ
chức OCAI” quan niệm “văn hoá tổ chức là một thành tố cơ bản trong việc
đưa ra quyết định ở các trường đại học, để các nhà quản lý, giảng viên và
nhân viên có thể phối hợp hiệu quả với nhau nhằm tạo ra một môi trường học
thuât hữu hiệu cho một nền giáo dục lành mạnh”[6]. Nhà nghiên cứu
Kent.D.Peterson đưa ra định nghĩa: “Văn hóa nhà trường là tập hợp các chuẩn
mực, giá trị và niềm tin, các nghi lễ và nghi thức, các biểu tượng và truyền
thống tạo ra "vẻ bề ngoài" của nhà trường”[7]. Nhà nghiên cứu Elizabeth R.
Hinde cho rằng: “Văn hóa nhà trường không phải là một thực thể tĩnh. Nó

7


luôn được hình thành và định hình thông qua các tương tác với người khác và
thông qua những hành động đáp lại trong cuộc sống nói chung. Văn hóa nhà
trường phát triển ngay khi các thành viên tương tác với nhau. Nó trở thành
chỉ dẫn cho hành vi giữa các thành viên của nhà trường”[8]. Văn hóa nhà
trường theo quan điểm của Stephen Stolp: “Văn hóa nhà trường như là một
cấu trúc, một quá trình và bầu không khí của các giá trị và chuẩn mực dẫn dắt

giáo viên và học sinh đến việc giảng dạy và học tập có hiệu quả”[9].
Ở Việt Nam, tác giả Phạm Quang Huân có đưa ra quan niệm cho rằng “Văn
hóa tổ chức của một nhà trường là hệ thống niềm tin, giá trị, chuẩn mực, thói
quen và truyền thống hình thành trong quá trình phát triển của nhà trường,
được các thành viên trong nhà trường thừa nhận, làm theo và được thể hiện
trong các hình thái vật chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc riêng cho mỗi
tổ chức sư phạm”[10].
Như vậy, hiểu một cách đơn giản, văn hóa nhà trường (trong đó có văn
hoá trường đại học) là một tập hợp một hệ thống chuẩn mực, các giá trị, niềm
tin và hành vi ứng xử do các chủ thể văn hoá nhà trường đặt ra và thống nhất
hành động. Văn hoá nhà trường liên quan đến toàn bộ đời sống vật
chất, tinh thần của nhà trường, được cấu trúc quan các thành tố về tầm nhìn,
sứ mạng, triết lí, mục tiêu, các giá trị, phong cách lãnh đạo, quản lí,
giá trị của các mối quan hệ giữa các chủ thể văn hoá trong nhà trường, định
hình thành hệ thống quy chuẩn tốt đẹp và được các chủ thể có liên
quan trong nhà trường chấp nhận.
Đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống giáo dục cao nhất của hệ
thống giáo dục quốc dân nên việc phát triển văn hoá nhà trường ở bậc giáo
dục đại học có vai trò rất quan trọng. Thứ nhất, với tư cách là một hệ thống
các giá trị, chuẩn mực, được chính các giảng viên, sinh viên, các nhà
quản lý trong cơ sở giáo dục đại học duy trì, lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ
khác, nên văn hoá nhà trường chính là một động lực tinh thần cần

8


thiết thúc đẩy sự phát triển thương hiệu của nhà trường nói chung, thúc đẩy ý
thức tự thân từ bên trong mỗi chủ thể văn hoá trong nhà trường nói
riêng nhằm đáp ứng thời cơ, thách thức mới của giáo dục. Đặc biệt trong bối
cảnh đất nước đang chuẩn bị các điều kiện cho sự nghiệp đổi mới

giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 29/NQ-TW (năm 2013) của Đảng, những
tác động to lớn từ yêu cầu hội nhập quốc tế về giáo dục đại học và
cách mạng công nghiệp 4.0 buộc các chủ thê văn hoá trong nhà trường cần có
một cuộc cách mạng từ tư duy, nhận thức đến hành động thực tiễn.
“Nếu như nền văn minh công nghiệp tạo ra một xã hội nhất định có thể dự
đoán trước, thì nền văn minh tin học với công nghệ thông tin và truyền
thông hiện đại đã làm cho môi trường mới trở nên phức tạp, bất định và
thường xuyên biến đổi buộc con người phải tự biến đổi để thích nghi và
sáng tạo…”[11]. Thứ hai, văn hoá nhà trường được đảm bảo sẽ góp phần duy
trì dân chủ nhà trường, nuôi dưỡng bầu không khí cởi mở, thân thiện
giữa các chủ thể trong nhà trường với nhau và giữa chủ thể văn hoá nhà
trường với các yếu tố bên ngoài, củng cố cho việc định hướng niềm tin,
sứ mệnh cho từng thành viên trong nhà trường, đặc biệt là trong lực lượng
sinh viên. Thứ ba, đảm bảo văn hoá nhà trường góp phần kích thích tư
duy sáng tạo cho các chủ thể của tổ chức nhà trường. Hàng năm, việc các lãnh
đạo nhà trường, các cấp quản lý tổ chức đối thoại, chia sẻ mục
tiêu, sứ mệnh, tầm nhìn, lắng nghe và chia sẻ các khó khăn từ phía sinh viên,
học viên và giảng viên sẽ góp phần tạo “môi trường văn hoá thân
thiện”, tạo động lực cho giảng viên, nhà nghiên cứu và sinh viên kích thích
năng lực sáng tạo, xây dựng được định hướng, mục tiêu, trách nhiệm và
quyết tâm lành mạnh cho quá trình học tập, giảng dạy. Thứ tư, văn hoá nhà
trường với hệ thống các quy tắc, quy chuẩn giá trị, chuẩn mực nên có
vai trò thúc đẩy những mặt tích cực, khắc phục, uốn nắn những hạn chế trong
tư cách, lối sống, giao tiếp, hành động của các chủ thể văn hoá trong
nhà trường, hướng tới các giá trị chân – thiện – mỹ và tính chuyên nghiệp của

