Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận phân tích chi phí lợi ích đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất cây lương thực ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.23 KB, 30 trang )

CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÌNH HÌNH SẢN
XUẤT CÂY LƯƠNG THỰC Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng biến đổi khí hậu
a. Khái niệm
- Theo công ước chung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, “Biến đổi
khí hậu là những ảnh hưởng có hại của sự thay đổi khí hậu, những biến
đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại
đáng kể tới thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của hệ sinh thái
tự nhiên và được quản lý hoặc đến các hoạt động của các hệ thống kinh
tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.
b. Biểu hiện của biến đổi khí hậu
- Sự nóng lên của khí quyển và Trái Đất nói chung.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường
sống của con người và các sinh vật khác trên Trái Đất.
- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng
đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng
khác nhau của Trái Đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh
vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu
trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác.
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành
phần của thủy quyển, sinh quyển, các địa quyển.
Bằng chứng về sự biến đổi khí hậu được thể hiện ở sự gia tăng nhiệt độ
trung bình của không khí và đại dương trên toàn cầu, tình trạng băng tan và
tăng mực nước biển trung bình. Nhiều nơi trên thế giới đã phải chịu nhiệt
độ cao ngất ngưởng, với nhiệt độ trung bình toàn cầu cao hơn thế kỉ XIX tới
1,38 độ C. 2017 là năm có nhiệt độ bề mặt Trái Đất cao thứ hai tính từ năm
1



1880, thời điểm con người bắt đầu đo được nhiệt độ thế giới. Nhiệt độ trung
bình toàn cầu năm ngoái cao hơn 0,9 độ C so với giai đoạn 1951 - 1980,
theo Viện Nghiên cứu Không gian Goddard thuộc NASA. Trong khi đó,
2016 là năm có mức nhiệt trung bình cao nhất. 2017 là năm có nhiệt độ bề
mặt Trái Đất cao thứ hai tính từ năm 1880, thời điểm con người bắt đầu đo
được nhiệt độ thế giới. Nhiệt độ trung bình toàn cầu năm ngoái cao hơn 0,9
độ C so với giai đoạn 1951 - 1980, theo Viện Nghiên cứu Không gian
Goddard thuộc NASA. Trong khi đó, 2016 là năm có mức nhiệt trung bình
cao nhất. GISS đo lường sự thay đổi nhiệt độ bề mặt toàn cầu liên quan đến
nhiệt độ trung bình từ năm 1951 đến năm 1980. Dữ liệu của GISS cho thấy
nhiệt độ trung bình toàn cầu năm 2017 tăng 1,62 độ F (0,9 độ C) so với
nhiệt độ trung bình những năm 1951-1980. Sự gia tăng nhiệt độ đang trở
nên phổ biến trên toàn cầu và tăng nhiều hơn ở các khu vực vĩ độ cao phía
bắc. Khu vực đất liền nóng nhanh hơn các khu vực đại dương. Những thay
đổi về nồng độ khí nhà kính trong khí quyển, các sol khí, độ che phủ đất và
bức xạ mặt trời đã làm thay đổi cân bằng năng lượng của hệ thống khí hậu.
Lượng khí thải nhà kính trên toàn cầu do con người đã tăng khoảng 70% so
với thời kì trước cách mạng công nghiệp, trong khoảng thời gian từ 1970
đến 2004.
c. Thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi
khí hậu. Thực tế cho thấy, khí hậu Việt nam đang nóng lên. Theo Thông báo
quốc gia lần thứ 2 của Bộ Tài nguyên và Môi trường: kể từ năm 1958 đến
năm 2007, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng lên khoảng 0,5-0,7 độ
C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ ở các
vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam. Cụ thể như năm 2007,
nhiệt độ trung bình cả năm tại Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đều
2



cao hơn trung bình của thập kỷ 1931-1940 là 0,8-1,3 độ C; cao hơn thập kỷ
1990-2000 là 0,4-0,5 độ C.
Mùa đông ít đi, mưa phùn giảm rõ rệt ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hạn hán
ngày càng khắc nghiệt…bão lũ lớn và bất thường liên tiếp xảy ra, diện tích
đất ngập mặn tăng lên nhất là ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, liên tiếp
các đợt áp thấp nhiệt đới xảy ra ở khu vực Miền Trung. Số liệu quan trắc tại
các trạm hải văn ven biển Việt Nam cho thấy, tốc độ dâng lên của mực nước
biển trung bình hiện nay là 3mm/năm, tương đương với tốc độ tăng trung
bình trên thế giới. Trong 50 năm qua, mực nước biển tại Trạm Hải văn Hòn
Dáu tăng lên khoảng 20cm.
Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình năm trên
lãnh thổ nước ta không rõ rệt theo các thời kỳ và các vùng khác nhau.
Lượng mưa năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí
hậu phía Nam . Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa trong 50 năm qua
đã giảm khoảng 2%. Tuy vậy, biến đổi lượng mưa có xu hướng cực đoan,
đó là tăng trong mùa mưa và giảm mạnh trong mùa khô. Bên cạnh đó, số
đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam cũng giảm rõ rệt trong 2 thập
kỷ qua. Các biểu hiện thời tiết dị thường xuất hiện ngày càng nhiều, tiêu
biểu như đợt lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài.
Đặc biệt, do tác động của biến đổi khí hậu, trong khoảng 5-6 thập kỷ gần
đây, tần số xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông tăng lên với tốc
độ 0,4 cơn mỗi thập kỷ; tần số xoáy thuận nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt
Nam tăng với tốc độ 0,2 cơn mỗi thập kỷ và có cường độ mạnh xuất hiện
nhiều hơn. Quỹ đạo của bão có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía Nam và
mùa mưa bão kết thúc muộn hơn. Nhiều cơn bão có đường đi bất thường và
không theo quy luật. Điển hình như quái bão Mirinae năm 2016, siêu bão
Haiyan năm 2013…
3



d. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu
 Nguyên nhân do tự nhiên
Nguyên nhân gây ra biến đổi khi hậu do tự nhiên bao gồm thay đổi
cường độ sáng của Mặt trời, xuất hiện các điểm đen Mặt trời (Sunspots),
các hoạt động núi lửa, thay đổi đại dương, thay đổi quỹ đạo quay của trái
đất.
Số Sunspots xuất hiện trung bình năm từ năm 1610 đến 2000. Với sự
xuất hiện các Sunspots làm cho cường độ tia bức xạ mặt trời chiếu xuống
trái đất thay đổi, nghĩa là năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay
đổi nhiệt độ bề mặt trái đất.
Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng
lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất.
Cụ thể là từ khi tạo thành Mặt trời đến nay gần 4,5 tỷ năm cường độ sáng
của Mặt trời đã tăng lên hơn 30%. Như vậy có thể thấy khoảng thời gian
khá dài như vậy thì sự thay đổi cường độ sáng mặt trời là không ảnh hưởng
đáng kể đến biến đổi khí hậu.
Núi lửa phun trào - Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí
quyển một lượng cực kỳ lớn khối lượng sulfur dioxide (SO 2), hơi nước, bụi
và tro vào bầu khí quyển. Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến
khí hậu trong nhiều năm. Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí được phun ra
bởi núi lửa, các sol khí phản chiếu lại bức xạ (năng lượng) mặt trời trở lại
vào không gian vì vậy chúng có tác dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt trái
đất.
Đại dương ngày nay - Các đại dương là một thành phần chính của hệ
thống khí hậu. Dòng hải lưu di chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành
tinh. Thay đổi trong lưu thông đại dương có thể ảnh hưởng đến khí hậu
thông qua sự chuyển động của CO2 vào trong khí

quyển.


Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất - Trái đất quay quanh Mặt trời với
4


một quỹ đạo. Trục quay có góc nghiêng 23,5 độ. Thay đổi độ nghiêng của
quỹ đạo quay trái đất có thể dẫn đến những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay đổi
cực kỳ nhỏ có thể tính đến thời gian hàng tỷ năm, vì vậy có thể nói không
ảnh hưởng lớn đến biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng các nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu do
các yếu tố tự nhiên đóng góp một phần rất nhỏ vào sự biến đổi khí hậu và
có tính chu kỳ kể từ quá khứ đến hiện nay.
 Nguyên nhân do con người
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các
hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá
mức của con người các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ
sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu,
Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ
yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.
- CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn
khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh
ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
- CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ
thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
- N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
- HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là
sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
- PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
- SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
Từ khoảng năm 1.800, hàm lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con số
300ppm và đạt 379ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với

thời kỳ tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650
nghìn năm qua.
5


Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH4), ôxit nitơ (N2O)
cũng tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công
nghiệp lên 1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các
chất khí chlorofluoro carbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm
nóng lên toàn cầu lớn gấp nhiều lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ôzôn
bình lưu, chỉ mới có trong khí quyển do con người sản xuất ra kể từ khi
công nghiệp làm lạnh, hóa mỹ phẩm phát triển.
Đánh giá khoa học của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) cho thấy,
việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản
xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng… đóng góp
khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng
góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9% các ngành sản xuất hóa
chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động khác.
Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2. Năm 2004, phát thải
98,6 triệu tấn CO2, tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn/năm (trung
bình của thế giới là 4,5 tấn/năm, Singapo 12,4 tấn, Malaysia 7,5 tấn, Thái
Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn, Inđônêxia 1,7 tấn, Philippin 1,0 tấn,
Myanma 0,2 tấn, Lào 0,2 tấn).
Như vậy, phát thải các khí CO2 của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15
năm qua, song vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước
trong khu vực. Dự tính tổng lượng phát thải các khí nhà kính của Việt Nam
sẽ đạt 233,3 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2020, tăng 93% so với
năm 1998.
2. Tình hình sản xuất cây lương thực ở Việt Nam
a. Cây lương thực

Cây lương thực là các loại cây trồng mà sản phẩm dùng làm lương thực
cho người, nguồn cung cấp chính về năng lượng và chất bột cacbohydrat
6


trong khẩu phần thức ăn. Nó gồm toàn bộ nhóm cây lương thực có hạt và
nhóm cây củ có bột.Tám loại cây lương thực chính của thế giới là ngô, lúa
nước, lúa mì, sắn, khoai tây, đại mạch, khoai lang và lúa miến. Bốn loại
lương thực chính ở Việt Nam là lúa, ngô, sắn và khoai lang.
Các cây lương thực là nguồn chủ yếu cung cấp tinh bột và cả chất dinh
dưỡng cho người và gia súc, cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp
chế biến lương thực, thực phẩm và còn là hàng hóa xuất khẩu có giá trị.
Đặc điểm sinh thái của các loại cây lương thực ở Việt Nam hầu hết đều
ưa nóng ẩm, đất đai màu mỡ, cần nhiều phân bón, phụ thuộc vào khí hậu.
b. Tình hình sản xuất cây lương thực
Nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng
góp 22,1% GDP năm 2008, gần 30% giá trị xuất khẩu và trên 60% lực
lượng lao động. Sản xuất lương thực là ngành quan trọng nhất của nông
nghiệp Việt Nam. Lúa là cây lương thực quan trọng nhất, chiếm diện tích
gieo trồng lớn nhất. Cây lương thực quan trọng thứ hai là ngô đang có xu
hướng tăng ở Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây
Nguyên và Duyên hải miền Trung. Cây lương thực quan trọng thứ ba là cây
sắn đang có xu hướng tăng ở vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, vùng núi và
trung du Bắc Bộ. Cây lương thực quan trọng thứ tư là khoai lang có xu
hướng giảm ở hầu hết các vùng. Những cây lương thực, thực phẩm lấy củ
và lấy hạt khác (như khoai tây, khoai môn, khoai mỡ, dong riềng, hoàng
tinh cao lương, lúa mì, lúa miến, lúa mạch) chiếm tỷ trọng không nhiều.

