Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tiểu luận chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong pháp luật hàn quốc, pháp và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.85 KB, 27 trang )

Gia đình là tế bào của xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng trên sợi dây liên
kết của hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng, trong đó quan hệ hôn nhân có thể coi
là nền tảng của gia đình. Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó
phản ánh sự chung sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có). Sau khi kết hôn, vợ
và chồng phát sinh những quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tất yếu
của cuộc sống. Quan hệ này xảy ra phổ biến trong xã hội và chịu sự điều chỉnh trực
tiếp của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trong một quy chế gọi là “Chế độ tài sản
vợ chồng”. Vậy chế độ tài sản của vợ chồng sẽ được xác lập theo quy điịnh của
pháp luật hay dựa trên sự thỏa thuận giữa vợ và chồng?
Xuất phát từ bản chất của quan hệ hôn nhân và gia đình là các yếu tố nhân thân
và tài sản gắn liền với các chủ thể nhất định, không thể tách rời và không có tính đền
bù ngang giá. Chính sự ràng buộc này làm nảy sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa
họ với nhau mà chia tài sản chung của vợ chồng, đặc biệt là chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân là một vấn đề quan trọng trong chế độ tài sản của vợ
chồng. Quy định này đã từng bước đi vào cuộc sống, phát huy được hiệu quả điều
chỉnh, góp phần xây dựng củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam. Không phải
là qui định mới trong Luật HN&GĐ năm 2000 nhưng trên cơ sở sự thừa kế Luật
HN&GĐ năm 1986 (Điều 18), qui định này đã dần có những thay đổi tích cực cho phù
hợp với sự phát triển của xã hội.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận không còn là điều mới lạ với nhiều nước trên thế
giới, ngược lại, nó đã tồn tại từ rất sớm. Đây là hiện tượng thể hiện sự độc lập không
vụ lợi trong quan hệ tài sản của các bên nam nữ khi lập gia đình. Phần lớn các quốc gia
phát triển trên thế giới hiện nay đều qui định cả hai chế độ tài sản vợ chồng: theo pháp
luật và theo thỏa thuận, tiêu biểu có Hoa kỳ và Pháp. Trong khi đó, một số quốc gia
như Bulgari, Hungari, Roumani, Tiệp Khắc, Việt Nam, ngoài ra còn có Argentina và
một số bang ở Mehico còn duy trì duy nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ
chồng. Trong khu vực, Trung Quốc trước đây không có qui định chế độ tài sản vợ
chồng theo thỏa thuận, nay đã công nhận chế độ này. Nhật Bản vốn là quốc gia nặng về
truyền thống cộng đồng và gia đình cũng đã có qui định về thỏa thuân vợ chồng đối
với tài sản.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì việc áp dụng qui định trên vào thực tiễn


không tránh khỏi những vướng mắc và khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp
liên quan đến tài sản. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề “chia tài sản chung của vợ chồng


trong thời kì hôn nhân” có ý nghĩa lý luận và tực tiễn sâu sắc nhằm đảm bảo cho các
quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng em sẽ
tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của các qui địn pháp luật về cế
độ cia tài sản chung tron thời kỳ hôn nhân và hậu quả pháp lý của việc chia tài sản
chung của một số nước trên thế giới từ đó đưa ra một số giải pháp cho Việt Nam qua
đề tài “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Hàn Quốc,
Pháp và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”.
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài dựa trên phép biện chứng
của lý luận khoa học Mac – LeNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng
và Nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Ngoài ra, tiểu luận còn sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu khác như so sánh, phân tích, tổng hợp…
1. Khái niệm chung về chế đ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản chung của vợ chồng có thể hiểu như sau:
“Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng thể các qui phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu)
tài sản của vợ chồng, bao gồm các qui định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia
tài sản giữa vợ và chồng theo pháp luật” (Theo: “chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam”)
2.

cứ x c định tài sản chung của vợ chồng:

Theo khoản 1 điều 27 luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 qui định về tài sản
chung của vợ chồng. Theo đó tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát
sinh tài sản. Cụ thể là: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra,
thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp

khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được tặng chung và những tài sản khác mà vợ chồng thảo thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hon là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế
riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Tài sản chung của vợ chồng
thuộc sở hữu chung hợp nhất”
Đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
trong việc chiếm hữu sử dụng và định đoạt (khoản 2 điều 219 BLDS 2005 và khoản 1
điều 28 luật hôn nhân gia định năm 2000). Như vậy về nguyên tắc vợ, chồng có quyền
và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong việc xây dựng, phát triển và duy trì khối tài sản
cũng nư trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu chung
hợp nhất.
3. Các loại chế đ tài sản của vợ chồng trong pháp luật:


Việc lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng thể hiện rõ ý chí của nhà nước khi điều
chỉnh các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Pháp luật các quốc gia trên thế giới đã quy
định có 2 chế độ tài sản của vợ chồng đó là chế độ tài sản theo quy định của pháp luật
(chế độ tài sản pháp định) và chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ
tài sản ước định).
a) Chế đ tài sả p

p định:

Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ trước về căn
cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu
có); quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên
tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản
nợ chung hay nợ riêng của vợ chồng. Chế độ tài sản này được tất cả các nước dự liệu
trong hệ thống pháp luật của mình, nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng.

b) Chế đ tài sả

c định:

Theo quan điểm thuần túy pháp lý của các nhà làm luật tư sản, hôn nhân thực chất là
một hợp đồng, một khế ước do hai bên nam nữ thỏa thuận, xác lập trên nguyên tắc tự
do, tự nguyện. Các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được phát sinh và thực hiện trong
thời ký hôn nhân cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao
kết hợp đồng đó. Vì vậy pháp luật cho phép trước khi kết hôn, hai bên được quyền tự
do ký kết ôn ước (hay còn gọi là khế ước) miễn sao không trái với các quy định của
pháp luật và đạo đức xã hội (trật tự công cộng).
.

C

A

CHỒ

ỊNH TÀI S N THEO THỎA THU N TRONG HÔN NHÂN
Y ỊNHC AB

LU T DÂN SỰ PHÁP

V

Những quy định về quan hệ tài sản giữa vợ, chồng trong Bộ luật Dân sự (BLDS) Pháp
không được đặt trong phần viết về hôn nhân mà được tách riêng và được quy định ở
Quyển 3 về việc xác lập quyền sở hữu tài sản. Phần này quy định chung cả về hợp
đồng hôn nhân và các chế độ tài sản giữa vợ, chồng. Theo các quy định này, hợp đồng

hôn nhân cũng như các quy tắc trong chế độ tài sản cũng chỉ là những cách thức khác
nhau để xác lập quyền sở hữu tài sản, hoặc là tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên
vợ, chồng, hoặc là tài sản thuộc sở hữu chung của cả hai vợ chồng.
Những vấn đề chung của chế định tài sản theo thỏa thuận trong hôn nhân theo quy
định của pháp luật Pháp
Nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản trong hôn nhân bắt nguồn từ việc thực hiện
nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng đã được thừa nhận ở Pháp từ thế kỷ XVI, khi mà
những quan hệ kinh tế, thương mại phát triển mạnh. Từ thời kỳ đó, luật pháp và tập
quán đã thừa nhận những sự thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế của họ, như là một quyền tự do cá nhân. Bộ luật dân sự 1804 ra đời


đã kế thừa tinh thần này và duy trì nguyên tắc không thay đổi những thỏa thuận của vợ
chồng về chế độ hôn sản.
Đạo luật ngày 13 tháng 7 năm 1965 về cải cách chế độ tài sản của vợ chồng đã hủy bỏ
nguyên tắc này vì cho rằng nó hạn chế quyền quyết định của vợ chồng về chế độ tài
sản. Hiện nay, nguyên tắc vợ chồng có quyền tự do lựa chọn chế độ tài sản được khẳng
định ngay trong quy định đầu tiên của phần những quy định chung của Bộ luật dân sự
về các chế độ tài sản của vợ chồng. Điều 1387 quy định : “Luật pháp chỉ điều chỉnh
quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận riêng, mà vợ chồng có thể làm vì
cho rằng điều đó là cần thiết, miễn sao những thỏa thuận đó không trái với thuần phong
mỹ tục và những quy định sau đây”. Quy định này đã gián tiếp cho phép các cặp vợ
chồng trước ngưỡng cửa hôn nhân có quyền tự do đưa ra các quy tắc pháp lý áp dụng
cho quan hệ tài sản giữa họ. Hoặc là chế độ tài sản họ tự xây dựng nên bằng hợp đồng
hôn nhân, hoặc bằng chế độ tài sản luật định.
Thực tế, nhà lập pháp của Pháp đã đưa ra một hệ thống các chế độ tài sản của vợ
chồng, bao gồm chế độ tài sản pháp định và các chế độ tài sản ước định. Dưới ảnh
hưởng của nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ tài sản pháp
định không có hiệu lực áp dụng một cách đương nhiên, trái lại, nó chỉ là một chế độ
tùy nghi (facultatif). Những người kết hôn hoàn toàn có quyền tự do thỏa thuận một

chế độ tài sản cho riêng mình. Nếu họ không thiết lập những thỏa thuận về vấn đề này,
chế độ tài sản pháp định sẽ đương nhiên được áp dụng. Mặt khác, nguyên tắc tự do
thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng còn giữ hiệu lực ngay cả trong những trường
hợp chế độ tài sản đã được xác định, bằng việc vợ chồng có quyền thỏa thuận thay đổi.
Sự thay đổi này có thể được thực hiện trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân.
Theo quy định của điều 1394 BLDS, những thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
phải được tiến hành với sự tham gia của công chứng viên, theo những thể thức nhất
định
Những vấn đề cơ bản của chế độ tài sản trong hôn nhân theo thỏa thuận
Hình thức tồn tại của chế đ tài sản theo thỏa thuận
Điều 1394 BLDS Pháp quy định: “Tất cả hợp đồng hôn nhân sẽ được soạn thảo bằng
văn bản công chứng lập bởi công chứng viên với sự hiện diện và sự đồng ý của tất cả
các bên của hợp đồng hoặc người được ủy quyền của họ.
Tại thời điểm ký kết hợp đồng, công chứng viên phải cấp cho mỗi bên một giấy chứng
nhận (không tốn phí), trong đó nêu tên và nơi cư trú của công chứng viên, họ, tên, nơi
ở của cặp vợ chồng tương lai, ngày ký của hợp đồng. Giấy chứng nhận này cũng chỉ ra
rằng, nó phải được giao cho viên chức hộ tịch trước khi đăng ký kết hôn.