9


mỗi cá nhân trong quá trình hội nhập và đổi mới. Văn hoá nhà

trường chính là nơi hội tụ những nét tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại
gips cho các chủ thể văn hoá điều chỉnh đạo đức, hành vi “nay có ý thức
về bản ngã và cá tính, về quyền năng và quyền lợi của bản thân, từ đó có khát
vọng được thể hiện, tự khẳng định mình…nền kinh tế thị trường tạo
không gian giao tiếp rộng lớn và phong phú cho mỗi con người đổi mới tư
duy, phát triển đời sống tinh thần”[12].
1.2. CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
1.2.1. Khái niệm về chất lượng
Chất lượng là khái niệm “đa chiều” và bao hàm nhiều yếu tố. Nó được
định nghĩa không những là sự phù hợp với mục tiêu mà còn chứa đựng trong
đó tính có thể tin cậy được, tính bền vững, tính thẩm mỹ … Tại Hội thảo Giáo
dục Thế giới chào Thế kỉ XXI được tổ chức tại Paris năm 1999, chất lượng
GDĐH được hiểu là “khái niệm đa chiều, bao gồm tất cả các chức năng và
hoạt động (của trường đại học): giảng dạy và các chương trình đào tạo, nghiên
cứu và sự uyên bác, cán bộ, sinh viên, cơ sở hạ tầng và môi trường chuyên
môn”. Đánh giá chất lượng của một chương trình đào tạo hay một khoá học là
làm việc với những tiêu chí và những mong đợi khác nhau.
Chất lượng luôn là vấn đề quan trong nhất của tất cả các trường đại học,
và việc phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo bao giờ cũng được xem là
nhiệm vụ quan trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo đại học nào. Mặc dù có
tầm quan trọng như vậy nhưng chất lượng vẫn là một khái niệm khó định
nghĩa, khó xác định, khó đo lường, và cách hiểu của người này cũng khác với
cách hiểu của người kia. Chất lượng có một loạt định nghĩa trái ngược nhau
và rất nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn đề này đã diễn ra tại các diễn đàn
khác nhau mà nguyên nhân của nó là thiếu một cách hiểu thống nhất về bản

10


chất của vấn đề. Dưới đây là 6 quan điểm về chất lượng trong giáo dục đại

học.

a. Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu vào”
Một số nước phương Tây có quan điểm cho rằng “Chất lượng một
trường đại học phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường
đó”. Quan điểm này được gọi là “quan điểm nguồn lực” có nghĩa là: Nguồn
lực = chất lượng. Theo quan điểm này, một trường đại học tuyển được sinh
viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tín, có nguồn tài chính cần thiết để
trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem là
trường có chất lượng cao.Quan điểm này đã bỏ qua sự tác động của quá trình
đào tạo diễn ra rất đa dạng và liên tục trong một thời gian dài (3 đến 6 năm)
trong trường đại học. Thực tế, theo cách đánh giá này, quá trình đào tạo được
xem là một “hộp đen”, chỉ dựa vào sự đánh giá “đầu vào” và phỏng đoán chất
lượng “đầu ra”. Sẽ khó giải thích trường hợp một trường đại học có nguồn lực
“đầu vào” dồi dào nhưng chỉ có những hoạt động đào tạo hạn chế ; hoặc
ngược lại, một trường có những nguồn lực khiêm tốn, nhưng đã cung cấp cho
sinh viên một chương trình đào tạo hiệu quả.
b. Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu ra”
Một quan điểm khác về chất lượng giáo dục đại học (CLGDĐH) cho
rằng “đầu ra” của giáo dục đại học có tầm quan trọng hơn nhiều so với “đầu
vào” của quá trình đào tạo. “Đầu ra” chính là sản phẩm của giáo dục đại học
được thể hiện bằng mức độ hoàn thành công việc của sinh viên tốt nghiệp hay
khả năng cung cấp các hoạt động đào tạo của trường đó. Có 2 vấn đề cơ bản
có liên quan đến cách tiếp cận CLGDĐH này. Một là, mối liên hệ giữa “đầu
vào” và “đầu ra” không được xem xét đúng mức. Trong thực tế mối liên hệ
này là có thực, cho dù đó không phải là quan hệ nhân quả. Một trường có khả
năng tiếp nhận các sinh viên xuất sắc, không có nghĩa là sinh viên của họ sẽ