7



2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Sơ bộ 2017

2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Sơ bộ 2017

2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Sơ bộ 2017

2010
2011


Lúa
Tổng diện tích (Nghìn ha) Tổng sản lượng (Nghìn tấn)
7.489,40
40.005,60
7.655,40
42.398,50
7.761,20
43.737,80
7.902,50
44.039,10
7.816,20
44.974,60
7.828,00
45.091,00
7.737,10
43.165,10
7.708,70
42.763,40
Ngô
Tổng diện tích (Nghìn ha) Tổng sản lượng (Nghìn tấn)
1.125,70
4.625,70
1.121,30
4.835,60
1.156,60
4.973,60
1.170,40
5.191,20
1.179,00

5.202,30
1.178,90
5.287,20
1.152,70
5.246,50
1.099,90
5.131,90
Khoai lang
Tổng diện tích (Nghìn ha) Tổng sản lượng (Nghìn tấn)
150,80
1.318,50
146,80
1.362,10
141,70
1.427,30
135,00
1.358,10
130,10
1.401,30
127,60
1.335,90
120,30
1.269,30
121,80
1.351,10
Sắn
Tổng diện tích (Nghìn ha) Tổng sản lượng (Nghìn tấn)
498,00
8.595,60
558,40

9.897,90
8


2012
2013
2014
2015
2016
Sơ bộ 2017

551,90
543,90
552,80
567,90
569,00
534,60

9.735,40
9.757,30
10.209,90
10.740,20
10.909,90
10.340,80

Bảng 1: Diện tích và sản lượng của bốn loại cây lương thực chính của Việt Nam
Việt Nam hiện đã đạt được an ninh lương thực trên phạm vi quốc gia .
Tuy nhiên để đảm bảo được an ninh lương thực ở cấp hộ gia đình trên phạm
vi cả nước vẫn đang còn là một vấn đề lớn, đặc biệt ở miền núi phía Bắc và
Tây Nguyên.


9


CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN VIỆC SẢN
XUẤT CÂY LƯƠNG THỰC Ở VIỆT NAM
1. Tầm quan trọng của các yếu tố tự nhiên tác động đến sản xuất cây lương
thực
a. Đất
Đất đai chính là một nguồn tài nguyên quan trọng nhất trên thế giới, việc
bảo vệ, duy trì và cải tiến nguồn tài nguyên này đều được bất cứ quốc gia
nào chú trọng đầu tư. Đặc biệt trong nông nghiệp, đất còn giữ một vai trò
quan trọng hơn khi chúng trực tiếp là nơi cung cấp nguồn dinh dưỡng lớn
cho cây trồng nói chung và cây lương thực nói riêng.
Trong nông nghiệp nói riêng có rất nhiều loại đất khác nhau, mỗi loại đất
đều mang lại những ưu, nhược điểm phù hợp với sự phát triển của cây
trồng. Với một số cây khi phát triển trong đất bị thiếu dinh dưỡng hay bạc
màu, khô cằn thì đem đến năng suất cây trồng không tốt. Ngược lại, với
những chất đất có lượng phù sa bồi đắp, thường xuyên được cải tạo đất
bằng máy nông nghiệp hoặc những loại phân bón vi sinh sau mỗi vụ thì đất
sẽ giàu chất dinh dưỡng cho cây phát triển, từ đó cũng mang đến năng suất
cây trồng tốt hơn.
b. Nước
Nước là yếu tố vô cùng quan trọng cho sự phát triển của cây trồng. Cây
trồng sống và phát triển được nhờ chất dinh dưỡng trong đất và được nước
hòa tan, đưa lên cây qua hệ thống rễ. Nước giúp cây trồng thực hiện các quá
trình vận chuyển các chất khoáng trong đất giúp điều kiện quang hợp, hình
thành sinh khối tạo nên sự sinh trưởng của cây trồng.
Vì vậy trong đất cần có một độ ẩm thích hợp để cây trồng hút được dễ
dàng. Đất ngập úng hay thiếu nước đều ảnh hưởng không tốt cho sự sinh