Nếu giấy chứng nhận kết hôn không thể hiện rằng vợ chồng đã có thỏa thuận xác lập
hợp đồng thì hai vợ chồng, đối với các bên thứ ba, được coi là kết hôn dưới chế độ tài
sản luật định, trừ khi, trong các hành vi ký kết với bên thứ ba đó, họ cho biết đã thực
hiện một hợp đồng hôn nhân”.
Có thể thấy, BLDS Pháp yêu cầu một hình thức cũng như trình tự có liên quan đến
việc xác lập hợp đồng hôn nhân rất chặt chẽ. Để đảm bảo rằng (bằng những yêu cầu về
hình thức và thủ tục này) người thứ ba có thể dễ dàng tiếp cận với nội dung hợp đồng,
để các giao dịch giữa vợ, chồng với người thứ ba được thực hiện trên cơ sở thông tin
rõ ràng để đảm bảo sự bình đẳng trong giao dịch. Điều này củng cố, một lần nữa, đề
xuất trên đây của chúng tôi về việc các bên kết hôn phải xuất trình với viên chức hộ
tịch thoả thuận của họ về chế độ tài sản tại thời điểm kết hôn, và rằng viên chức hộ tịch

phải ghi nhận thông tin này trong giấy đăng ký kết hôn là hoàn toàn hợp lý. Nó cần
thiết cho một quy trình chặt chẽ và có kiểm soát đối với chế độ tài sản thoả thuận của
vợ chồng.
N i dung của hợp đồng hôn nhân
Về bản chất, hợp đồng chỉ chứa đựng những thỏa thuận của vợ chồng về các cách thức
thực hiện các quan hệ tài sản tài của họ mà không đề cập đến các vấn để nhân thân của
họ. Các quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ và chồng, vì có liên quan đến đạo đức, trật
tự chung nên đã được pháp luật ấn định, vợ chồng không thể có những thỏa thuận
khác. Hôn ước hợp pháp sẽ là cơ sở cho việc thực hiện, giải quyết những tranh chấp về
tài sản giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ, chồng với người thứ ba. Nói cách khác,
thỏa thuận này có hiệu lực như pháp luật.
Quyền tự d x c định n i dung của hợp đồng
Việc thừa nhận chế độ hôn sản ước định nhằm tạo điều kiện cho những vợ chồng có
thể thực hiện một chế độ hôn sản phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của họ. Vì vậy, người
kết hôn có quyền đưa vào trong hợp đồng những điều khoản mà họ cho là cần thiết để
điều chỉnh các quan hệ tài sản trong suốt thời kỳ hôn nhân. Hợp đồng được lập thông
qua sự can thiệp của công chứng viên, vì vậy, các bên sẽ nhận được những hỗ trợ pháp
lý để thiết lập nên một văn bản thỏa thuận hoàn chỉnh về một chế độ tài sản
Thứ nhất, trong hợp đồng, các bên kết hôn tuyên bố một chế độ hôn sản sẽ áp dụng đối
với họ. Đây là mục đích cơ bản nhất của việc lập hợp đồng. Thông thường, người kết
hôn lựa chọn một trong những chế độ tài sản đã được đề xuất trong BLDS, điều đó sẽ
dễ dàng hơn cho họ khi cần thiết kế nội dung của chế độ tài sản, bởi vì luật đã dự liệu
trong đó những điều khoản cơ bản. Ngoài ra, vợ chồng cũng có quyền tuyên bố về việc
áp dụng một chế độ tài sản khác, tuy nhiên điều này rất hiếm xảy ra.


Thứ hai, trong chế độ tài sản đã lựa chọn, các bên có quyền tự do đưa ra những điều
khoản quy định về các vấn đề cụ thể. Nếu đó là một trong những chế độ tài sản được
dự liệu trong BLDS, họ có quyền thiết lập những điều khoản bổ sung cho những quy
định của luật hoặc sửa đổi những quy định đó. Chẳng hạn, vợ chồng tương lai có thể

liệt kê những tài sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn; tặng cho nhau tài sản; thỏa
thuận về việc quản lý tài sản chung, riêng; về việc đóng góp tài sản vì nhu cầu chung
của gia đình; thỏa thuận về việc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản…
1.1.1. Gi i hạn về n i dung của hợp đồng
Tuy nhiên, quyền tự do thỏa thuận trong hôn ước của vợ chồng không phải là không có
giới hạn. Gia đình trong xã hội Pháp, cũng giống như ở nhiều nước khác, phản ánh tính
chất cộng đồng, vì thế chế độ tài sản pháp định của vợ chồng ở Pháp, từ khi có Bộ luật
Napoléon đều là các chế độ cộng đồng tài sản. Luật hiện hành của Cộng hòa Pháp về
các chế độ tài sản của vợ chồng không phải chỉ quan tâm đến lợi ích của các bên vợ,
chồng, mà trái lại, luôn đề cao những trật tự của gia đình. Điều đó thể hiện thông qua
việc nhà làm luật thiết lập hệ thống những quy định, theo đó, tất cả những thỏa thuận
của vợ chồng về tài sản phải tuân theo. Trong các điều 1388 và 1389 của BLDS, nhà
lập pháp đã quy định rằng: vợ chồng không thể thỏa thuận phá bỏ những quy định về
các nghĩa vụ và quyền của họ (phát sinh từ việc kết hôn), về nghĩa vụ và quyền của cha
mẹ và con, về quản lý theo pháp luật, về giám hộ, cũng như về trật tự thừa kế. Về
nguyên tắc, những điều khoản của hôn ước trái với những quy định này sẽ bị tuyên bố
vô hiệu.
Những thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản chịu sự điều chỉnh trực tiếp nhất bởi
các quy định về nghĩa vụ và quyền của họ. Tại các điều từ 212 đến 226, BLDS đã quy
định những nghĩa vụ và quyền riêng biệt của vợ và chồng với một tinh thần chung nhất
là: vợ chồng cùng nhau đảm bảo điều hành gia đình về tinh thần và vật chất, chăm lo
việc dạy dỗ con cái và chuẩn bị tương lai của chúng (điều 213). Đặc biệt, các điều từ
214 đến 226 tập hợp nên một chế định pháp lý mà học thuyết của Pháp gọi là chế đ
cơ ở của các chế đ tài sản của vợ chồng (Le régime primaire hoặc Le statut de base).
Đây là những quy định về các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng nhằm đáp
ứng nhu cầu của cuộc sống gia đình. Đó là những vấn đề: đóng góp vào việc chi tiêu
của gia đình; bảo vệ chỗ ở của gia đình; quyền tự chủ của mỗi bên vợ, chồng thực hiện
các giao dịch vì nhu cầu của gia đình và trách nhiệm liên đới của bên kia, quyền tự chủ
về nghề nghiệp, về việc sử dụng tài khoản (ngân hàng và chứng khoán); quyền một
mình thực hiện giao dịch thông qua cơ chế đại diện hoặc cho phép của Tòa án…Theo

quy định của điều 226, các quy định trên có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ
vợ chồng, bất kể họ lựa chọn chế độ hôn sản nào. Trong bối cảnh thừa