11



tốt nghiệp loại xuất sắc. Hai là, cách đánh giá “đầu ra” của các trường rất khác
nhau.
c. Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị gia tăng”
Quan điểm thứ 3 về CLGDĐH cho rằng một trường đại học có tác động
tích cực tới sinh viên khi nó tạo ra được sự khác biệt trong sự phát triển về trí
tuệ và cá nhân của sinh viên. “ Giá trị gia tăng” được xác định bằng giá trị của
“đầu ra” trừ đi giá trị của “đầu vào”, kết quả thu được: là “giá trị gia tăng” mà
trường đại học đã đem lại cho sinh viên và được đánh giá là CLGDĐH.Nếu
theo quan điểm này về CLGDĐH, một loạt vấn đề phương pháp luận nan giải
sẽ nảy sinh: khó có thể thiết kế một thước đo thống nhất để đánh giá chất
lượng “đầu vào” và “đầu ra” để tìm ra được hiệu số của chúng và đánh giá
chất lượng của trường đó. Hơn nữa các trường trong hệ thống giáo dục đại
học lại rất đa dạng, không thể dùng một bộ công cụ đo duy nhất cho tất cả các
trường đại học. Vả lại, cho dù có thể thiết kế được bộ công cụ như vậy, giá trị
gia tăng được xác định sẽ không cung cấp thông tin gì cho chúng ta về sự cải
tiến quá trình đào tạo trong từng trường đại học.
d. Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị học thuật”
Đây là quan điểm truyền thống của nhiều trường đại học phương Tây,
chủ yếu dựa vào sự đánh giá của các chuyên gia về năng lực học thuật của đội
ngũ cán bộ giảng dạy trong từng trường trong quá trình thẩm định công nhận
chất lượng đào tạo đại học. Điều này có nghĩa là trường đại học nào có đội
ngũ giáo sư, tiến sĩ đông, có uy tín khoa học cao thì được xem là trường có
chất lượng cao. Điểm yếu của cách tiếp cận này là ở chỗ, cho dù năng lực học
thuật có thể được đánh giá một cách khách quan, thì cũng khó có thể đánh giá
những cuộc cạnh tranh của các trường đại học để nhận tài trợ cho các công
trình nghiên cứu trong môi trường bị chính trị hoá. Ngoài ra, liệu có thể đánh
giá được năng lực chất xám của đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khi

12



xu hướng chuyên ngành hoá ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng đa
dạng.
e. Chất lượng được đánh giá bằng “Văn hoá tổ chức riêng”
Quan điểm này dựa trên nguyên tắc các trường đại học phải tạo ra được
“Văn hoá tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình liên tục cải tiến chất lượng. Vì
vậy một trường được đánh giá là có chất lượng khi nó có được “Văn hoá tổ
chức riêng” với nét đặc trưng quan trọng là không ngừng nâng cao chất lượng
đào tạo. Quan điểm này bao hàm cả các giả thiết về bản chất của chất lượng
và bản chất của tổ chức. Quan điểm này được mượn từ lĩnh vực công nghiệp
và thương mại nên khó có thể áp dụng trong lĩnh vực giáo dục đại học.
f. Chất lượng được đánh giá bằng “Kiểm toán”
Quan điểm này về CLGDĐH xem trọng quá trình bên trong trường đại
học và nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định. Nếu kiểm toán tài
chính xem xét các tổ chức có duy trì chế độ sổ sách tài chính hợp lý không, thì
kiểm toán chất lượng quan tâm xem các trường đại học có thu thập đủ thông
tin phù hợp và những người ra quyết định có đủ thông tin cần thiết hay không,
quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng có hợp lý và hiệu quả không.
Quan điểm này cho rằng nếu một cá nhân có đủ thông tin cần thiết thì có thể
có được các quyết định chính xác, và chất lượng GDĐH được đánh giá qua
quá trình thực hiện, còn “Đầu vào” và “Đầu ra” chỉ là các yếu tố phụ.Điểm
yếu của cách đánh giá này là sẽ khó lý giải những trường hợp khi một cơ sở
đại học có đầy đủ phương tiện thu thập thông tin, song vẫn có thể có những
quyết định chưa phải là tối ưu.
g. Định nghĩa của Tổ chức đảm bảo chất lượng giáo dục đại học quốc tế
Ngoài 6 định nghĩa trên, Tổ chức Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học
quốc tế (INQAHE - International Network of Quality Assurance in Higher
Education) đã đưa ra 2 định nghĩa về CLGDĐH là (i) Tuân theo các chuẩn


13


quy định; (ii) Đạt được các mục tiêu đề ra.Theo định nghĩa thứ nhất, cần có
Bộ tiêu chí chuẩn cho giáo dục đại học về tất cả các lĩnh vực và việc kiểm
định chất lượng một trường đại học sẽ dựa vào Bộ tiêu chí chuẩn đó. Khi
không có Bộ tiêu chí chuẩn việc thẩm định chất lượng GDĐH sẽ dựa trên mục
tiêu của từng lĩnh vực để đánh giá. Những mục tiêu này sẽ được xác lập trên
cơ sở trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và những điều kiện đặc
thù của trường đó.Như vậy để đánh giá chất lượng đào tạo của một trường cần
dùng Bộ tiêu chí có sẵn; hoặc dùng các chuẩn đã quy định; hoặc đánh giá mức
độ thực hiện các mục tiêu đã định sẵn từ đầu của trường. Trên cơ sở kết quả
đánh giá, các trường đại học sẽ được xếp loại theo 3 cấp độ (1) Chất lượng
tốt; (2) Chất lượng đạt yêu cầu; (3) Chất lượng không đạt yêu cầu. Cần chú ý
là các tiêu chí hay các chuẩn phải được lựa chọn phù hợp với mục tiêu kiểm
định.Chất lượng là một khái niệm động nhiều chiều và nhiều học giả cho rằng
không cần thiết phải tìm cho nó một định nghĩa chính xác. Tuy vậy, việc xác
định một số cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề này là điều nên làm và có
thể làm được.
1.2.2. Chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục” là sự đáp ứng mục tiêu đề ra của cơ sở giáo dục,
đáp ứng các yêu cầu của Luật giáo dục, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học, phù hợp với nhu cầu sử dụng nhân
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước. (theo TT
62/2012/TT-BGDĐT)
Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng các chuẩn quy định (đảm bảo chất
lượng bên ngoài), đáp ứng mục tiêu đề ra (đảm bảo chất lượng bên trong) và
phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội (mức độ hài lòng của nhà tuyển
dụng, của xã hội).
Từ trước tới nay cụm từ này đã được đề cập rất nhiều trên các phương