10


trưởng của cây trồng. Cây trồng bị ngập nước dẫn đến các tế bào rễ không
hô hấp được. Nên không cung cấp đủ oxy cho hoạt động của các tế bào rễ
cùng với việc tích lũy các chất độc hại. Do đó, sẽ làm chết đi các lông hút ở
rễ, không thể hình thành được lông hút mới. Cây không thể hút nước nên
lâu ngày sẽ dẫn đến héo và chết cây.
c. Không khí
Không chỉ riêng cây lương thực mà bất kì sự sống nào tồn tại trên Trái
Đất cũng cần có không khí. Nhờ có không khí thì cây trồng mới có thể
quang hợp và hô hấp được. Đặc biệt, đây lại là hai hoạt động quan trọng
nhất trong quá trình hình thành và phát triển của cây, nếu không thì cây sẽ
không thể sống được. Sở dĩ không khí có vai trò quan trọng như vậy là bởi
vì trong không khí có chứa một lượng lớn khí ô-xi – rất cần thiết cho quá
trình hô hấp của thực vật. Mặt khác, khí các-bô-nic có trong không khí lại
rất cần thiết cho quá trình quang hợp của thực vật. Chính vì thế, không khí
được coi như là một yếu tố để duy trì và điều hòa sự sống.
d. Nhiệt độ
Theo các chuyên gia tư vấn nông nghiệp, mỗi loại cây, giống cây, các bộ
phận của cây cũng như quá trình sinh lý sẽ chỉ phát triển thích hợp và an
toàn ở một nhiệt độ nhất định. Còn nếu như nhiệt độ cao hay thấp hơn
khoảng giới hạn đó thì sự sinh trưởng sẽ bị giảm một cách nhanh chóng.
Nhiệt độ tối hảo cho sự sinh trưởng khác nhau tùy theo giống hay loài,
tùy theo thời gian tác động của nhiệt độ, tuổi cây, thời kỳ phát triển, và các
ngưỡng sinh trưởng riêng biệt được dùng để đánh giá khả năng hoàn thành
chu kỳ sống, sự hấp thu nước và dinh dưỡng, hô hấp, khả năng thấm của
màng tế bào, và sự tổng hợp protein. Các ảnh hưởng này được phản ảnh
bằng sự sinh trưởng của cây trồng. Khả năng sinh trưởng của cây trồng phụ
thuộc rất lớn vào tốc độ hình thành lá mới, có nghĩa là diện tích quang hợp

11


mới tăng làm ảnh hưởng rất lớn đến tổng quang hợp và sản lượng của cây
trồng. Vì vậy, tốc độ ra lá và sự phát triển các lá mới và thời gian phát triển
của các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của cây đóng góp rất lớn đến sản
lượng của cây trồng.
Tiến trình hô hấp và sự thoát hơi nước của cây trồng chịu ảnh hưởng trực
tiếp bởi nhiệt độ, các quá trình này giảm khi nhiệt độ giảm và ngược lại. Ở
nhiệt độ cao, tốc độ hô hấp ban đầu tăng rất nhanh nhưng sau đó vài giờ thì
lại giảm rất nhanh đối với một số cây trồng.
Trong điều kiện nhiệt độ cao, sự mất nước do thoát hơi có thể vượt quá
lượng nước hấp thu vào, và hậu quả là cây bị héo. Sự hấp thu nước của rễ
cây chịu ảnh hưởng bởi nhiệt độ, trong môi trường nhiệt độ tăng từ 0-60 độ
C hay 70 độ C thì sự hấp thu nước của rễ tăng. Nhiệt độ đất thấp cũng có
thể ảnh hưởng bất lợi đến sự sinh trưởng của cây do ảnh hưởng của nhiệt độ
đến sự hấp thu nước. Nếu nhiệt độ đất thấp mà sự thoát hơi cao, thì cây
trồng có thể bị tổn thương do các mô bị mất nước.
Nhiệt độ cũng gây ảnh hưởng một cách gián tiếp đến sự sinh trưởng của
cây, do ảnh hưởng của nhiệt độ đến dân số vi sinh vật trong đất. Sự hoạt
động của các vi khuẩn chuyển hoá N, cũng như phần lớn sinh vật tự dưỡng,
tăng theo sự tăng nhiệt độ. pH đất cũng có thể thay đổi theo nhiệt độ, và pH
lại ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng. Thêm vào đó, nhiệt độ
cũng có thể làm thay đổi thành phần không khí trong đất, do sự tăng hay
giảm sự hoạt động của vi sinh vật trong đất. Khi hoạt động của vi sinh vật
đất tăng, thì hàm lượng CO2 của không khí trong đất tăng và hàm lượng O2
giảm. Trong điều kiện mà sự khuếch tán của các khí trong đất bị hạn chế,
thì việc giảm hàm lượng O2 có thể ảnh hưởng đến tốc độ hô hấp của rễ cây,
và vì thế ảnh hưởng đến khả năng hấp thu dinh dưỡng của rễ.