nhận nhiều chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cơ sở giữ vai trò chủ đạo, nhất là đối
với các chế độ hôn sản ước định, nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cho sự ổn
định của cuộc sống gia đình. Do có tầm quan trọng như vậy, tất cả các nghiên cứu về
các chế độ tài sản của vợ chồng theo luật của Pháp đều bắt đầu từ chế độ cơ sở này.
Đối với pháp luật Việt Nam thì chế độ tài sản cơ bản được thiết lập trong Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 với các nguyên tắc được quy định tại các Điều 29, 30, 31,
32.
Như vậy, sự tổ chức các chế độ tài sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa Pháp dựa
trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng nhưng không tách rời
nghĩa vụ của họ đối với đời sống chung của gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho vợ,
chồng có thể thực hiện những quan hệ tài sản phù hợp với tình hình kinh tế của bản
thân, mang lại lợi ích cho gia đình và cá nhân mỗi bên vợ chồng. Trong thực tế, mặc dù
số lượng các cặp vợ chồng lập hôn ước chiếm tỉ lệ rất thấp (khoảng 20%), nhưng các
chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng vẫn luôn tồn tại cùng với quan niệm về
quyền tự do cá nhân và vì sự cần thiết của nó trong những trường hợp nhất định.
1.2. Hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng hôn nhân có hiệu lực phát sinh phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân và chỉ có
giá trị trong chừng mực quan hệ hôn nhân còn được duy trì. Điều này có nghĩa là nếu
như không có quan hệ hôn nhân thì hợp đồng hôn nhân sẽ… không là gì cả. Với logic
như vậy, Điều 1395 BLDS Pháp quy định: “Hợp đồng hôn nhân phải được soạn thảo
trước khi kết hôn và không có hiệu lực cho đến ngày kết hôn”. Như vậy, kết hợp hai
quy định ở Điều 1394 và 1395 đã dẫn ở trên, ta có một tình trạng như sau, thứ nhất,
nếu tại thời điểm kết hôn mà không có bằng chứng (hay vợ chồng không đưa ra bằng
chứng) cho sự tồn tại hợp đồng hôn nhân thì quan hệ hôn nhân giữa họ sẽ được xác lập
trong tình trạng đặt dưới chế độ tài sản luật định, thứ hai, nếu các bên đã xác lập hợp
đồng hôn nhân nhưng sau đó vì các lý do cá nhân, quan hệ hôn nhân không được xác

lập thì hợp đồng đã xác lập sẽ không có giá trị (không phát sinh hiệu lực).
Câu hỏi tương tự cũng đặt ra trong lĩnh vực này, nếu quan hệ hôn nhân của họ bị tuyên
bố hủy do trái pháp luật thì hợp đồng hôn nhân sẽ chấm dứt hiệu lực theo sự chấm dứt
của quan hệ hôn nhân? Câu trả lời là có, theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu. Và
cũng theo các quan điểm này, khi chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng việc tuyên bố hủy
như vậy, việc xử lý hậu quả pháp lý liên quan đến quan hệ tài sản giữa vợ, chồng sẽ xử
lý theo quy định của pháp luật chứ không theo hợp đồng hôn nhân. Ngược lại, trong
trường hợp chấm dứt quan hệ hôn nhân do vợ, chồng chết hoặc chấm dứt quan hệ hôn
nhân thì hợp đồng hôn nhân lại được sử dụng như cơ sở pháp lý cho việc giải quyết
vấn đề chia tài sản giữa vợ, chồng cũng như trong các quan hệ tài sản liên quan đến


người thứ ba. Nhóm cho rằng, cách giải thích này là phù hợp trong bối cảnh pháp lý
Việt Nam hiện nay trong việc giải thích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
liên quan đến việc huỷ kết hôn trái pháp luật mà giữa các bên kết hôn có chế độ tài sản
thoả thuận. Rằng trong trường hợp này cần giải quyết việc phân chia tài sản khi huỷ
kết hôn trái pháp luật theo quy định của pháp luật chứ không theo thoả thuận trong chế
độ tài sản thoả thuận giữa họ. Bởi bản chất của huỷ kết hôn trái pháp luật là một dạng
chế tài, nên việc xử lý quan hệ tài sản cần thiết phải áp dụng một cách thống nhất theo
quy định của pháp luật.
Cũng cần lưu ý một vấn đề liên quan đến việc xác lập hợp đồng hôn nhân trong luật
dân sự Pháp, đó là luật này cho phép việc xác lập hợp đồng hôn nhân có thể được tiến
hành thông qua vai trò của người đại diện được ủy quyền (Điều 1394 BLDS Pháp).
Cũng giống như các hợp đồng khác được giao kết theo luật chung, hợp đồng hôn nhân
theo quy định tại Điều 1399 BLDS Pháp cũng có thể bị tuyên bố vô hiệu vì lý do liên
quan đến hình thức. Quy định cụ thể như sau: “Người thành niên trong tình trạng được
giám hộ hay trợ quản không thể xác lập hợp đồng hôn nhân mà không có sự tham gia
của người giám hộ hoặc người trợ quản.
Thiếu vắng sự tham gia hỗ trợ của những người này trong việc xác lập hợp đồng hôn
nhân, hợp đồng hôn nhân có thể bị tuyên bố vô hiệu trong năm kết hôn theo yêu cầu

của hoặc những người cần thể hiện sự đồng ý theo quy định của pháp luật trong việc
xác lập hợp đồng, hoặc của người giám hộ hoặc của người trợ quản”. Ngoài ra, các
quy định của pháp luật cũng cho phép tuyên bố vô hiệu một hợp đồng hôn nhân vi
phạm các quy định về hình thức khác.
1.3. Sự sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hiệu lực của hợp đồng hôn nhân
Điều 1397 BLDS Pháp quy định: “Sau hai năm thực hiện chế độ tài sản giữa vợ chồng
theo hợp đồng hôn nhân, vợ chồng có thể thỏa thuận, vì lợi ích của gia đình, để sửa
đổi, hoặc thậm chí thay đổi hoàn toàn hợp đồng hôn nhân bằng chứng thư công chứng.
Để có hiệu lực, các chứng thư công chứng này phải chứa đựng nội dung về việc thanh
lý chế độ tài sản đã có trước đó trong trường hợp cần thiết.
Các bên có liên quan của hợp đồng hôn nhân được sửa đổi hay chấm dứt và con đã
thành niên của mỗi bên vợ, chồng được thông báo – mang tính cá nhân – về sự thay
đổi được đề xuất. Mỗi người trong số họ có thể phản đối việc sửa đổi trong thời hạn ba
tháng.
Các chủ nợ của vợ chồng cũng được thông báo về các thay đổi do vợ chồng đề xuất
bằng cách đăng một thông báo trên một tờ báo được ủy quyền công bố thông báo tại
địa phương nơi cư trú của vợ, chồng. Mỗi người trong số họ có thể phản đối việc sửa
đổi trong vòng ba tháng kể từ ngày công bố.


Trong trường hợp thỏa thuận thay đổi hợp đồng hôn nhân bị phản đối, chứng thư công
chứng về việc thay đổi này sẽ phải được phê duyệt bởi tòa án. Việc yêu cầu phê duyệt
cũng như quyết định phê duyệt của tòa án phải được công bố trong các điều kiện và
chế tài theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Khi vợ hoặc chồng có con chưa
thành niên, việc phê chuẩn của tòa án đối với chứng thư công chứng về việc sửa đổi
hợp đồng hôn nhân là bắt buộc.
Sự thay đổi hợp đồng hôn nhân có hiệu lực giữa các bên vợ chồng tại thời điểm công
chứng hoặc tại thời điểm được phê duyệt bởi tòa án và trong mối quan hệ với các bên
thứ ba thì sự thay đổi này có hiệu lực sau ba tháng kể từ thời điểm được ghi chú trong
đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp không có ghi chú trong đăng ký

kết hôn, sự thay đổi này vẫn có hiệu lực với bên thứ ba nếu trong các thỏa thuận với
bên thứ ba này, các cặp vợ chồng cho biết họ đã thay đổi chế độ tài sản của họ.
Các chủ nợ không phản đối sự thay đổi chế độ tài sản của vợ chồng, nếu cho rằng đã
có sự gian lận trong việc thực hiện các quyền của mình có thể tiến hành việc kiện để
phản đối trong khuôn khổ quy định tại 1167 Bộ luật này”.
Sự thay đổi hợp đồng hôn nhân hay sự sửa đổi chế độ tài sản giữa vợ chồng thông
thường được tiến hành theo một trong hai hình thức, thứ nhất, bổ sung thêm một điều
khoản nào đó vào hợp đồng hôn nhân, thứ hai soạn thảo mới một hợp đồng hôn nhân.
Tóm lại, việc sửa đổi hợp đồng hôn nhân, thậm chí thay đổi chế độ tài sản từ chế độ tài
sản luật định sang chế độ tài sản thỏa thuận là hoàn toàn được phép theo quy định của
BLDS Pháp hiện hành. Sự cho phép này thực tiễn chưa ghi nhận có rủi ro cho người
thứ ba bởi thủ tục pháp lý cho các động tác này được quy định rất chặt chẽ.
Trong khi đó, Điều 17 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam quy
định:
“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì
trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc
toàn bộ nội dung của chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định.
2. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng phải được
công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật”.
Với các quy định này, pháp luật Việt Nam hiện hành không dự kiến bất kỳ cơ chế kiểm
soát nào từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc sửa đổi, bổ sung chế độ
tài sản theo thoả thuận giữa vợ chồng. Điều này cũng dễ hiểu, bởi ngay từ việc xác lập
chế độ tài sản thoả thuận đã không có sự kiểm soát thì việc sửa đổi, bổ sung
đương nhiên là không có kiểm soát. Như đã phân tích trên đây, chế độ tài sản thoả
thuận, mặc dù chỉ là thoả thuận giữa vợ, chồng, nhưng lại tác động rất lớn đến người
thứ ba, do đó chúng tôi cho rằng, cùng với việc xác lập chế độ tài sản thoả thuận, việc


sửa đổi, bổ sung chế độ tài sản này cũng cần có sự kiểm soát từ cơ quan quản lý có
thẩm quyền.