tiện thông tin đại chúng, trong hoạt động chuyên môn của ngành giáo dục và

14


cũng gây tranh cãi nhiều trong dư luận - xã hội. Thế nhưng, hiện nay chúng ta
vẫn chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh.
Từ cách nhìn khác nhau, mỗi nhóm người hay mỗi người cũng có thể
có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng giáo dục. Chẳng hạn như: giáo
viên đánh giá chất lượng học tập bằng mức độ mà học sinh nắm vững các kiến
thức kỹ năng, phương pháp và thái độ học tập của cá nhân. Học sinh có thể
đánh giá chất lượng học tập bằng việc nắm vững kiến thức và vận dụng vào
thực hành các bài tập, bài kiểm tra, bài thi... Cha mẹ học sinh đánh giá chất
lượng bằng điểm số kiểm tra - thi, xếp loại. Người sử dụng sản phẩm đào tạo
thì đánh giá chất lượng bằng khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao, khả
năng thích ứng với môi trường...
Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Đản (Trường đại học Sư phạm Hà Nội),
chất lượng giáo dục là những lợi ích, giá trị mà kết quả học tập đem lại cho cá
nhân và xã hội, trước mắt và lâu dài. Khái niệm trên được đúc kết từ nhiều
góc độ khác nhau. Dưới góc độ quản lý chất lượng, thì chất lượng giáo dục là
học sinh vừa cần phải nắm được các kiến thức kỹ năng, phương pháp chuẩn
mực thái độ sau một quá trình học; đáp ứng được các yêu cầu khi lên lớp,
chuyển cấp, vào học nghề hay đi vào cuộc sống lao động...
Còn với góc độ giáo dục học thì chất lượng giáo dục được giới hạn
trong phạm vi đánh giá sự phát triển của cá nhân sau quá trình học tập và sự
phát triển xã hội khi họ tham gia vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế sản xuất,
chính trị - xã hội, văn hóa - thể thao.
Nhìn từ mục tiêu giáo dục thì chất lượng giáo dục được quy về chất
lượng hoạt động của người học. Chất lượng đó phải đáp ứng được các yêu cầu
về mục tiêu của cá nhân và yêu cầu xã hội đặt ra cho giáo dục...

TS Tô Bá Trượng (Viện chiến lược và Chương trình giáo dục) thì cho
rằng, chất lượng giáo dục là chất lượng con người được đào tạo từ các hoạt
động giáo dục. Chất lượng ở đây phải được hiểu theo hai mặt của một vấn đề:

15


Cái phẩm chất của con người gắn liền với người đó, còn giá trị của con người
thì phải gắn liền với đòi hỏi của xã hội. Theo quan niệm hiện đại, chất lượng
giáo dục phải bảo đảm hai thuộc tính cơ bản: tính toàn diện và tính phát triển.
Từ việc dẫn ra nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng giáo dục,
PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị (Trường đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh) cho
rằng, cách hiểu phổ biến hiện nay về chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục
tiêu đề ra của giáo dục: Chẳng hạn mục tiêu giáo dục đại học toàn diện gồm
có: phẩm chất công dân, lý tưởng, kỹ năng sống; tri thức (chuyên môn, xã hội,
ngoại ngữ, tin học...) và khả năng cập nhật thông tin; giao tiếp, hợp tác; năng
lực thích ứng với những thay đổi và khả năng thực hành, tổ chức và thực hiện
công việc, khả năng tìm việc làm và tự tạo việc làm có ích cho bản thân và
người khác... Hoặc mục tiêu giáo dục là nhằm đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp;
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3. VĂN HÓA CHẤT LƯỢNG
1.3.1. Khái niệm về văn hóa chất lượng
Có nhiều quan niệm về văn hóa chất lượng có thể kể ra như sau:
“Văn hóa chất lượng là một hệ thống các giá trị của tổ chức để tạo ra
môi trường thuận lợi cho việc thiết lập và cải tiến liên tục.” (Ahmed, 2008)
“Văn hóa chất lượng đề cập đến một nền văn hóa tổ chức nhằm nâng
cao chất lượng bền vững, được đặc trưng bởi hai yếu tố riêng biệt: Yếu tố thứ

nhất của văn hóa chất lượng là một tập hợp các giá trị, niềm tin,
những mong đợi hướng đến chất lượng; Yếu tố thứ hai, yếu tố quản lý/cơ cấu
có các quy trình đảm bảo chất lượng và các nỗ lực hợp tác được xác định dẫn
đến chất lượng cho các hoạt động của một tổ chức.” (EUA, 2006)

