Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

tiểu luận tài chính tiền tệ hệ thống ngân hàng thương mại việt nam hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.01 KB, 61 trang )

Chương I
1

Lý thuyết chung về NHTM

Khái niệm NHTM

Theo Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng 2010 thì:
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng.
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng một hoặc một số những nghiệp vụ:
1.1

Nhận tiền gửi

Đây là một hoạt động cơ bản của NHTM. Ngân hàng nhận được các khoản tiền gửi của
khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của cá nhân, của tổ chức và các
doanh nghiệp. Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi
khách hàng có nhu cầu sử dụng đến rút tiền ở ngân hàng.
1.2

Cấp tín dụng

Quan hệ tín dụng là sự vay mượn sử dụng vốn của lẫn nhau dựa nguyên tắc hoàn trả và sự
tin tưởng.
Có các phương thức cấp tín dụng:
1.3

Chiết khấu thương phiếu
Thấu chi


Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay theo hạn mức
Cho vay luân chuyển
Cho vay trả góp
Cho vay gián tiếp
Cho thuê tài sản ( thuê mua)
-Bảo lãnh (hoặc tái bảo lãnh)
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản

NHTM được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán
giữa các ngân hàng với nhau thông qua ngân hàng nhà nước, NHTM phải mở tài khoản
1


tiền gửi tại ngân hàng nhà nước nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tiền gửi dự trữ bắt
buộc theo quy định. Chi nhánh của NHTM được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh ngân
hàng nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Họat động dịch vụ thanh toán
và ngân quỹ của NHTM bao gồm:

2

-

Cung cấp các phương tiện thanh toán
Thực hiện dich vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
Thu hộ và chi hộ
Dịch vụ thanh toán khác theo quy định của ngân hàng nhà nước
Dich vụ thanh toán quốc tế khi được ngân hàng nhà nước cho phép
Dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng
Tổ chức hệ thống thanh tóan nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân


-

hàng trong nước
Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được ngân hàng nhà nước cho phép
Chức năng của NHTM

2.1

Chức năng trung gian tín dụng

NHTM làm "cầu nối" giữa người thừa vốn và người thiếu vốn và nó đã không chỉ đem lại
lợi ích cho những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà còn đem lại lợi ích
kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế.
Thực hiện chức năng trung gian tín dụng, các NHTM thực hiện những nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
-

Nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn của các đơn vị kinh tế các tổ chức và cá nhân

-

bằng đồng tiền trong nước và ngoại tệ.
Nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức và cá nhân.
Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu NH để huy động vốn trong xã hội.
Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các đơn vị, cá nhân.
Chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá đối với các đơn vị cá nhân.
Cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp và các loại hình tín dụng khác đối với tổ chức và
cá nhân.


Chức năng trung gian tín dụng của NHTM có vai trò và tác dụng rất to lớn đối với nền
kinh tế:

2


-

Nhờ thực hiện chức năng này mà hệ thống NHTM huy động và tập trung hầu hết các
nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của xã hội, biến tiền nhàn rỗi từ chỗ là phương

-

tiện cất trữ thành nguồn vốn lớn của nền kinh tế.
Nhờ thực hiện chức năng này mà hệ thống NHTM cung ứng 1 khối lượng lớn vốn tín
dụng cho nền kinh tế.

2.2

Chức năng trung gian thanh toán

Ngân hàng đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này
sang tài khoản khác theo yêu cầu của họ. Thông qua chức năng này Ngân hàng đóng vai
trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tiền
của khách hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì
chức năng này của ngân hàng ngày càng được mở rộng.
Đối với NHTM chức năng này góp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc thu
lệ phí thanh toán. Hơn nữa, nó lại tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số
dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở để hình
thành chức năng tạo tiền của NHTM.

2.3

Chức năng “tạo tiền”

Là chức năng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu chuyển
và phát triển nền kinh tế.
Chức năng tạo tiện là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với
mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của
mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung
thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở
hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông
qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay,
số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong
khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận
của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức

3


năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.