.
1.





D



ệu
Tài sản vợ chồng là một trong những nội dung quan trọng của luật hôn nhân và gia
đình.Sau khi kết hôn, tài sản chung được hình thành, các lợi ích và các quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đối với khối tài sản này cũng vì thế mà hình thành. Do tài
sản không chỉ gắn liền với những lợi ích thiết thực của hai bên mà còn liên quan
đến người thứ ba, đặc biệt là khi vợ chồng tham gia vào hoạt động kinh doanh
thương mại nên vấn đề này lúc nào cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, đặc biệt là sau
khi vợ chồng ly hôn. Thực tiễn xét xử cho thấy, phần lớn các tranh chấp của vợ
chồng có liên quan đến tài sản. Sự phức tạp trong việc xác định tài sản chung, tài
sản riêng vợ chồng cùng những hạn chế trong việc qui định về chế độ tài sản vợ
chồng trong luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình nước ta ngày càng trở nên bất
cập. Một mặt, việc giải quyết các xung đột trên không thể đảm bảo được công
bằng, bình đẳng giữa các chủ thể (người vợ thường thiệt thòi về tài sản sau khi ly
hôn). Mặt khác, số lượng và độ phức tạp của các vụ việc liên quan đến tranh chấp
1

tài sản vợ chồng ngày càng gia tăng gây khó khăn và tốn kém cho ngành tư pháp .
Trước khi nghiên cứu giải pháp cho tình trạng trên thì việc làm rõ các khái niệm
chế độ tài sản vợ chồng và các hình thức là cần thiết.

2.


2.1. ấ

ấ đề cơ bả của c ế đ
đề của c ế đ

e

ả r


ô

â

e

ỏa uậ

uậ

Vì các cặp vợ chồng đăng ký hợp đồng về tài sản hôn nhân là rất hiếm trong xã
hội Hàn Quốc, phần lớn các cặp vợ chồng đã tuân theo Đạo luật 830, quy định tài sản
hôn nhân là hệ thống tài sản riêng.
Nhà hôn nhân nên được coi là đồng sở hữu bất kể quyền sở hữu nếu được mua
với sự giúp đỡ của người phối ngẫu khác. Bên cạnh đó, không nhất quán rằng hoạt
động của người nội trợ có giá trị kinh tế theo quyết định của tòa án trong việc áp dụng
Đạo luật 839-2, tuy nhiên, nó không được ước tính bởi cùng một Tòa án trong Đạo

luật. 830. Trên hết, vợ hoặc chồng không có quyền nên được pháp luật bảo vệ khỏi di
tản khỏi nhà hôn nhân bằng cách xử lý người phối ngẫu có quyền. Trên thực tế, những
người vợ không có chức danh được báo cáo là nạn nhân của tranh chấp phân chia tài
sản, vì trong nhiều trường hợp, người chồng có quyền sở hữu tài sản.

1Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trong công
tác xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình của ngày tòa án nhân dân số 01/BC-TANDTC ngày 15 tháng 01
năm 2013


Theo quy định chung của Bộ luật Dân sự, một bên có nghĩa vụ có thể hủy bỏ hợp
đồng xử lý bằng cách bán giữa bên có nghĩa vụ và bên thứ ba nếu bên có nghĩa vụ thực
hiện bất kỳ hành vi pháp lý nào có quyền đối với chủ thể của mình với kiến thức rằng
nó sẽ làm phương hại đến bên có đạo luật 406 khi người phối ngẫu không phải là chủ
sở hữu quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng xử lý bằng cách bán hoặc quà tặng giữa người
phối ngẫu có quyền và bên thứ ba theo Đạo luật 406 với lý do anh ấy / cô ấy có quyền
yêu cầu phân chia tài sản tại thời điểm phân chia và người phối ngẫu có quyền có ý
định xấu để tránh yêu cầu phân chia tài sản, có thể không được Tòa án chấp nhận vì
người khởi kiện không thể chấp nhận có quyền yêu cầu phân chia tài sản cho đến khi
ly hôn được xác định.
Khi người khởi kiện là người nội trợ, Tòa án sẽ bác bỏ yêu cầu bồi thường với lý
do nội trợ không phải là đóng góp có giá trị kinh tế, mặc dù đó là một sự hy sinh cao
quý. Cách duy nhất mà người khởi kiện có thể bảo vệ tài sản của mình là gắn tài sản
của vợ hoặc chồng với tư cách là chủ nợ có quyền yêu cầu phân chia tài sản tại thời
điểm ly hôn khi họ phát hiện ra nỗ lực của vợ / chồng có quyền định đoạt tài sản của
mình. tại thời điểm tố tụng ly hôn theo Điều luật tố tụng gia đình Điều 63, những
trường hợp như vậy được giới hạn như ngoại lệ.
Ngược lại, Tòa án Tối cao Hàn Quốc cũng quyết định rằng các hoạt động nội trợ
được coi là đóng góp kinh tế trong phân chia tài sản hôn nhân tại thời điểm ly hôn,
theo Điều 839-2..

2.2.
du của c ế đ

e
ỏa uậ
 Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận xuất hiện tương đối sớm ở Hàn Quốc,
từ Bộ luật Dân sự năm 1990, Bộ Tư pháp của Đại Hàn Dân quốc đã đưa ra
những quy định về vấn đề này. Theo luật Dân sự năm 2016 của Đại Hàn Dân
quốc có quy định như sau về việc thỏa thuận tài sản vợ chồng tại Điều 829
“Thỏa thuận và sự thay thế của thỏa thuận lên tài sản hôn nhân” của Tiểu mục
2 về Ảnh hưởng đến tài sản như sau:
1. Nếu chồng và vợ chưa có, trước thời kỳ hình thành hôn nhân, đã tham gia một
hợp đồng cái mà quy định về phương diện khác về tài sản của họ, quy định tài
sản của họ sẽ được điều chỉnh bởi quy định của từng khoản trong điều này

2. Nếu vợ và chồng có, trước thời kỳ hình thành hôn nhân, đã tham gia vào một
hợp đồng liên quan đến tài sản, hợp đồng không thể thay thế trong suốt thời
kỳ hôn nhân: đã quy định rằng nếu có lý do thay đổi hợp đồng, nó có thể được
thay đổi trên sự đồng thuận của tòa án.
3. Nếu, một trong vợ hoặc chồng quản lý tài sản của người khác theo hợp đồng
được đề xuất ở khoản 2, và tài sản bị tổn hại bởi sự quản lý sai, người vợ hoặc
chồng của người quản lý có thể yêu cầu tòa án cho phép họ làm chủ quản


lý tài sản. Trong trường hợp này, nếu tài sản đó là tài sản chung giữa vợ và
chồng, thì người vợ hoặc chồng có thể yêu cầu tòa án chia tài sản đó.
4. Nếu chồng và vợ đã ký hợp đồng liên quan đến tài sản của họ, hợp đồng đó có
thể không được thực thi đối với người kế vị theo danh nghĩa của người chồng
hoặc người vợ hoặc người thứ ba trừ khi được đăng ký trước khi hình thành
hôn nhân.

5. Nếu người quản lý đã bị thay đổi hoặc phân chia tài sản trong đồng sở hữu đã
được thực hiện theo các khoản (2) và (3) hoặc bằng một hợp đồng, sự thay đổi
hoặc phân chia đó có thể không được thực thi đối với người kế vị theo quyền
của người chồng hoặc vợ hoặc chống lại bên thứ ba trừ khi nó đã được đăng
ký.
Tại các khoản 1, khoản 2 của điều 829 Bộ luật Dân sự 2016 này đã nêu ra được
các tình trạng quan hệ của các đối tượng tham gia, điều này giúp đảm bảo những rắc
rối trong quá trình áp dụng luật của chủ thể tham gia. Bên cạnh đó luật còn quy định
cả chủ quản lý tài sản trong hôn nhân và điều kiện cho sự thay đổi quyền quản lý tại
khoản 3, khoản 5, nhưng lại chưa quy định rõ ràng điều khoản 4, khoản 5 về vấn đề
đăng ký tại đâu và các điều kiện của các bên khi đăng ký.
Bộ luật dân sự hiện hành của Hàn Quốc có hệ thống hợp đồng tài sản hôn nhân
(Bộ luật dân sự Hàn Quốc, Điều 829) và hệ thống tài sản theo luật định. Trước khi kết
hôn, chồng và vợ tương lai có thể tham gia vào một thỏa thuận trong đó họ đồng ý về
các quyền tương ứng mà mỗi người sẽ có đối với tài sản mà họ mang vào tài sản. Tuy
nhiên, nếu vợ chồng tương lai không ký hợp đồng, luật gia đình của Hàn Quốc áp đặt
hệ thống tài sản theo luật định (Bộ luật dân sự Hàn Quốc, Điều 829, khoản 1)
Về nguyên tắc, hợp đồng tài sản hôn nhân không thể thay đổi hoặc sửa đổi trong
thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, nếu có lý do chính đáng, vợ hoặc chồng có thể thay đổi
hợp đồng với sự chấp thuận của tòa án (Bộ luật dân sự Hàn Quốc, Điều 829, khoản 2).
Theo hợp đồng, vợ hoặc chồng có thể yêu cầu phân chia tài sản chung khi vợ hoặc
chồng chăm sóc tài sản hôn nhân đe dọa giá trị kinh tế của mình bằng cách quản lý
không đầy đủ. Trong trường hợp như vậy, người phối ngẫu khác có thể yêu cầu tòa án
cấp cho anh ta hoặc cô ta quyền quản lý tài sản hôn nhân và một phần của việc phân
chia tài sản chung (Bộ luật dân sự Hàn Quốc, Điều 829, khoản 3). Chỉ khi hợp đồng
được đăng ký thì nó mới có hiệu lực đối với bên thứ ba (Bộ luật dân sự Hàn Quốc,
Điều 829, khoản 4
Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống hợp đồng hôn nhân hầu như chưa được thực
hiện tại Hàn Quốc. Ban đầu, Hàn Quốc chỉ có hệ thống tài sản hôn nhân theo luật định
và không có bất kỳ truyền thống nào liên quan đến hợp đồng tài sản hôn nhân. Điều