16


“Văn hóa chất lượng là thói quen làm cho mọi việc có chất lượng.”
(GS. TS. Mai Trọng Nhuận)
“Văn hóa chất lượng là sự hợp nhất/vận dụng/áp dụng chất lượng vào
toàn bộ các hoạt động của hệ thống/tổ chức nhằm tạo ra môi trường tích cực
bên trong tổ chức và dẫn đến sự hài lòng của những người
hưởng lợi từ tổ chức.” (TS. Nguyễn Kim Dung)
“Văn hóa chất lượng của một cơ sở đào tạo được hiểu là: mọi thành
viên (từ người học đến cán bộ quản lý), mọi tổ chức (từ các phòng ban đến
các tổ chức đoàn thể) đều biết công việc của mình thế nào là có chất lượng và
đều làm theo yêu cầu chất lượng.” (PGS. TS. Lê Đức Ngọc)
1.3.2. Những đặc điểm chính của văn hóa chất lượng
Hiện trên thế giới có nhiều cách tiếp cận, nhiều quan điểm về văn hóa
chất lượng. Đứng trên quan điểm của tiêu chuẩn hóa văn hóa chất lượng bao
gồm hai yếu tố, một là những hành vi, thái độ, cách thức và các chuẩn mực,
hai là nhận thức, các giá trị và niềm tin. Văn hóa chất lượng có các đặc điểm
chính gồm:
- Văn hóa chất lượng gắn cá nhân và tập thể;
- Vai trò của người lãnh đạo trong việc xây dựng và phát triển văn hóa
chất lượng trong nhà trường là rất quan trọng;
- Văn hóa chất lượng là một hệ thống văn hóa của tổ chức;
- Tất cả mọi thành viên, tổ chức đều biết, hiểu những yêu cầu về chất
lượng đối với công việc;

- Tự giác làm để đáp ứng những yêu cầu chất lượng;
- Văn hóa chất lượng hướng đến việc đảm bảo chất lượng và cải tiến
chất lượng;
- Văn hóa chất lượng hướng đến sự hài lòng của những bên liên quan;

17


1.3.3. Vai trò của văn hóa chất lượng
Vai trò của văn hóa chất lượng đối với cơ sở giáo dục đại học rất quan
trọng, thể hiện các điểm sau:
- Xây dựng Văn hóa chất lượng sẽ giúp cơ sở giáo dục đại học định
hướng rõ sứ mạng, tầm nhìn và chiến lược phát triển phù hợp, định vị rõ vị
thế dựa trên chất lượng và văn hóa chất lượng được hình thành.
- Trong một nền văn hóa chất lượng thật sự, mọi thành viên (lãnh đạo,
đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên và sinh viên) và các tổ chức,
đơn vị trong cơ sở giáo dục đại học đều tuân theo các giá trị, chuẩn mực, quy
trình và cam kết hướng đến chất lượng với tinh thần tự giác, tự nguyện, tin
tưởng, hợp tác, chia sẻ, chịu trách nhiệm và luôn sáng tạo để cải thiện chất
lượng sản phẩm hay dịch vụ bởi vì chính bản thân họ nhìn thấy nó là một vấn
đề quan trọng và cốt lõi.
- Văn hóa chất lượng được khẳng định là nền văn hóa nhấn mạnh sự cải
tiến liên tục các quá trình, nền văn hóa thúc đẩy môi trường làm việc làm thỏa
mãn khách hàng nhằm giúp tổ chức thành công; Văn hóa chất lượng giúp cơ
sở giáo dục đại học nâng cao chất lượng giáo dục – yếu tố quyết định sự thành
công trong cạnh tranh trong bối cảnh ngân sách công dành cho giáo dục đại
học giảm sút và số lượng sinh viên ngày càng giảm, giúp các cơ sở giáo dục
đại học trở thành trường đại học có đẳng cấp thế giới – trường có chất lượng
nghiên cứu và đào tạo đạt tiêu chuẩn cao.
- Mặt khác, hình thành Văn hóa chất lượng sẽ giúp cơ sở giáo dục đại

học dễ dàng thích ứng với những thay đổi của hệ thống tiêu chuẩn chất lượng
quốc gia và quốc tế; thể hiện rõ cam kết chất lượng với xã hội; hình thành môi
trường quản lý chất lượng; có định hướng rõ ràng trong việc phát triển nguồn
nhân lực… Hay nói cách khác, Văn hóa chất lượng là nền tảng và động lực để
cơ sở giáo dục đại học duy trì và nâng cao chất lượng, là bản sắc riêng và lợi
thế cạnh tranh của cơ sở giáo dục đại học.