12


2. Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất cây lương thực
a. Tác động đến tài nguyên đất
Việt Nam là một quốc gia được xếp vào loại khan hiếm đất, bình quân
đầu người xếp thứ 159 vầ chỉ bằng khoảng 1/6 bình quân của thế giới.
Những thay đổi về điều kiện thời tiết ( nhiệt độ, lượng mưa, hiện tượng khí
hậu cực đoan,...) đã làm diện tích đất bị xâm nhập mặn, khô hạn, hoang mạc
hóa, ngập úng, xói mòn, rửa trôi, sạt lở,... xảy ra ngày càng nhiều hơn.
Đất bị xâm nhập mặn: Hiện nay, nước mặn xâm nhập ngày càng sâu vào
đất liền, độ mặn tăng cao và thời gian ngập mặn kéo dài. Đó là hậu quả của
các yếu tố: nước biển dâng cao, lưu lượng nước sông trong mùa khô ít đi,...
Năm 2005, tình trạng xâm nhập mặn sớm, độ mặn cao và thời gian duy trì
dài xảy ra phổ biến ở các tình đồng bằng sông Cửu Long. Trên sông Tiền,
sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên, xâm nhập mặn đã tiến sâu vào phạm vi
60-80km. Còn trên tuyến sông Hậu, nhập mặn cũng đã vào sâu 60-70km.
Riêng các dòng sông chính như Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông, độ mặn đã
nhập sâu tới mức kỉ lục 120-140km.
Hiện tượng nhiếm mặn vùng ven biển còn ở nhiều khu vực khác. Nước
mặn xâm nhập sâu kết hợp với suy giảm nguồn nước ở hạ lưu đã gây ảnh
hưởng lớn đến nhiều diện tích đất sản xuất nông nghiệp nói chung và đất
trồng cây lương thực nói riêng.
Đất bị khô hạn và hoang mạc hóa: Sự phối hợp không hài hòa giữa chế
độ nhiệt và chế độ mưa tạo nên sự khắc nghiệt có khả năng thúc đẩy các
quá trình hạn hán, hoang mạc hóa của đất. nguy cư nắng nóng và đất đai bị
khô cằn nhiều hơn làm giảm năng suất cây lương thực.
Đất bị ngập úng: Những năm gần đây, thiên tai, lũ lụt, hiện tượng triều
cường xảy ra liên tiếp đã làm cho vấn đề ngập úng đất ngày càng trở nên
nghiêm trọng.

13


Đất bị xói mòn, rửa trôi: Biến đổi khí hậu gây rối loạn chế độ mưa nắng,
nguy cơ nắng nóng nhiều hơn, lượng mưa thay đổi, lượng dinh dưỡng trong
đất bị mất cao hơn trong suốt các đợt mưa dài, gây ra hiện tượng xói mòn từ
trung bình đến mạnh.
Sạt lở đất: Tình hình sạt lở đất trong mấy thập niên vừa qua đã xảy ra rất
phổ biến với hai loại sạt lở đó là xói lở bờ biển, sạt lở đất ven sông và vùng
cao. Sạt đất, trượt lở đất không chỉ làm lấp đất đang sản xuất mà còn làm hư
hại đường giao thông, công trình xây dựng và có những vụ đã vùi một phần
diện tích bản làng, sông, suối.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, những thay đổi của khí hậu sẽ dẫn
đến sự biến đổi đặc tính của đất và ảnh hưởng trực tiếp đến sự thích hợp
sinh trưởng của các loại cây lương thực. Nhiều loại cây lương thực không
thể thích ứng kịp thời với sự thay đổi của thời tiết. Hiện tượng khô cằn, sa
mạc hóa hay ngập úng, xói mòn làm cho diện tích đất canh tác ngày càng
thu hẹp lại, điều này khiến cho sản lượng lương thực ngày càng suy giảm.
Mặt khác, về lâu dài, nếu tình trạng này còn tiếp tục kéo dài sẽ đe dọa đến
nền an ninh lương thực quốc gia – một vấn nạn đáng báo động trên toàn cầu
vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống của toàn nhân loại.
b. Tác động đến tài nguyên nước
Do sự nóng lên của khí hậu toàn cầu nên các lớp băng tuyết sẽ bị tan
nhanh trong những thập niên tới. Trong thế kỉ XX, mực nước biển tại châu
Á dâng lên trung bình 2,4mm/năm, riêng thập kỉ vừa qua là 3,1mm/năm, dự
báo sẽ tiếp tục dâng cao hơn trong thế kỉ XXI khoảng 2,8mm – 4,3mm/năm.
Là một quốc gia có địa hình tương đối trũng và thấp, Việt Nam đang trở
thành một trong năm quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi
khí hậu và nước biển dâng. Theo tính toán của các chuyên gia nghiên cứu
biến đổi khí hậu, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng

14


lên 3 độ C và mực nước biển có thể dâng lên 1m. Điều này sẽ gây ra những
trở ngại vô cùng lớn cho sự phát triển bền vững của đất nước, trong đó sản
xuất nông nghiệp được coi là một trong những lĩnh vực được đánh giá dễ bị
tổn thương nhất do biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Cụ thể, theo Ban Quản lý Dự án Tăng cường Năng lực Ứng phó với
Biến đổi Khí hậu, hợp phần Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn
(CBCC-MARD), cho biết các số liệu tổng kết đã chỉ ra rẳng, nước biển
dâng lên quá cao cũng như mưa bão với cường độ dày đặc đã gây ra ngập
lụt cho các cây lương thực chủ yếu là lúa ở các tỉnh miền Trung. Bình quân
mỗi năm nơi đây có 12 vạn lúa bị ngập úng, trong đó có trên 3,6 vạn ha bị
mất trắng, 7 vạn ha bị ảnh hưởng và có trên 6,2 vạn ha hoa màu bị ngập.
Theo dự báo của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC,
2007), nếu nước biển dâng lên 1m sẽ có khả năng ảnh hưởng tới 12% diện
tích và 10% dân số Việt Nam, làm ngập 5.000km 2 ở Đồng bằng Sông Hồng,
và từ 15.000 km2 đến 20.000 km2 ở Đồng bằng Sông Cửu Long và hàng
trăm ngàn héc-ta ven biển miền Trung. Ước tính Việt Nam sẽ mất đi rất
nhiều diện tích đất nông nghiệp. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng tạo ra
50% sản lượng lương thực và 40% giá trị nông nghiệp của cả nước. Tuy
nhiên, Đồng bằng sông Cửu Long được dự báo là vùng sẽ phải chịu tác
động của biến đổi khí hậu nhiều nhất và những tác động này sẽ ảnh hưởng
rất lướn đến an ninh lương thực của cả vùng cũng như toàn quốc.
Trên Báo An Minh Thủ Đô số ra ngày 4/3, các chuyên gia nông nghiệp
cho biết, nếu tình hình diễn ra đúng như dự báo thì đến năm 2010, vựa lúa
của Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn lúa/năm,
tương đương với với 40,5% tổng sản lượng lứa của cả vùng. Như vậy, Việt
Nam sẽ mất đi 21,39% sản lượng lúa vào năm 2100 và đối mặt với nguy cơ
thiếu lương thực trầm trọng.