này có thể là do thực tế rằng ít người nhận thức được quyền thực hiện hợp đồng tài sản
hôn nhân trước khi kết hôn. Rõ ràng là những gì xảy ra trong thực tế là nhiều cặp vợ
chồng không thực sự hiểu rằng họ đang ký kết hợp đồng tài sản hôn nhân khi họ kết
hôn, chứ đừng nói đến bản chất và hậu quả của hợp đồng. Do đó, các cặp vợ chồng
không hiểu các quyền và nghĩa vụ của họ trong điều khoản của hợp đồng khi bước vào
hôn nhân. Hơn nữa, do việc hình thành nội dung của hợp đồng hôn nhân phụ thuộc
hoàn toàn vào chính người phối ngẫu tương lai, có vẻ như một số cặp vợ chồng không
có đủ thông tin về tình hình tài chính của người kia có xu hướng tránh thực hiện hợp
đồng.
2.3. c ì
ức ệ ố
2.3.1. ệ ố
ợp đồ
bả của ợp đồ

ợp đồ
ả ô
ả ô



ô
â .
â ùy c ọ
ặc

ì


ức cơ

â

Luật dân sự Hàn Quốc có hệ thống hợp đồng tài sản hôn nhân, tuy nhiên trên
thực tế chỉ có một số ít người sử dụng hệ thống này nên tình hình thực tế là hệ thống
hợp đồng phần lớn là tranh luận. Do đó, mong muốn rằng hệ thống hợp đồng được sửa
đổi để giới thiệu một hệ thống tài sản hôn nhân tùy chọn như là một kế hoạch thay thế
cho hệ thống hợp đồng tài sản hôn nhân hiện tại của Hàn Quốc. Hệ thống tài sản hôn
nhân tùy chọn sẽ cho phép một loại hệ thống hợp đồng tài sản hôn nhân có được lực
lượng pháp luật và biến nó thành một lựa chọn để các cặp vợ chồng có thể dễ dàng
chọn một hệ thống tài sản phù hợp cho mình. Nó có thể là một kế hoạch thay thế cho
hệ thống hợp đồng tài sản hôn nhân hiện tại của Hàn Quốc.
Đối với hệ thống hợp đồng tài sản hôn nhân tùy chọn, các cặp vợ chồng có thể
chọn một tài sản riêng và sở hữu chung của hệ thống tài sản. Theo việc thực hiện hệ
thống hợp đồng tài sản hôn nhân tùy chọn, hệ thống tài sản theo luật định hiện tại của
Hàn Quốc sẽ thay đổi từ hệ thống tài sản riêng sang hệ thống tài sản hôn nhân tùy
chọn. Mặc dù chỉ có một số ít các cặp vợ chồng có thể chọn hệ thống tài sản hôn nhân
tùy chọn, nhưng để làm như vậy, cần phải giúp các cặp vợ chồng dễ dàng lựa chọn
trong các hệ thống tài sản hôn nhân khác nhau. Luật pháp cần cung cấp một hình thức
cơ bản của hợp đồng tài sản hôn nhân để cho phép các cặp vợ chồng dễ dàng thực hiện
hợp đồng thông qua các phương thức khác và công khai nó để khuyến khích kích hoạt
hợp đồng tài sản hôn nhân.
2.3.2.

ựa c ọ lập

ửa đổ

ợp đồ




ô

â

r

ô

â

Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 829 của Bộ luật Dân sự Hàn Quốc, hai người sắp kết
hôn có thể lập hợp đồng pháp lý và vợ chồng tương lai có thể thỏa thuận các quyền của
họ liên quan đến tài sản mà họ mang vào hôn nhân hoặc có được trong thời kỳ hôn
nhân, bao gồm quyền sở hữu hoặc phân chia tài sản. Luật cũng quy định rằng các quy
tắc của hợp đồng tài sản hôn nhân không thể được sửa đổi trong thời kỳ hôn nhân. Tuy


nhiên, người chồng tương lai có thể khó thực hiện hợp đồng tài sản hôn nhân và đăng
ký trước khi kết hôn. Ngoài ra, không hợp lý khi các quy tắc của hợp đồng tài sản hôn
nhân không thể được sửa đổi trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, mong muốn sửa đổi hệ
thống hợp đồng tài sản hôn nhân hiện tại của Hàn Quốc để cho phép các cặp vợ chồng
thực hiện hợp đồng trong thời kỳ hôn nhân và sửa đổi trong hệ thống hợp đồng tài sản
hôn nhân đã chọn nên được cho phép trong thời kỳ hôn nhân.
3.

ế luậ


Tóm lại, hôn nhân là một quan hệ đối tác bình đẳng với cả hai khía cạnh xã hội
và kinh tế. Khi một cặp vợ chồng kết hôn, vợ chồng cố gắng nỗ lực hết mình trong khả
năng của họ để đảm bảo hạnh phúc gia đình. Cho dù người đàn ông hoạt động kinh tế
hay người phụ nữ chịu trách nhiệm cho công việc gia đình hoặc chăm sóc trẻ em
không quan trọng. Đó là sự lựa chọn tốt nhất mà họ có thể thực hiện, và những đóng
góp của họ nên được ghi nhận như nhau.
Luật gia đình ở Hàn Quốc đã có những bước tiến lớn, nhưng vấn đề tách hệ thống
tài sản và các luật liên quan khác cũng cần được giải quyết. Bán tài sản thuộc sở hữu
của một cặp vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nên được hạn chế, và tài sản mà họ làm
việc cùng nhau để có được nên được phân phối đều.
Bản chất của những sửa đổi luật này sẽ đảm bảo quyền của mỗi người phối ngẫu
trong một gia đình và công nhận sự bình đẳng của nam và nữ trong một cuộc hôn
nhân. Hơn nữa, nó sẽ đảm bảo sự an toàn kinh tế của cả gia đình nói chung. Dự kiến
những sửa đổi luật này sẽ đóng góp không chỉ cho vấn đề tài sản giữa vợ chồng mà
còn cho phúc lợi của con cái.
. CH
THEO PHÁP LU T

TÀI S N C A V
VI T NAM

CHỒNG THEO THỎA THU

N

1. Chế đ thỏa thuận tài sản của vợ chồng trong lịch sử pháp luật Việt Nam
1.1. Giai đoạn trước khi thống nhất đất nước
Hôn ước đã từng tồn tại ở Việt Nam. Quyền tự do lập hôn ước trong Bộ luật
dân sự Pháp đã được sao chép lại trong bộ luật dân sự hai miều Bắc và Trung nước ta
trong khoảng thời gian nước này đô hộ, cụ thể hôn ước được quy định ở Bộ dân luật

Bắc kỳ 1931, Dân luật Trung kỳ 1936. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này lại chỉ quy
đinh chế độ chung cho những vợ chồng lập hôn ước mà không quy định vợ chồng có
thể tự thỏa thuận lựa chọn . Khi hai miền chia cắt, Luật Hôn nhân và gia đình 1959 ở
miền Bắc xóa bỏ quyền tự do lập hôn ước và chỉ quy định duy nhất một chế độ tài sản
vợ chồng pháp định.
Trong khi đó, ở miền Nam, sự thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản
được công nhận lần lượt tại các văn bản như Luật gia đình ngày 02 tháng 1 năm 1959,