18


Phần 2
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VĂN HÓA ĐỐI VỚI CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC
2.1. TÌNH HÌNH CHUNG
Các chủ thể văn hoá nhà trường có vai trò quyết định đến chất lượng,
thương hiệu của mỗi cơ sở giáo dục đại học nơi bản thân đang sống và làm
việc. Trong Tuyên bố của Unesco về Giáo dục đại học năm 1998 đã khẳng
định “Sứ mệnh của giáo dục đại học và góp phần vào yêu cầu phát triển
bền vững và phát triển xã hội nói chung”[13]. Bước sang thế kỷ XXI, những
tác động của xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đã tác động mạnh
mẽ đến vị thế, chỗ đứng và thương hiệu của các cơ sở giáo dục đại học – môi
trường tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Trong
nghiên cứu về các xu thế phát triển của giáo đục đại học thế kỷ XX, một số
nhà nghiên cứu cho rằng “toàn cầu hoá, một thực tế quan trọng của thế
kỷ XXI, có ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục đại học”[14]. Đó là một xu thế
khách quan, vừa đan xen sự hợp tác phát triển, vừa là quá trình đấu tranh
bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của nhà trường, của dân tộc, đòi hỏi
mỗi cơ sở giáo dục đại học cần đề xuất định hướng giải pháp toàn
diện, đồng bộ, trong đó có giải pháp liên quan tới từng chủ thế văn hoá của
nhà trường. Ở Việt Nam, để đáp ứng tình hình mới, năm 2007, Bộ Giáo

dục và Đào tạo ban hành 10 tiêu chuẩn “tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo
dục trường đại học” trong đó có một số nội dung tiêu chí đề cập ở
mức độ nhất đinh đến văn hóa nhà trường. Trong những năm qua Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng nhà trường thân
thiện, học sinh tích cực” trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó
có giáo dục đại học. Tại các cơ sở giáo dục đại học hiện nay, để quảng
bá và phát triển thương hiệu, đặc biệt ở các trường sư phạm đều đã và đang

19


thiết kế các khung quy chuẩn, các biện pháp, chế tài liên quan tới
chuẩn mực văn hoá của giảng viên, sinh viên, cán bộ quản lý nhằm nâng cao
chất lượng hình ảnh, thương hiệu của nhà trường.
2.2. ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
Đối với đội ngũ giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học – nguồn nhân
lực chất lượng cao, hội tụ các giá trị, tinh hoa và góp phần quan trọng vào sự
phát triển bền vững, các giá trị văn hoá đặc sắc của nhà trường. Vai trò chủ thể
văn hoá nhà trường của giảng viên thể hiện rõ nét trong tính chuyên
nghiệp của lực lượng này dựa trên các chuẩn tư cách: nhà chuyên môn, nhà
giáo dục, nhà khoa học và nhà tâm lý, hoạt động xã hội. Cách mạng
công nghiệp 4.0 được đặc trưng bởi kết nối Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo
và sự tích hợp các công nghệ, sự hợp nhất của các ngành nghề, sự ra
đời của những ngành nghề mới... Điều đó đòi hỏi một xu hướng, một nền giáo
dục mới – Giáo dục 4.0 - có khả năng cung ứng cho xã hội nguồn
nhân lực đáp ứng các yêu cầu của công nghiệp và kinh tế 4.0. Để có được mô
hình giáo dục ấy, Bộ Giáo dục và đào tạo, lãnh đạo các trường đại
học, cao đẳng là lực lượng quyết định nhưng giảng viên mới là "chìa khóa
then chốt" để thực hiện thành công các yêu cầu của giáo dục 4.0. Họ cần
được định hướng một tư duy giáo dục mới, trang bị tri thức chuyên môn, kỹ

năng, năng lực cần thiết để phát triển tư duy và năng lực sáng tạo,
thích ứng của sinh viên đáp ứng yêu cầu của thị trường. Quan trọng nhất là
mỗi giảng viên phải tự nuôi dưỡng bên trong mình những phẩm chất
đạo đức nhà giáo, sự tâm huyết khai phóng, niềm khao khát tri thức mãnh liệt
để trở thành người "truyền lửa", "soi đường" và khai phóng mọi tiềm
năng của người học giúp sinh viên hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế 4.0, nền công nghiệp 4.0 trên thế giới.
2.3. ĐỐI VỚI SINH VIÊN

20


Đối với sinh viên, để giúp cho sinh viên nhận thức được văn hoá nhà
trường là một thứ tài sản to lớn của bất kỳ một tổ chức nào, thì bản thân mỗi
sinh viên – với tư cách là một trong các chủ thể văn hoá nhà trường – cần
được giáo dục và bản thân phải tự giáo dục về ý thức, trách nhiệm với
việc giữ gìn, duy trì, phát triển các giá trị văn hoá nhà trường đó. Nếu như các
khung quy chuẩn trong xây dựng văn hoá nhà trường đối với giảng
viên xoay quanh các trục: văn hoá học thuật (liêm chính khoa học), văn hoá
đạo đức và văn hoá ứng xử thì khung quy chuẩn đối với sinh viên cũng
có những nét tương đồng, bao gồm tiêu chí học tập, tiêu chí đạo đức -hành vi,
tiêu chí thể chất, tiêu chí kỹ năng mềm và cả tiêu chí ngoại ngữ, tin
học. Văn hoá học thuật (academic culture) với sinh viên được ngầm hiểu là
những ứng xử nghiêm túc, đúng đắn trong quá trình học tập, thi cử,
nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên nhằm tập dượt, làm quen, xây dựng
động cơ, hứng thú chuyên ngành đúng đắn. Cũng trong quá trình
tương tác đó tạo ra mối quan hệ dân chủ, gắn bó giữa giảng viên – sinh viên,
tạo động lực để phát huy năng lực, phẩm chất của thầy và trò, đóng
góp vào thành tựu và thương hiệu của nhà trường. Trong môi trường đại học,
những tác động tiêu cực của xã hội và mặt trái của nền kinh tế thị