15


Kết quả phân tích mô hình cây trồng của Viện Môi trường Nông nghiệp
cho thấy, biến đổi khí hậu nói chung và hiện tượng nước biển dâng nói
riêng có khả năng làm giảm năng suất của một số cây trồng chính. Cụ thể,
năng suất lúa Xuân sẽ giảm đi 405.8 kg/ha do tác động của nước biển dâng
vào năm 2030 và 716,6 kg/ha vào năm 2050. Vùng miền núi phía Bắc và
Tây Nguyên sẽ là vùng có năng suất lúa Đông xuân giảm mạnh.
c. Tác động đến tài nguyên không khí
Môi trường không khí được xem là môi trường trung gian tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến các môi trường khác. Nó là nơi chứa các chất độc
hại gây nên biến đổi khí hậu, và chính biến đổi khí hậu sẽ tác động ngược
lại môi trường không khí, làm cho chất lượng không khí ngày càng xấu hơn
đặc biệt là hiện tượng ô nhiễm không khí.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm không khí, trong đó có thể chia ra
thành nguồn tự nhiên và nguồn nhân tạo.
 Nguồn tự nhiên
- Núi lửa: Núi lửa phun ra những nham thạch nóng và nhiều khói bụi giàu
sunfua, mêtan và những loại khí khác. Không khí chứa bụi lan toả đi rất xa
vì nó được phun lên rất cao.
- Cháy rừng: Các đám cháy rừng và đồng cỏ bởi các quá trình tự nhiên xảy
ra do sấm chớp, cọ sát giữa thảm thực vật khô như tre, cỏ. Các đám cháy
này thường lan truyền rộng, phát thải nhiều bụi và khí.
- Bão bụi gây nên do gió mạnh và bão, mưa bào mòn đất sa mạc, đất trồng
và gió thổi tung lên thành bụi. Nước biển bốc hơi và cùng với sóng biển
tung bọt mang theo bụi muối lan truyền vào không khí.
- Các quá trình phân huỷ, thối rữa xác động, thực vật tự nhiên cũng phát
thải nhiều chất khí, các phản ứng hoá học giữa những khí tự nhiên hình


16


thành các khí sunfua, nitrit, các loại muối v.v... Các loại bụi, khí này đều
gây ô nhiễm không khí.
 Nguồn nhân tạo
- Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng, nhưng chủ yếu là do hoạt động
công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hoá thạch và hoạt động của các phương
tiện giao thông. Nguồn ô nhiễm công nghiệp do hai quá trình sản xuất gây
ra:
- Quá trình đốt nhiên liệu thải ra rất nhiều khí độc đi qua các ống khói của
các nhà máy vào không khí.
- Do bốc hơi, rò rỉ, thất thoát trên dây chuyền sản xuất sản phẩm và trên các
đường ống dẫn tải. Nguồn thải của quá trình sản xuất này cũng có thể được
hút và thổi ra ngoài bằng hệ thống thông gió.
- Các ngành công nghiệp chủ yếu gây ô nhiễm không khí bao gồm: nhiệt
điện, vật liệu xây dựng, hoá chất và phân bón, dệt và giấy, luyện kim, thực
phẩm, các xí nghiệp cơ khí.
- Các nhà máy thuộc ngành công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải, bên cạnh
đó phải kể đến sinh hoạt của con người.
Ô nhiễm không khí gây ảnh hưởng tai hại đến tất cả các loại sinh vật,
trong đó thì thực vật nói chung hay cây lương thực nói riêng lại rất nhạy
cảm đối với ô nhiễm không khí.
- Các loại khí SO2, NO2, Ozon, Fluor, Chì,... do ô nhiễm không khí tạo ra
sẽ gây hại trực tiếp cho cây lương thực khi đi vào khí khổng, làm hư hại hệ
thống giảm thoát nước và giảm khả năng kháng bệnh.