Luật 15/64 ngày 23 tháng 7 năm 1964 và Bộ dân luật ngày 20 tháng 12 năm 1972.
Theo đó, vợ chồng có thể tự do lập hôn ước tùy ý muốn và chỉ những trường hợp vợ
chồng không có hôn ước mới áp dụng chế độ tài sản chung vợ chồng theo luật định.
Hôn ước được công nhận tại Việt Nam trong thời kỳ này được giải thích dưới
góc độ chịu sự ảnh hưởng chi phối của pháp luật nước Pháp chứ không phải xuất phát
dưới góc độ nhu cầu đời sống thực tiễn trong quan hệ tài sản của vợ chồng đặt ra và
đòi hỏi giải quyết. Quy định về chế độ thỏa thuận tài sản của vợ chồng thời kì này vẫn
chưa có sự thống nhất trong pháp luật của các miền. Tuy nhiên, quy những quy định đó
ta có thể thấy rằng khái niệm về hôn ước và quyền tự do lập hôn ước của vợ chồng đã
được thừa nhận từ khá sớm và duy trì trong thời gian dài ở Việt nam. Như vậy, xét về
mặt lịch sử thì đây không phải là vấn đề mới ở Việt Nam.
1.2. Giai đoạn thống nhất đất nước
Sau khi thống nhất hai miền, Luật Hôn nhân và gia đình 1986 và Luật Hôn
nhân và gia đình 2000 lần lượt được ban hành nhằm khắc phục những nhược điểm và
hạn chế của bộ luật trước. Tuy nhiên, trong hai bộ luật này, quyền tự do hôn ước không
được khôi phục lại. Quy định về chế độ tài sản của vợ chồng, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1986 thừa nhận vợ chồng có tài sản chung nhưng bên cạnh đó cũng công
nhận vợ chồng có tài sản riêng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ công nhận
chế độ tài sản theo pháp định, chế độ tài sản này được áp dụng cho mọi quan hệ hôn
nhân được pháp luật công nhận.
Các nhà lập pháp đã cho rằng chỉ chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật là

hợp pháp và được công nhận. Do đó, mọi thỏa thuận của vợ chồng về khối tài sản của
họ đều bị coi là vô hiệu. Tuy nhiên, chúng ta lại tìm thấy mầm mống của việc thừa
nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về tài sản của họ trong Nghị định số 70 của Chính
phủ ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN-GĐ năm 2000. Cụ
thể là trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có quy
định “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ
trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác” (khoản 2, điều 8). Điều 9, 10 tiếp tục quy
định về khả năng khôi phục chế độ tài sản chung vợ chồng. Các quy định này tuy mâu
thuẫn với một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000 nhưng lại cho thấy ý
tưởng của nhà lập pháp trong việc thừa nhận sự thỏa thuận của vợ chồng đối với khối
tài sản của họ.
Nhằm khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong các quy định của các bộ hôn
nhân và gia đình trước nói chung và quy định về chế độ tài sản của vợ chồng nói riêng,
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 ra đời trên cơ sở sửa đổi các quy định cũ và bổ sung


thêm một số quy định mới, Trong số các điểm mới, đáng chú ý là lần đầu tiên chế độ
tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được chính thức ghi nhận trong pháp luật hôn
nhân và gia đình của nước ta. Như vậy, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014, không còn tồn tại một chế độ tài sản duy nhất được công nhận là chế độ tài
sản theo luật định mà còn có thêm chế độ tài sanr theo thỏa thuận. Đây là quy định
mang tính đột phá, đổi mới, tạo điều kiện cho vợ chồng tự do thỏa thuận, quyết định và
tự định đoạt đối với tài sản của mình trước khi kết hôn cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của mỗi bên.
2. Chế đ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật hôn nhân và gia
đì

ện hành


Cũng giống như nhiều nước trên thế giới, chế độ tài sản thỏa thuận giữa vợ
và chồng mặc dù đã được áp dụng trong thực tế nhưng vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều.
Nhiều ý kiễn cho rằng hôn nhân xuất phát từ sự tự nguyên trong tình cảm của nam, nữ,
họ lựa chọn gắn bó chia sẻ với nhau vì sự yêu thương nên tiền bạc, vật chất được mang
ra thỏa thuận, định đoạt từ trước là thực dụng. Bên cạnh đó, có quan điểm ngược lại
khi cho rằng hôn ước hạn chế ly hôn vì nó giúp các cặp vợ chồng vượt qua bất đồng về
tài chính ngay từ đầu; nói chuyện tiền bạc trước hôn nhân không phải dễ nhưng lại
giúp tránh được rắc rối về sau, đồng thời giúp hạn chế các tổn thương về tài chính và
cả cảm xúc mà một cuộc ly hôn (nếu buộc phải xảy ra) mang lại.
Như vậy, việc lựa chọn và xác lập chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận là quyền của vợ, chồng và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã ghi nhận chế
độ này.
2.1. Điều kiện về hình thức
Để xác lập chế độ thỏa thuận tài sản vợ chồng thì phải tuân thủ theo những
điều kiện về mặt hình thức được quy định tại Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014, cụ thể:
“Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận
thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công
chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể
từ ngày đăng ký kết hôn.”
Về hình thức, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng là sự thể hiện ý
chí, nguyện vọng, quyền lợi cững như trách nhiệm của vợ, chồng về vấn đề tài sản, do
đó thỏa thuận này phải được vợ, chồng lập thành văn bản và phải công chững và
chứng thực. Thỏa thuận chỉ được lập bằng văn bản và có chữ ký của hai vợ chồng là
chưa đủ, vì xét về mặt pháp lý, văn bản này được lập trên cơ sở sự thỏa thuận, thỏa
thuận này có được thực hiện hay không phụ thuộc vào sự tự nguyện ton trọng và trách
nhiệm của các bên. Nếu các bên không thực hiện đúng những nội dung đã thỏa thuận


thì không ai có thể ép buộc họ được vì không có cơ sở. Vì vậy, việc chứng thực là cần

thiết. Hơn nữa, xét về mặt hình thức của văn bản pháp luật, nếu không công chứng
hoặc chứng thực thì thỏa thuận đó không phù hợp với quy định của pháp luật và bị coi
là không có giá trị.
Do vậy, việc thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng được lập bằng
văn bản và có công chứng hoặc chứng thực sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ
quyền lợi của vợ, chồng cũng như đảm bảo cho vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện
đúng những nội dung đã thỏa thuận, hạn chế các tranh chấp xảy ra liên quan đến chế
độ tài sản của vợ chồng trong thực tế
2.2. Điều kiện về nội dung
Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng được quy
định tại Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
“Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:
a) Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao
dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;
c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài
sản;
d) Nội dung khác có liên quan.
Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề
chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định
tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này và quy định tương ứng của chế độ tài sản
theo luật định. “
Theo đó, những điều kiện về mặt nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản của
vợ chồng bao gồm:
Thứ nhất, xác định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận; những tài sản được
xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Trong văn bản thỏa thuận về chế
độ tài sản của vợ chồng, trước hết vợ, chồng cần xác định rõ những tài sản nào là tài
sản riêng của mỗi bên và những tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng. Vì khi xác
định được phạm vi các loại tài sản, quyền sở hữu của mỗi bên thì vợ, chồng sẽ thỏa
thuận và thống nhất được với nhau các quyền cũng như nghĩa vụ đối với từng loại tài

sản.


Hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề xác định tài sản của vợ chồng trong nội
dung thỏa thuận, Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ – CP đã quy định như
sau:
“1. Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung
sau đây:
a) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ,
chồng;
b) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản
do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản
chung;
c) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng
có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người
có được tài sản đó;
d) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.”
Như vậy, khi xác định về trong nội dung thỏa thuận, vợ, chồng có thể xác
định theo các nội dung sau: nếu giữa vợ và chồng có tài sản thì tài sản của vợ, chồng
bao gồm tài sản chung và tài sản riêng; giữa vợ và chồng không có tài sản riêng (tất cả
tài sản có được trước và trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung); giữa vợ và chồng
không có tài sản chung (tất cả tài sản có được trước và trong thời kỳ hôn nhân đều là
tài sản riêng); hoặc được xác định theo thỏa thuận khác của vợ, chồng (ví dụ xác định
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là tài sản chung).
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng
và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trên cơ sở
xác định nội dung về tài sản trong thỏa thuận trước đó vợ và chồng thỏa thuận về các
quyền của mỗi bên đối với tài sản chung, tài sản riêng cũng như những nghĩa vụ riêng,
nghĩa vụ chung về tài sản hai bên phải gánh chịu và những nhu cầu thiết yếu của gia

đình sẽ được đảm bảo bằng tài sản chung hay tài sản riêng. Bảo đảm điều kiện để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ của vợ, chồng; trong trường hợp vợ
chồng thỏa thuận tài sản bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình là tài sản chung nhưng
tài sản chung không đủ thì vợ, chồng cần thỏa thuận việc có đóng góp tài sản riêng của
mối bên và đóng góp bao nhiêu vào tài sản chung để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho gia
đình.
Thứ ba, điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế
độ tài sản. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng được lập trước khi kết hôn
và có hiệu lực kể từ ngày vợ, chồng thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo trình tự,


điều kiện và quy định của pháp luật. Xuất phát từ nhu cầu của mỗi bên, vợ chồng có
thể thỏa thuận các điều kiện được đưa ra khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa thuận
và xác định trong những trường hợp nào một bên hoặc cả hai bên vợ chồng có quyền
yêu cầu chấm dứt chế độ tài sản này. Khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa thuận, tài
sản sẽ được chia cho vợ chồng theo thủ tục (thỏa thuận hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền giải quyết) theo thỏa thuận của vợ chồng và nguyên tắc chia tài sản khi chấm
dứt chế độ tài sản đó. Về nguyên tắc tài sản có thể chia theo cách thức chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân hoặc theo nguyên tắc phân chia khác do hai vợ chồng tự
thỏa thuận thống nhất với nhau. Và khi có tranh chấp xảy ra, việc giải quyết tranh chấp
được ưu tiên áp dụng theo thỏa thuận của vợ chồng.
Thứ tư, ngoài những nội dung chủ yếu nêu trên, trong nội dung của thỏa
thuận vợ, chồng có thể thỏa thuận những nội dung khác (ví dụ như vấn đề cấp dưỡng
cho cha, mẹ, con …) liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng phù hợp với nhu cầu và
hoàn cảnh của mỗi bên.
Ngoài ra, vợ chồng còn có quyền sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về
chế độ tài sản căn cứ theo quy định tại Điều 49 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
“1. Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản.
2. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản theo
thỏa thuận được áp dụng theo quy định tại Điều 47 của Luật này.”