trường cũng đòi hỏi bản thân mỗi sinh viên cần tuân thủ các khung quy phạm
về văn hoá đạo đức, văn hoá ứng xử một cách chuyên nghiệp thông
qua các biểu hiện về lý tưởng sống, đạo đức lối sông, các cử chỉ, hành vi ngôn
ngữ và phi ngôn ngữ, văn hoá trang phục…Tất nhiên, truyền thống
của văn hoá Việt Nam nói chung, văn hoá nhà trường nói riêng chính là
“truyền thống vượt gộp”, có nghĩa là “tiếp thu được cái mới nhưng đổi mới
được nó trên cơ sở một cái cũ cũng đã được đổi mới cho thích hợp với hoàn
cảnh mới. Nó có nghĩa là bảo vệ được cả cái cũ lẫn cái mới sao cho
thích hợp với sự đổi mới cần được tiến hành. Như vậy vượt gộp không phải là
nhắm mắt chạy theo cái mới, vứt bỏ cái cũ, cũng không phải là khư
khư giữ lấy cái cũ, từ bỏ cái mới”[15]. Do đó, với việc xây dựng các khung

21


tiêu chí, thang đo chuẩn mực đối với sinh viên cũng cần chú ý đến tính
vừa sức, tính lịch sử và đặc điểm tâm sinh lý, chuyên ngành đào tạo của sinh
viên cho phù hợp với chiến lược của tổ chức văn hoá trường đại học
đó.
2.4. ĐỐI VỚI CÁC CẤP QUẢN LÝ
Đối với các cấp quản lý của cơ sở giáo dục đại học, đội ngũ cán bộ
quản lý của trường bao gồm Ban Giám hiệu, Hội đồng Trường, các phòng,
ban, trung tâm chức năng... có vai có vai trò trực tiếp đối với việc gây dựng
thương hiệu, hình ảnh văn hoá nhà trường do thường xuyên tiếp xúc với các
nhân tố bên ngoài. Do đó yêu cầu xây dựng khung quy chuẩn, thang đo về
tính chuyên nghiệp, năng lực và phẩm chất của các cấp quản lý trong
công việc, ứng xử phải càng cao, thậm chí cao hơn các chủ thể khác một bậc.
Cán bộ quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phải gương mẫu đi đầu
về phẩm chất đạo đức, chuẩn mực sống; có trình độ chuyên môn và năng lực
quản lý; có tinh thần nghiêm túc, trách nhiệm trong công việc, biết tư

vấn, tham mưu cho lãnh đạo trường trong việc tổ chức, triển khai và phát
động các phong trào xây dựng và phát triển văn hoá nhà trường tại đơn vị
do mình quản lý; duy trì sự đoàn kết, chia sẻ khó khăn, đảm bảo tính dân chủ,
công khai, minh bạch, tiên phong trong xây dựng tác phong công
nghiệp cho bản thân và các thành viên trong tổ chức; xây dựng cơ chế
thưởng, phạt nghiêm minh...nhằm “nuôi dưỡng bầu không khí cởi mở, dân
chủ, hợp tác, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau”[16], xây dựng môi trường văn hoá
trường đại học tích cực, lành mạnh, đổi mới, phát triển.

22


Phần 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CHẤT
LƯỢNG Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Cấu trúc chung của Văn hóa chất lượng bao gồm: phần cứng là yếu tố
mang tính kỹ thuật của hệ thống quản lý chất lượng (các công cụ và cơ chế để
xác định, đo lường, đánh giá, đảm bảo và nâng cao chất lượng) và phần mềm
là yếu tố văn hoá và cam kết hướng tới chất lượng (tất cả các cá nhân và tổ
chức trong cơ sở giáo dục đại học đều tự nguyện cam kết phấn đấu đạt và
nâng cao chất lượng) và một môi trường thuận lợi để phát triển các giá trị ấy.
Theo đó, Văn hóa chất lượng trong cơ sở giáo dục đại học được xây dựng và
phát triển dựa trên 3 nội dung chính:
3.1. VỀ XÂY DỰNG BỘ MÁY TỔ CHỨC, ĐIỀU HÀNH
Xác định cơ cấu tổ chức, vai trò chức năng, trách nhiệm của Lãnh đạo,
Tập thể và các cá nhân trong tổ chức. Trong đó nhấn mạnh vai trò của lãnh
đạo, các cam kết chất lượng của các cấp trong cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo
dục (cam kết chất lượng của cấp lãnh đạo, sự tham gia của đội ngũ và người
học) Văn hóa chất lượng đòi hỏi sự cân bằng thích hợp giữa tiếp cận trên –
dưới (top-down approach) – người lãnh đạo phải là người khởi xướng, lãnh