17



- Ô nhiễm không khí còn ngăn cản sự quang hợp và tăng trưởng của thực
vật, giảm sự hấp thu thức ăn, làm lá vàng và rụng sớm.
- Mưa acid còn tác động gián tiếp lên cây lương thực và làm cây thiếu thức
ăn như Ca và giết chết các vi sinh vật đất. nó làm ion Al được giải phóng
vào nước làm hại rễ cây ( lông hút) và làm giảm hấp thụ thức ăn và nước.
Với những tác động tiêu cực như trên, ô nhiễm không khí sẽ làm giảm
năng suất cũng như chất lượng của cây lương thực, từ đó cũng gây ra ảnh
hưởng không hề nhỏ đến sức khỏe của con người.
d. Tác động đến nhiệt độ
Theo một nghiên cứu mới được đưa ra gần đây tại hội nghị khoa học
đánh giá về tình trạng và hậu quả của trái đất ấm dần lên tại trường đại học
Oxford (Anh Quốc), nhiệt độ toàn cầu có thể tăng đến 4 độ C, đến năm
2050 nếu phát thải khí nhà kính vẫn có xu hướng tiếp tục tăng như hiện nay.
Các nhà khoa học cũng cho rằng nhiệt độ ấm dần lên sẽ có ảnh hưởng đặc
biệt nghiêm trọng đến một số khu vực như Bắc Cực, Tây và Nam Phi vì tại
những vùng này nhiệt độ có khả năng tăng đến thêm 10 độ C.
Xét trên phương diện sản xuất nông nghiệp và cụ thể là sản xuất cây
lương thực, biến đổi khí hậu cũng gây ra những tác động vô cùng tiêu cực.
Một mặt, nhiệt độ tăng do biến đổi khí hậu cũng khiến cho nhu cầu nước
tưới cao và dẫn đến thiếu hụt nguồn nước sử dụng cho trồng trọt. Trong
điều kiện nhiệt độ tăng lên 10 độ C thì nhu cầu nước tưới cho cây trồng sẽ
tăng 10% làm cho năng lực tưới của các công trình thủy lợi như hiện nay
không đáp ứng đủ. Mặt khác, nhiệt độ tăng đồng thời cũng gây ra dịch bệnh
và các loại sâu hại phát triển tốt hơn trong điều kiện cung cấp nước tối ưu.
Vì vậy, sự ấm lên toàn cầu có khả năng mở rộng sự phân bố các loại dịch
18


bệnh và sâu hại trên cây lương thực. Khí hậu đang có khuynh hướng ấm
hơn vào mùa đông có thể cho phép thời kỳ trứng của côn trùng sống qua

mùa đông và kết quả gây nên dịch bệnh trong suốt mùa vụ gieo trồng.

19


CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP
1. Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
a. Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu:
Thực trạng của biến đổi khí hậu toàn cầu đặt ra hai vấn đề lớn mà chúng
ta cần phải giải quyết:
Một là, làm giảm tác động biến đổi khí hậu.
Hai là, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Để làm giảm tốc độ của biến đổi khí hậu có liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác nhau nhất là nền kinh tế. Hiện nay tất cả các nước trên thế giới đang
sử dụng nguồn nhiên liệu có nguồn gốc hóa thạch như dầu lửa, than đá...
Cần phải sử dụng nhiên liệu hóa thạch một cách hợp lý để giảm khí thải nhà
kính.

Chúng ta cần phải tiết kiệm năng lượng, sử dụng các hình thực năng

lượng khác như nhiên liệu sinh học, năng lượng gió, năng lượng mặt trời,
năng lượng nguyên tử... thay thế các nhiên liệu dùng nhiên liệu hoá thạch
như than đá, dầu lửa.
Có rất nhiều các biện pháp liên ngành và đòi hỏi các chính sách phù hợp
với từng nước và từng địa phương với mục tiêu tối đa. Mặt khác, chúng ta
phải làm sao có những biện pháp đối phó thích nghi sống cùng biến đối khí
hậu và tránh thiệt hại tối đa, chính sách, truyền thông các biện pháp ứng
phó.
Để có thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu cần tăng cường các biện
pháp nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ các nước công nghiệp và

huy động sự tham gia nhiều hơn nữa của các nước đang phát triển, đề ra các
biện pháp khuyến khích các nước này hạn chế mức phát thải, đồng thời đảm
bảo tăng trưởng kinh tế.
20


b. Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Biến đổi khí hậu, mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển
dâng, là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ
21. Thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan khác đang gia tăng ở hầu
hết các nơi trên thế giới, nhiệt độ và mực nước biển trung bình toàn cầu tiếp
tục tăng nhanh chưa từng có và đang là mối lo ngại của các quốc gia trên
thế giới.
Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi
trường trên phạm vi toàn thế giới: đến 2080 sản lượng ngũ cốc có thể giảm
2 - 4%, giá sẽ tăng 13 - 45%, tỷ lệ dân số bị ảnh hưởng của nạn đói chiếm
36-50%; mực nước biển dâng cao gây ngập lụt, gây nhiễm mặn nguồn
nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp, và gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và
các hệ thống kinh tế - xã hội trong tương lai. Các công trình hạ tầng được
thiết kế theo các tiêu chuẩn hiện tại sẽ khó an toàn và cung cấp đầy đủ các
dịch vụ trong tương lai.
Ở Việt Nam, trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng
khoảng 0,7 độ C, mực nước biển đã dâng khoảng 20 cm. Hiện tượng ElNino, La-Nina ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Biến đổi khí
hậu thực sự đã làm cho các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng
ác liệt. Theo tính toán, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 3 độ
C và mực nước biển có thể dâng 1m vào năm 2100. Nếu mực nước biển
dâng 1 m, khoảng 40 nghìn km2 đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập
hàng năm, trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long bị ngập hầu như hoàn toàn.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong năm nước

sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của BĐKH và nước biển dâng, trong đó vùng
đồng bằng sông Hồng và sông Mê Công bị ngập chìm nặng nhất. Nếu mực
21