2.3. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Pháp luật cũng quy định rõ về các trường hợp vô hiệu thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng. Khoản 1 Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ
luật dân sự và các luật khác có liên quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật
này;
c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng,
quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên
khác của gia đình.”
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng xét về bản chất là một giao dịch
dân sự có sự tham gia của hai bên trong giao dịch. Trong trường hợp thỏa thuận không
tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 122 BLDS năm
2005 và các luật khác có liên quan thì thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị coi
là vô hiệu, không có giá trị pháp lý.


Chỉ cần thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vi phạm một trong các quy
định về nguyên tắc chung của chế độ tài sản của vợ chồng thì thỏa thuận đó bị coi là
vô hiệu.
Ngoài ra, để bảo vợ quyền, lợi ích chính đáng; quyền được cấp dưỡng, nuôi
dưỡng; quyền được thừa kế của cha, mẹ, con và các thành viên khác trong gia đình,
khi vợ chồng xác lập thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thì nội dung của thỏa
thuận phải đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng; đảm bảo quyền
được hưởng di sản thừa kế của cha, mẹ, con và các thành viên khác trong gia đình.
Do vậy, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng sẽ bị vô hiệu nếu nội
dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa
kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.

2.4. Hệ quả pháp lý của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi chấm dứt
quan hệ hôn nhân
a) Do một bên vợ, chồng đã chết hoặc bị Tòa án tuyên bố vợ, chồng đã chết
Khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do một bên vợ, chồng đã chết hoặc bị Tòa án
tuyên bố vợ, chồng đã chết có thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng thì việc phân
chia di sản thừa kế vẫn phải tuân thủ các quy định mang tính bắt buộc của Bộ luật Dân
sự 2017 về thừa kế tức là phải tôn trọng quyền thừa kế, không phụ thuộc vào nội dung
di chúc của những chủ thể. Quy định này nhằm bảo vệ người thứ ba, vợ chồng có
quyền lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận nhưng không được làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của người thứ ba trong đó có quyền thừa kế, cụ thể là quyền thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc. Thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng không phải là
di chúc nhưng sẽ có tác động tiêu cực đến quyền thừa kế của các chủ thể được pháp
luật bảo vệ, không tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật dân sự.
a) Do ly hôn
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án. Việc thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng nhằm bảo vệ tài
sản riêng của từng cá nhân và giảm tranh chấp khi ly hôn.
Khoản 2 quy định “Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận
về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tòa án xem xét, giải quyết đồng thời với
yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn”.
Khoản 5 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP hướng
dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Giá
trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị
trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc”.


Có thể thấy, quy định này thể hiện rõ tinh thần tôn trọng các thỏa thuận của
vợ chồng trong chế độ tài sản theo thỏa thuận liên quan đến việc phân chia tài sản khi
ly hôn. Tuy nhiên, nếu khi xác lập thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng mà nội dung
thỏa thuận không đề cập đến điều kiện, phương thức phân chia tài sản sau khi ly hôn

thì Tòa án sẽ áp dụng cách phân chia theo chế độ tài sản theo luật định.
c) Do hủy việc kết hôn trái pháp luật
Khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do hủy kết hôn trái pháp luật, chế độ tài sản
theo thỏa thuận của vợ chồng được giải quyết theo các quy định như hủy kết hôn trái
pháp luật trong các trường hợp khác bởi vì các quy định về hủy kết hôn trái pháp luật
tại các điều 10, 11, 12 được áp dụng chung cho tất cả các trường hợp hủy kết hôn trái
pháp luật, không phân ra các trường hợp khi giữa vợ chồng áp dụng chế độ tài sản theo
luật định hay chế độ tài sản theo thỏa thuận. Bên cạnh đó, việc xử lý kết hôn trái pháp
luật được Tòa án tiến hành thực hiện trên cơ sở yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức
theo quy định của pháp luật, bất chấp ý chí của các bên trong quan hệ hôn nhân nên
việc hủy kết hôn trái pháp luật này mang ý nghĩa chế tài.
3. Nhận xét về chế đ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật hiện
hành
Có thể thấy, quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cho phép vợ,
chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc theo luật định đã
đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của thực tiễn hôn nhân và gia đình ở nước ta
hiện nay để vừa xây dựng gia đình mới tiến bộ vừa kế thừa giá trị truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh đó, bảo đảm sự hài hòa và đa dạng trong quyền về sở
hữu và giao dịch, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của gia đình và kinh tế của bản
thân, giữ sự ổn định, phát triển của gia đình, quyền và lợi ích hợp pháp của các thành
viên trong gia đình trong thực hiện quyền tài sản, phù hợp với nguyên tắc cơ bản đã
được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự về quyền được tự do thỏa
thuận, tự do định đoạt và tự cchịu trách nhiệm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về tinh thần và
vật chất của gia đình cũng như của các thành viên khác trong gia đình.
Tuy nhiên, trên thực tế, do ảnh hưởng của tập quán, tâm lý và vị thế kinh tế
trong gia đình mà tỷ lệ người đàn ông/người chồng đứng tên giấy tờ sở hữu tài sản lớn
của gia đình cao hơn rất nhiều so với phụ nữ/người vợ, bên cạnh đó, do tâm lý e dè khi
đề cập đến vấn đề thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn bởi như
vậy là quá rạch ròi, đề cao yếu tố vật chất. Cho nên, việc xác lập chế độ tài sản theo
thỏa thuận của vợ chồng vẫn còn là điều khá mới mẻ, chưa phổ biến nhất là ở nông

thôn.








Việc so sánh một quy định của một quốc gia này với quy định của một quốc gia khác
là một trong những điểm tích cực trong công tác nghiên cứu luật học nhằm tìm ra
những điểm tương đồng và khác biệt để nâng sao tầm hiểu biết và kế thừa sự tiên tiến
từ các quốc gia đi trước. Đối với “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong
pháp luật hôn nhân gia đình” cũng không phải là ngoại lệ, chúng ta cần có nhiều góc
nhìn hơn về chế định này trên cơ sở so sánh với quốc gia khác có quy định tương tự và
đặt nó vào ngữ cảnh quốc gia để từ đó có được những quy định hoàn chỉnh nhất, phù
hợp với tính thực tiễn của Việt Nam. Cụ thể ở đây chúng ta sẽ tiến hành so sánh giữa
Việt Nam với Pháp và Đại Hàn Dân Quốc.
.


1. ề m t tư n



đồn

Việt Nam cũng như các quốc gia Pháp hay Hàn Quốc đều đã ghi nhận chế độ tài sản
theo thỏa thuận giữa vợ và chồng trong hệ thống pháp luật quốc gia mình. Mặc dù mỗi
quốc gia có cách gọi chế định tài sản này khác nhau.

Chế độ tài sản theo thỏa thuận giữa vợ và chồng cũng được Việt Nam, Pháp và Hàn
Quốc ghi nhận song hành cùng chế độ tài sản pháp định, các bên có lựa chọn áp dụng
một trong hai chế độ này khi kết hôn.
Việt Nam, Pháp, Hàn Quốc đều quy định thời điểm mà thỏa thuận về tài sản của vợ
chồng chính thức có hiệu lực là khi họ hoàn thành thủ tục đăng ký kết hôn, thời điể m
hết hiệu lực là lúc chấm dứt việc kết hôn hay vợ chồng hủy bỏ thỏa thuận này.
Việt Nam và các quốc gia, Pháp, Hàn Quốc đều có quy định về nội dung, hình thức,
hiệu lực, việc sửa đổi của thỏa thuận này: về nội dung, các nước đều lấy sự tự nguyện
của các bên làm nguyên tắc, các bên được tự do thỏa thuận về tài sản mà không trái
với quy định của pháp luật; hình thức văn bản phải được lập thành văn bản trước khi
đăng ký kết hôn; văn bản thỏa thuận của các bên có hiệu lực kể từ khi đăng ký kết hôn;
việc sửa đổi thỏa thuận được các quốc gia cho phép trong thời kỳ hôn nhân.
2. ề m t

iệt

Việt Nam với các quốc gia Pháp, Hàn Quốc về cơ bản có những nét tương đồng, tuy
nhiên khi đi sâu vào những quy định cụ thể thì cho thấy có sự khác biệt giữa các quốc
gia - mỗi quốc gia đều có nét riêng của mình.