U1: Tiền gửi

ban đầu

N: số NH tham gia quá trình tạo tiền
Sn: tổng số tiền bút tệ được tạo ra
3
3.1


Phân loại NHTM
Phân loại theo hình thức sỡ hữu
NHTM nhà nước
NHTM cổ phần
NHTM tư nhân
NHTM liên doanh

3.2

Phân loại theo tính chất hoạt động
NHTM chuyên doanh
NHTM đa năng

3.3

Căn cứ vào chiến lược kinh doanh
NH bán buôn
NH bán lẻ

3.4

Căn cứ vào cơ cấu tổ chức
NH sỡ hữu công ty
Công ty sỡ hữu ngân hàng

4


4


Các hoạt động chủ yếu của NHTM

4.1
4.1.1

Nghiệp vụ nguồn vốn (Tài sản Nợ – NGUỒN VỐN) của NHTM
Vốn tự có:

Vốn tự có (vốn chủ sở hữu): là vốn riêng của 1 NHTM, là số vốn ban đầu và được gia
tăng không ngừng cùng với quá trình phát triển của NHTM.
-Đặc điểm vốn tự có:
+ Chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn (từ 5% - 10%)
+ Có tính ổn định cao và luôn được bổ sung trong quá trình tồn tại và phát triển của
NHTM.
+ Quyết định quy mô hoạt động NHTM và là nhân tố xác định tỷ lệ an toàn trong hoạt
động kinh doanh của NHTM.
4.1.2

Vốn huy động

Là TS bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân hàng đang tạm thời quản lý và sử
dụng với trách nhiệm hoàn trả. Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất
của bất kỳ 1 NHTM nào.
- Đặc điểm vốn huy động
+ Vốn huy động trong NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM. Các
NHTM hoạt động được chủ yếu nhờ vào nguồn vốn này.
+ Vốn huy động trong NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM. Các
NHTM hoạt động được chủ yếu nhờ vào nguồn vốn này.Có chi phí sử dụng vốn tương đối
cao và chiếm tỷ trọng chi phí đầu vào rất lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.

+ Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh cao gay gắt giữa các ngân hàng.
+ VHĐ chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng và bảo lãnh, các NHTM không
được sử dụng nguồn vốn này để đầu tư.
5


- Cơ cấu vốn huy động trong NHTM:
+Tiền gửi không kỳ hạn
+Tiền gửi có kỳ hạn
+Phát hành chứng từ có giá
+Nguồn vốn huy động khác: Tiền gửi ký quỹ, tiền gửi đảm bảo thanh toán; tiền tạm giữ,
tiền đang chuyển...
4.1.3

Vốn đi vay

Vốn đi vay là nguồn vốn giúp cho NHTM bổ sung nguồn vốn ngắn hạn của mình để đảm
bảo duy trì hoạt động 1 cách bình thường.
- Cơ cấu vốn đi vay:
+ Tái cấp vốn
+ Cho vay thanh toán
4.1.4

Vốn khác

Vốn tiếp nhận:
Là nguồn vốn tài trợ của chính phủ, của các tổ chức tài chính tiền tệ, các tổ chức đoàn thể
- xã hội để tài trợ cho các chương trình dự án về phát triển Kinh tế - xã hội...và được
chuyển qua NHTM thực hiện.
4.2


Nghiệp vụ sử dụng vốn (tài sản Có – TÀI SẢN) (cấp tín dụng và đầu tư)

Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng thương mại bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến
việc sử dụng các khoản vốn huy động được từ Nghiệp vụ tài sản nợ.
4.2.1

Nghiệp vụ ngân quỹ

Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng luôn giữ một lượng
tiền mặt dưới các dạng sau:

6


-

Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng (vault cash): tuỳ theo qui mô hoạt động, tính thời
vụ, các ngân hàng phải duy trì mức tồn quỹ tiền mặt để thực hiện chi trả trong

-

ngày.
Tiền gửi tại các ngân hàng thương mại khác: để thực hiện các nghiệp vụ thanh

-

toán, chuyển tiền cho khách hàng.
Tiền gửi tại ngân hàng trung ương: bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo qui định
của ngân hàng trung ương và tiền gửi thanh toán để phục vụ các hoạt động thanh

toán giữa các ngân hàng thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân hàng

-

trung ương.
Tiền mặt trong quá trình thu: là khoản phát sinh do quan hệ thanh toán vãng lai
giữa cácngân hàng, khi ngân hàng đã ghi vào bên nợ nhưng thực chất lại chưa nhận
được tiền. Ví dụ một tờ séc được phát ra từ một tài khoản ở ngân hàng A, được gửi
vào ngân hàng B và số tiền ở séc này còn chưa đến ngân hàng B. Tờ séc này được
coi như là tiền mặt trong quá trình thu, nó là một tài sản Có đối với ngân hàng B vì
ngân hàng B có quyền đòi ở ngân hàng A số tiền đó và số tiền này sẽ được thanh
toán sau một ít ngày (ngân hàng B đã ghi có cho tài khoản tiền gửi của khách hàng,
ghi nợ ngân hàng nhưng số tiền đó chưa đến ngân hàng nên phải ghi nợ vào tài
khoản để đối ứng).