nước biển dâng 1m sẽ có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn
thất đối với GDP khoảng 10%. Nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25%
dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất đối với GDP lên tới 25%.
Hậu quả của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là một
nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các
mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước. Các lĩnh
vực, ngành, địa phương dễ bị tổn thương và chịu tác động mạnh mẽ nhất
của biến đổi khí hậu là: tài nguyên nước, nông nghiệp và an ninh lương
thực, sức khoẻ; các vùng đồng bằng và dải ven biển.
Nhận thức rõ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, Chính phủ Việt Nam đã
sớm tham gia và phê chuẩn Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về
BĐKH và Nghị định thư Kyoto. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã triển khai
các chương trình, dự án nghiên cứu tình hình diễn biến và tác động của biến
đổi khí hậu đến tài nguyên, môi trường, sự phát triển kinh tế - xã hội, đề
xuất và bước đầu thực hiện các giải pháp ứng phó. Bên cạnh đó, trong
Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007, Chính phủ đã
giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, phối hợp với các bộ, ngành liên
quan xây dựng “Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí
hậu toàn cầu” nhằm ứng phó có hiệu quả với những tác động trước mắt và
tiềm tàng của biến đổi khí hậu.
Theo đó, nhiệm vụ chủ yếu của chương trình bao gồm:
(1) Đánh giá mức độ và tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam
(2) Xác định các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu
(3) Xây dựng chương trình khoa học công nghệ về biến đổi khí hậu
(4) Tăng cường năng lực tổ chức, thể chế, chính sách về biến đổi khí hậu

22


(5) Nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực
(6) Tăng cường hợp tác quốc tế
(7) Tích hợp yếu tố biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và địa phương
(8) Xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu.
2. Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong sản xuất cây lương thực
a. Một số giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu trong nông nghiệp trên
thế giới
Ở Canada:
 Thay đổi địa hình đất nông nghiệp
 Thay đổi thời vụ sản xuất
 Thay đổi hoạt động canh tác
 Sử dụng các hệ thống nhân tạo để nâng cao khả năng sử dụng và cung
cấp nước, chống xói mòn.
Ở Zimbabwe:
Thực hiện các giải pháp “phản ứng” (reactive) và giải pháp “phòng
ngừa” (anticipation). Các giải pháp “phản ứng” có xu hướng nảy sinh từ sự
“cảm nhận” của nông dân về sự biến đổi đã diễn ra hoặc đang biến đổi các
điều kiện sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, hạn hán ở Zimbabwe hiện đang
tái xuất hiện với sự biến đổi mạnh mẽ và đã đến mức báo động đối với
chính phủ và cộng đồng nông dân, đòi hỏi phải kiểm tra, xem xét lại thực
tiễn về quản lý, sử dụng đất và hạ tầng hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp và
nông thôn. Tiềm năng của các giải pháp “phản ứng” trong thích ứng với
23


nông nghiệp tỏ ra có nhiều triển vọng ở cấp nông trang. Những giải pháp

thích ứng loại này bao gồm:
- Thay đổi sử dụng đất: Nhiều vùng đất sản xuất nông nghiệp bị hạn được
chuyển sang phát triển du lịch sinh thái, trồng các loại cây khác hoặc giống
cây trồng chịu hạn cao và ít sâu bệnh.
Việc canh tác nông nghiệp đơn thuần một loại cây, con (monoculture) có
nhiều khả năng bị tổn hại do biến đổi khí hậu và dịch bệnh được chuyển
sang các hệ canh tác đa dạng hơn giúp cho nông dân đối phó với biến đổi
khí hậu.
- Thay đổi cách quản lý: Cũng có thể làm giảm những tác động xấu của biến
đổi khí hậu. Chẳng hạn, thay đổi thời vụ sản xuất (gieo trồng, bón phân,
tưới tiêu, trừ sâu…) có thể làm giảm khả năng tổn hại.
- Tăng cường hạ tầng kỹ thuật: Ở những vùng nhiệt độ cao, khả năng bốc hơi
lớn, việc tăng cường các hệ thống thủy lợi (tưới) đi đôi với thay đổi thiết kế
đồng ruộng và các thiết bị được đầu tư sử dụng có hiệu quả rõ rệt trong việc
nâng cao khả năng cung cấp nước. Chi phí cho xây dựng đập hiện nay sẽ
thấp hơn nhiều so với chi phí trong tương lai.
Các giải pháp “phòng ngừa” thường được triển khai ở quy mô quốc gia
với sự trù liệu dài hạn, hướng tới ảnh hưởng lớn tới cộng đồng. Nông
nghiệp chịu ảnh hưởng nhiều mặt và rộng rãi từ các chính sách của chính
phủ (chi phí đầu tư, giá sản phẩm, cơ cấu thị trường…). Các chính sách của
chính phủ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên đất, tài nguyên nước.
Thông qua các chính sách của chính phủ về phát triển hạ tần kỹ thuật,
nghiên cứu và triển khai, giáo dục, quản lý tài nguyên, giá cả, chính phủ có

24


thể thực hiện được cả 2 giải pháp thích ứng “phản ứng” và thích ứng
“phòng ngừa”.
Ở Ai Cập:

Các giải pháp tăng cường quản lý tài nguyên và chiến lược thích ứng có
hiệu quả bao gồm:
 Quản lý nguồn nước
 Quản lý đất
 Chuyển đổi cây trồng thích nghi với biến đổi khí hậu.
b. Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong sản xuất cây lương thực
ở Việt Nam
 Giải pháp giảm nhẹ biến đổi khí hậu:
- Giảm phát thải khí nhà kính trong quản lý và cải thiện kỹ thuật canh tác
cây lương thực:
 Cải tiến quản lý tưới tiêu lúa nước.
 Cải tiến chế độ bón phân đối với các loại cây lương thực.
 Bồi dưỡng đất hữu cơ bị mất dinh dưỡng.
 Bồi hoàn và phục dưỡng đất thoái hóa các loại.
- Giải pháp sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học trong việc trồng cây
lương thực:
 Phân tích các quan hệ giữa biến đổi khí hậu và an ninh lương thực.
 Quy hoạch cây trồng và mùa vụ sản xuất nhiên liệu sinh học từ cây lượng
thực.
25


×