N uyên n â
n
p

p luật

ì
n


t
àn


tên

ọ ủa sự t ỏa uận tài sản ủa
i
t
vợ

ồn tron

nướ

Do tính chất xã hội và điều kiện kinh tế ở các quốc gia là khác nhau nên các
quy định về sự thỏa thuận này cũng được nhà làm luật các nước nghiên cứu, chọn
lọc, kế thừa và ghi nhận vào hệ thống pháp luật quốc gia với những tên gọi khác
nhau.
Với điều kiện kinh tế đang phát triển, tài sản mà cá nhân nắm giữ ngày càng
tăng cũng với sự phát triển của quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu cổ phần, vồn góp
đã có sự tác động lớn đến nhu cầu có nhiều tài sản riêng, thể hiện quyền sở hữu tài
sản riêng ở vợ chồng. Chính vì vậy mà pháp luật Việt Nam cũng như Hàn Quốc đã
ban hành chế định tài sản theo thỏa thuận giữa vợ chồng để đáp ứng nhu cầu đó, cụ
thể ở Việt Nam quy định trong Luật HN&GĐ 2014, Hàn Quốc là Luật dân sự năm
2016
Pháp, chế độ tài sản ước định được ghi nhận bắt nguồn từ nguyên tắc tự do
ký kết hợp đồng và được thừa nhận từ thế kỷ XVI, chính thức ghi nhận trong Bộ
luật Dân sự năm 1804 và đặc biệt khi kinh tế, thương mại phát triển mạnh mẽ.
Như vậy, các quốc gia này mặc dù đều có sự ghi nhận chế độ thỏa thuận về tài

sản giữa vợ và chồng, tuy nhiên lại có tên gọi không giống nhau: Việt Nam, Hàn
Quốc là chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng hay chế độ tài sản ước định ở
Pháp.
c uy đị

ề ì

ức

ỏa

uậ

Việt Nam, muốn thỏa thuận về tài sản không bị vô hiệu do vi phạm về hình thức thì
phải đáp ứng được điều kiện là thỏa thuận phải được lập thành văn bản có công chứng
hoặc chứng thực (được quy định tại Điều 47 Luật HN&GĐ 2014);
Tại Pháp, hình thức của thỏa thuận phải được lập bằng văn bản trước mặt công chứng
viên với sự có mặt và thỏa thuận chung của cả hai bên hoặc người được ủy quyền. Khi
lập hôn ước công chứng viên cấp cho các bên giấy chứng nhận có ghi rõ họ tên, nơi cư
trú của công chứng viên, tư cách và nơi ở của các bên kết hôn, ngày lập hôn ước, trong
giấy chứng nhận cũng phải ghi rõ là phải nộp giấy này cho viên chức hộ tịch trước khi
đăng kí kết hôn
Tại Hàn Quốc khoản 2 và khoản 3 Điều 829 của Bộ luật Dân sự Hàn Quốc, hai người
sắp kết hôn có thể lập hợp đồng pháp lý và vợ chồng tương lai có thể thỏa thuận các
quyền của họ liên quan đến tài sản mà họ mang vào hôn nhân hoặc có được trong thời
kỳ hôn nhân, bao gồm quyền sở hữu hoặc phân chia tài sản.


Như vậy, đối với hình thức của thỏa thuận thì mỗi quốc gia lại có những quy định
không hoàn toàn giống nhau. Nhìn chung thì các quốc gia Việt Nam, Pháp có sự chú

trọng nhất định đến hình thức của thỏa thuận này, thể hiện qua những quy định về hình
thức khá chặt chẽ; còn Hàn Quốc khá thông thoáng à chưa có quy định cụ thể về hình
thức thỏa thuận này.
quy địn về nội un t ỏa t uận
Phần nội dung chủ yếu do vợ chồng tự do thỏa thuận miễn là không trái với quy định
của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật các nước vẫn quy định một số điều khoản về nội
dung của sự thỏa thuận nhằm làm cơ sở, định hướng cho vợ chồng tiến hành thực hiện
việc thỏa thuận được thuận lợi hơn.
Việt Nam quy định các nội dung cơ bản cần có trong văn bản thỏa thuận tại Điều 48
Luật HN&GĐ năm 2014, bao gồm: tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng
của vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và
giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện,
thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản
Pháp, phần nội dung được chú trọng và có được những quy định chặt chẽ, cụ thể.
Theo họ, điều này nhằm đảm bảo quyền lợi của người thứ ba, trật tự xã hội cũng như
của chính người vợ hoặc người chồng; liên quan đến nội dung của hôn ước, pháp luật
Pháp cho phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản chung và chế độ tài sản riêng và trong
đó, các chế độ tài sản chung được dự liệu bao gồm: chế độ cộng đồng toàn sản, chế độ
cộng đồng động sản và tạo sản, trong mỗi chế độ này lại được nhà làm luật quy định
cụ thể các khoản cần có để các bên khi lựa chọn một trong số các chế định này để áp
dụng thì cũng dễ dàng xác lập nên thỏa thuận đáp ứng các điều kiện và có hiệu lực
pháp luật.
Hàn quy định các nội dung về hệ thống hợp đồng tài sản trong hôn nhân quy định
chặt chẽ quyền tương ứng mà mỗi người sẽ có đối với tài sản mà họ mang vào tài sản
tuy nhiên trên thực tế chỉ có một số ít người sử dụng hệ thống này nên tình hình thực tế
là hệ thống hợp đồng phần lớn là tranh luận. Đối với hệ thống hợp đồng tài sản hôn
nhân tùy chọn, các cặp vợ chồng có thể chọn một tài sản riêng và sở hữu chung của hệ
thống tài sản. Theo việc thực hiện hệ thống hợp đồng tài sản hôn nhân tùy chọn, hệ
thống tài sản theo luật định hiện tại của Hàn Quốc sẽ thay đổi từ hệ thống tài sản riêng
sang hệ thống tài sản hôn nhân tùy chọn.

Như vậy, Việt Nam và Hàn Quốc chưa chú trọng đến việc quy định cụ thể, chặt chẽ về
mặt nội dung của thỏa thuận. Trong khi đó, Pháp lại có được những quy định khá chặt
chẽ, cụ thể và giúp cho vợ chồng dễ dàng hơn trong việc xác lập nên một thỏa thuận
đảm bảo về hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, Luật Việt Nam chỉ cho phép các bên được


thỏa thuận về tài sản chứ chưa cho phép các cặp đôi được thỏa thuận thêm các nội
dung khác.
c uy đị



ệc

ay đổ

ự đổ

ỏa

uậ



ả của ợ c ồ

Việt Nam, pháp luật cho phép vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ
nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Việc
sửa đổi, bổ sung này phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực (quy
định tại Điều 49 Luật HN&GĐ 2014 và tại Điều 17 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy

định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình 2014).
Còn ở Pháp, CĐTS này có thể được sửa đổi trước hoặc sau khi kết hôn. Trước khi kết
hôn, việc sửa đổi thỏa thuận về tài sản vợ chồng trước khi kết hôn phải do hai người
nam nữ thỏa thuận, việc thỏa thuận này phải có mặt của các bên tham gia hợp đồng và
người được ủy quyền. Văn bản xác lập đã sửa đổi cũng phải đảm bảo những yêu cầu
về hình thức cũng như đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba như văn bản đã lập ban
đầu. Sau khi kết hôn, việc sửa đổi chỉ được tiến hành sau khoảng thời gian hai năm
theo quy định của Điều 1397 Bộ luật Dân sự 1804 của Pháp, cụ thể: sau hai năm áp
dụng chế độ tài sản trong hôn nhân theo thỏa thuận, hai vợ chồng có thể vì lợi ích của
gia đình xin sửa đổi hoặc thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản trong hôn nhân bằng một
chứng thư có chứng thực của công chứng viên và được Tòa án nơi cư trú phê chuẩn.
Tại Hàn về nguyên tắc, hợp đồng tài sản hôn nhân không thể thay đổi hoặc sửa đổi
trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, nếu có lý do chính đáng, vợ hoặc chồng có thể thay
đổi hợp đồng với sự chấp thuận của tòa án (Bộ luật dân sự Hàn Quốc, Điều 829, khoản
2)
Như vậy, một số nước cho phép sửa đổi chế độ tài sản theo thỏa thuận trong thời kỳ
hôn nhân mà không cần điều kiện như tại Việt Nam; Hàn Quốc lại khá khắt khe và
thiếu linh động về việc thay đổi hợp đồng có lẽ bởi lý do là do thực tế rằng ít người
nhận thức được quyền thực hiện hợp đồng tài sản hôn nhân trước khi kết hôn, tại Pháp
sau hai năm áp dụng chế độ thỏa thuận này mới được phép sửa đổi, khi có hành vi phá
tán tài sản mới được đệ đơn yêu cầu Tòa án cho phép sửa đổi thỏa thuận . Ngoài ra, ở
Pháp còn cho phép việc sửa đổi này diễn ra trước thời kỳ hôn nhân. Việc sửa đổi, bổ
sung này còn phải tuân thủ về hình thức theo quy định thì mới đảm bảo được tính pháp
lý.
.

NAM









Nhìn chung, những quy định chi tiết về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ và
chồng tại Luật HN&GĐ đã phần nào đáp ứng đòi hỏi thực tiễn từ cuộc sống, góp phần
không nhỏ trong việc tạo lập một định chế pháp lý thống nhất, giải quyết được vấn đề
khi phát sinh quan hệ pháp luật về tài sản trong hôn nhân. Tuy nhiên, do sự thay đổi


×