Ngoài tiền mặt, ngân hàng còn giữ các chứng khoán ngắn hạn, có tính lỏng cao để có thể
chuyển thành tiền mặt nhanh chóng khi cần như tín phiếu, thương phiếu v.v...
Lượng tiền mặt trong nghiệp vụ ngân quĩ này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ và tỷ trọng này
đang bị giảm dần (ở Mỹ năm 1960 nó chiếm 20% tổng tài sản có, năm 1990 tỷ lệ này chỉ
còn 7%).
4.2.2

Nghiệp vụ cho vay

Hoạt động cho vay được xem là hoạt động sinh lợi chủ yếu của các ngân hàng trung gian
nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. Có thể nêu một số loại hình chủ yếu sau:
-

Cho vay ứng trước: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung cấp cho người đi
vay một khoản tiền vay nhất định để sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả lãi

vào lúc hoàn trả vốn gốc.
7


-

Cho vay theo hạn mức tín dụng: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng và khách
hàng thoả thuận trước số tiền tối đa (gọi là hạn mức tín dụng) mà khách hàng được

-

vay từ ngân hàng trong một khoản thời gian nhất định.
Cho vay thấu chi: là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó ngân hàng
cho phép khách hàng chi vượt quá số tiền dư trên tài khoản vãng lai trong một hạn
mức và thời hạn nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với khách

-

hàng.
Cho vay chiết khấu: Là cho vay dưới hình thức Ngân hàng thương mại mua lại các
thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên thương phiếu.
Khi đến hạn trả tiền thì ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi trên thương phiếu ở
người trả tiền thương phiếu. Phần lãi của ngân hàng chính là khoản chênh lệch

-

giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu.
Tín dụng uỷ thác thu hay bao thanh toán (Factoring): là nghiệp vụ trong đó công ty
"factor"- công ty con của ngân hàng - cam kết mua lại các khoản thanh toán chưa
tới hạn phát sinh từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá và dịch vụ với


-

giá chiết khấu. Các khoản nợ này thường là ngắn hạn (từ 30 đến 120 ngày).
Cho vay thuê mua (Leasing): còn được gọi là tín dụng thuê mua, là hình thức tín
dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc,
thiết bị, các động sản và bất động sản khác. Ngân hàng sẽ dùng vốn của mình để
mua tài sản theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản
cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn

-

thuê.
Cho vay bằng chữ ký: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng không trực tiếp
cho khách hàng vay bằng tiền nhưng bằng uy tín (chữ ký) của mình, ngân hàng tạo
điều kiện để khách hàng sử dụng vốn vay của người khác và đảm bảo thanh toán
hộ khách hàng. Cho vay tiêu dùng: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng tài trợ
cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Tín dụng tiêu dùng thường dưới hình thức cho
vay để mua trả góp (tín dụng trả góp) hoặc cho vay qua việc phát hành thẻ tín
dụng.

8


Nghiệp vụ cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc tài sản Có của ngân hàng
(khoảng 70%).
4.2.3

Nghiệp vụ đầu tư


Là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại dùng vốn của mình mua các chứng khoán (các
chứng khoán chính phủ và một số chứng khoán công ty lớn - luật của Mỹ không cho phép
ngân hàng được phép nắm giữ cổ phiếu) hoặc đầu tư theo dự án.
Ở Việt Nam, Luật các Tổ chức tín dụng còn cho phép các ngân hàng được dùng vốn điều
lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hay của các tổ chức tín dụng
khác.
4.2.4

Những tài sản có khác

Đó là những vốn hiện vật như trụ sở làm việc, máy móc, trang thiết bị dùng cho hoạt động
do ngân hàng sở
4.3

Nghiệp vụ Trung gian

Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản nói trên, trong quá trình hoàn thiện chức năng và vai trò của
mình, các NHTM còn được thực hiện một số các nghiệp vụ khác của một trung gian tài
chính như:
4.3.1