đạo và gương mẫu thực hiện xây dựng Văn hóa chất lượng và tiếp cận dưới –
trên (bottom-up approach) – tập thể cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh
viên trong cơ sở giáo dục đại học phải được tham gia vào tất cả các hoạt động
xây dựng Văn hóa chất lượng – để nâng cao chất lượng và phối hợp nỗ lực
của các cá nhân. Cơ chế điều hành, phối hợp hoạt động giữa các cấp dựa trên
nguyên tắc: cam kết, giao tiếp cởi mở, sự tham gia tự nguyện và niềm tin vào
các giá trị cốt lõi của tổ chức. Trong một nền văn hóa chất lượng thật sự, các
thành viên trong tổ chức hành động để cải thiện chất lượng sản phẩm hay dịch
vụ bởi vì chính bản thân họ nhìn thấy nó là một vấn đề quan trọng và cốt lõi.
3.2. VỀ XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ VÀ KHUNG PHÁT TRIỂN VĂN

23


HÓA CHẤT LƯỢNG
Hình thành các giá trị cốt lõi của tổ chức, giá trị chất lượng, công cụ và
hệ thống quản lý chất lượng, các yếu tố mang tính kỹ thuật, hoàn thiện các
quá trình đảm bảo chất lượng bên trong; đánh giá ngoài. Theo nghiên cứu của
Wood (1996) 6 giá trị cốt lõi của Văn hóa chất lượng bao gồm: (a) tất cả
chúng ta cùng nhau; (b) có tính đồng bộ, không phân biệt cấp trên, cấp dưới;
(c) giao tiếp cởi mở và trung thực; (d) mọi người biết được tất cả thông tin về
mọi hoạt động; (e) tập trung vào các quá trình; (f) không có thành công hay
thất bại, chỉ có những kinh nghiệm học được. Như vậy có thể thấy các giá trị
cốt lõi của Văn hóa chất lượng không chỉ bao gồm các giá trị về tinh thần, giá
trị truyền thống mà còn là các giá trị về phong cách làm việc, quan niệm và
cách ứng xử giữa các cá nhân, tập thể trong và ngoài tổ chức. Trong thực tiễn,
căn cứ vào sứ mạng, mục tiêu và trên cơ sở tham khảo yêu cầu của các bên
liên quan, nhà trường xây dựng các chuẩn chất lượng (chuẩn đầu ra, chuẩn
giảng viên), bộ công cụ đánh giá (đánh giá giảng viên, đánh giá môn học,
đánh giá dịch vụ), nội quy, quy chế, những chuẩn mực chất lượng, công cụ

đánh giá, nội quy. Mỗi cơ sở giáo dục đại học có hệ thống giá trị riêng của
mình, và phải được chia sẽ và được sự đồng thuận của những bên liên quan
và được cụ thể hóa thành nhiệm vụ của mỗi thành viên, tổ chức. Điều cần lưu
ý là: Các tiêu chuẩn chất lượng, bộ công cụ đánh giá, quy định chỉ có giá trị
trong khoảng thời gian nhất định. Trong quá trình triển khai thực hiện cần
định kỳ rà soát để có cơ sở điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện.
3.3. VỀ XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA
Xây dựng các môi trường văn hóa thuận lợi nhằm phát triển các giá trị
Văn hóa chất lượng. Nghiên cứu của Lê Đức Ngọc và cộng sự (2012) đã giới
thiệu mô hình phát triển Văn hóa chất lượng trong cơ sở giáo dục đại học dựa
trên sự tích hợp các quan niệm về Văn hóa chất lượng, các yêu cầu từ bộ tiêu
chuẩn kiểm định chất lượng của Bộ Giáo dục và đào tạo và các tổ chức AUN,

24


ABET. Mô hình bao gồm các yếu tố môi trường tổ chức mà một cơ sở giáo
dục đại học cần tạo ra nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Văn
hóa chất lượng.
Môi trường học thuật: là môi trường trong đó diễn ra các hoạt động học
thuật: dạy và học, nghiên cứu, trao đổi học thuật và các phương pháp giáo
dục, nghiên cứu tiên tiến.
Môi trường xã hội: là môi trường trong đó các mối quan hệ xã hội bao
gồm khung tổ chức, khung hoạt động của cơ sở giáo dục và hành vi của các
thành viên được xác lập và điều chỉnh.
Môi trường nhân văn: là môi trường trong đó quyền và nghĩa vụ của
các thành viên và các bên liên quan được xác lập minh bạch, và tuân thủ.
Môi trường văn hóa: là môi trường trong đó xác lập hệ thống các chuẩn
mực, giá trị, niềm tin và chuẩn mực ứng xử được chấp nhận bởi tất cả mọi
người.

Môi trường tự nhiên: là môi trường cảnh quan, cơ sở vật chất góp phần
đảm bảo và nâng cao chất lượng các hoạt động của cơ sở giáo dục đại học
3.4. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ
1. Về công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cán bộ, giảng viên và
toàn thể sinh viên về công tác xây dựng văn hóa tổ chức.
2. Xây dựng các kế hoạch, xác định rõ mục tiêu, nội dung và chương
trình xây dựng văn hoá tổ chức trong nhà trường.
3. Tăng cường giáo dục chính trị-tư tưởng cho Cán Bộ, giảng viên, sinh
viên.
4. Tăng cường quản lý nề nếp dạy học và chất lượng dạy và học, trước
hết là ở đội ngũ giảng viên và các phòng ban liên quan trực tiếp đến sinh viên.
5. Đẩy mạnh vai trò của Đoàn thanh niên, coi đó là lực lượng nòng cốt
trong các hoạt động xây dựng văn hóa tổ chức nhà trường đối với sinh viên.

25


×