Nghiệp vụ bảo lãnh

là việc ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không
có khả năng thanh toán.
4.3.2
-

Nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt

Thanh toán ngoại hối, vàng bạc đá quý
Nhận ủy thác, ký gửi, tư vấn tài chính..
Thu hộ, chi hộ, chuyển tiền, thanh toán theo L/C

9


Chương II Toàn cảnh hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay
1
1.1

Cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay
Về mặt số lượng

Tính đến 30/6/2016, theo số liệu của NHNN, hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay có hơn
130 NHTM và chi nhánh NH nước ngoài, cụ thể : 4 NHTM nhà nước, 31 ngân hàng
thương mại cổ phần, 7 ngân hàng 100% vốn nước ngoài (Woori Bank đã được NHNN
cấp phép) và 100 chi nhánh, văn phòng đại diện, 2 ngân hàng liên doanh.
Những ngân hàng thương mại trong nước hiện đang nắm giữ khoảng gần 90% thị phần
(cả tiền gửi và cho vay), trong đó riêng các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 70%.
Phần các ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm khoảng dưới 10% thị phần.
So với các nước trên thế giới, Việt Nam có quá nhiều ngân hàng nhỏ và giống nhau. Như
Australia, Nhật Bản, những thị trường mà hệ thống ngân hàng khá gọn gàng, chỉ có 3-4
ngân hàng quy mô lớn và khách hàng chẳng có cơ hội để lựa chọn. Hơn nữa, việc có quá
nhiều ngân hàng hoạt động trên một lãnh thổ quy mô nhỏ sẽ dẫn đến việc các ngân hàng
cạnh tranh không lành mạnh bằng giá ( lãi suất ) hoặc cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ.
Đáng buồn thay, hệ thống NHTM ở Việt Nam hiện nay đang đi theo xu hướng cạnh tranh
bằng lãi suất. Đây là một trong những biện pháp tối kị trên thế giới.
1.2


Về năng lực tài chính:

Tính đến 30/6/2016 , 35/35 NHTM trong nước có vốn điều lệ đạt từ 3.000 tỷ đồng trở
lên.Một số ngân hàng chạm mốc 3000 tỷ hoặc hơn không đáng kể, đó là: Ngân hàng
TNHH MTV Dầu khí toàn cầu (3.018 tỷ đồng), Ngân hàng TNHH MTV Xây dựng (3000
tỷ đồng), BảoViệt (3.150 tỷ đồng), Bản Việt(3000 tỷ đồng), Kiên Long (3000 tỷ đồng),
Nam Á(3.021 tỷ đồng), Quốc dân(3.010 tỷ đồng), Sài Gòn Công Thương(3.080 tỷ đồng)
Việt Nam Thương Tín(3000 tỷ đồng), Xăng dầu Petrolimex (3.00 tỷ đồng).Có 4 NHTM
nhà nước có vốn điều lệ lớn nhất là Vietinbank(37.234 tỷ đồng), BIDV (34.187,2 tỷ
đồng),Agribank (29.031 tỷ đồng), VCB (26.650 tỷ đồng).
10


THỐNG KÊ MỘT SỐ CHỈ TIÊU CƠ BẢN
(đến 30/9/2016, tốc độ tăng trưởng so với thời điểm cuối năm trước liền kề)
Đơn vị: tỷ đồng, %
- Tháng 9/2016 (kỳ số liệu: hàng tháng)
Loại

hình Tổng tài sản có

TCTD

Số
đối

Vốn tự có

Tỷ


lệ Tỷ lệ vốn

tuyệt Tốc độ Số tuyệt Tốc độ Số tuyệt Tốc độ an
toàn
tăng
đối
tăng
đối
tăng
trưởng

(1)
NHTM

Vốn điều lệ

trưởng

trưởng

ngắn hạn
cho

vay

vốn tối trung, dài
thiểu

hạn


(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

3,690,463

11.70

218,362

7.39

141,693

0.07

9.48


36.13

157,753

9.40

10,696

0.00

3,198,341

9.23

249,213

5.45

197,280

1.70

12.10

41.45

826,789

9.42


127,341

8.69

103,517

10.18

33.36

tài chính, 103,851

18.23

19,061

7.60

18,808

1.87

20.20

52.79

cho thuê
Ngân hàng 25,673

17.20


3,561

3,025

0.81

29.33

14.63

Nhà nước
Ngân hàng
Chính
sách



hội
NHTM
Cổ phần
NH Liên
doanh,
nước
ngoài
Công

ty

Hợp tác xã


2.55
11


Quỹ

tín

dụng nhân 88,486
dân
Toàn

13.96

3,382

9.02

478,399

2.96

hệ

thống

8,091,355

10.55


617,538

6.84

12.73

34.48

Ghi chú: Nguồn số liệu dựa trên Báo cáo cân đối tài khoản kế toán, báo cáo thống kê
tháng 9/2016.
- Khối NHTM Nhà nước bao gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam, Ngân hàng thương mại TNHH MTV Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng TM
TNHH MTV Dầu Khí Toàn Cầu, Ngân hàng thương mại TNHH một thành viên Đại
Dương;
- Số liệu cột (4), (5), (8), (9) không bao gồm ngân hàng Chính sách xã hội (không thuộc
đối tượng báo cáo) và Quỹ tín dụng nhân dân;
- Vốn tự có, tỷ lệ CAR đã loại bỏ các TCTD có Vốn tự có âm;
- Chỉ tiêu Tổng tài sản có tính theo Thông tư 49/2014/TT-NHNN.
- Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của Khối ngân hàng Liên doanh, nước
ngoài không có giá trị do khối này không sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung,
dài hạn.

Quý II/2016 (kỳ số liệu: hàng quý)
Đơn vị: %
12



Ghi chú: Nguồn số liệu dựa trên Cân đối tài khoản kế toán, Báo cáo tài chính Quý II2016.
- Khối NHTM Nhà nước bao gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam, Ngân hàng thương mại TNHH MTV Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng TM
TNHH MTV Dầu Khí Toàn Cầu, Ngân hàng thương mại TNHH một thành viên Đại
Dương;
- Loại bỏ các TCTD có vốn chủ sở hữu âm khi tính ROA, ROE
1.3

Thị phần dư nợ tín dụng:

Tính đến hết ngày 31/07/2016, tổng dư nợ tín dụng các ngân hàng cấp cho nền kinh tế đạt
mức 5,6 triệu tỷ đồng, tương đương 133% GDP
13


Theo thông tin từ Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tổng nguồn vốn cung ứng cho nền
kinh tế đạt trên 7,4 triệu tỷ đồng, tăng 12,5% so với thời điểm cuối năm 2015.Trong đó,
vốn cung ứng của khu vực ngân hàng chiếm 74,9%, tương đương 5,6 triệu tỷ đồng. Nếu
tính theo GDP của Việt Nam năm 2015 là khoảng 4,2 triệu tỷ đồng thì tổng dư nợ tín dụng
ngân hàng trong nền kinh tế hiện đang bằng khoảng 133% GDP.
-Thị phần dư nợ của các ngân hàng TMNN:
Vị trí số 1 về dư nợ tín dụng tiếp tục thuộc về BIDV với con số 657.623 tỷ đồng. Vị trí số
2 thuộc về VietinBank với 592.866 tỷ đồng. Vietcombank ở vị trí số 3 với dư nợ tín dụng
ở mức 427.240 tỷ đồng.

Trong số “tam trụ” ngành ngân hàng gồm BIDV, VietinBank và Vietcombank thì BIDV là
ngân hàng có vốn chủ sở hữu thấp nhất với 44.422 tỷ đồng tính đến thời điểm kết thúc
ngày 30/06/2016, trong khi con số này ở VietinBank và Vietcombank lần lượt là 59.511 tỷ

đồng và 48.673 tỷ đồng. Thế nhưng BIDV lại là ngân hàng dẫn đầu về dư nợ tín dụng
trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, để duy trì vị trí này, BIDV đã phải chịu những áp lực
đáng kể.
Cụ thể, chi phí lãi của BIDV thời điểm kết thúc năm 2014, năm 2015 và 6 tháng đầu năm
2016 đều chiếm trên 60% thu nhập lãi của ngân hàng này, trong khi con số này của
14


VietinBank và BIDV luôn dưới 60%.Song hành cùng với sự dẫn đầu về dư nợ tín dụng
cũng, BIDV cũng dẫn đầu luôn cả về nợ xấu.
-Thị phần dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng:

Dư nợ tín dụng

40.80%

45.50%

NHTM NN
Top 5 NHTMCP
Các NH còn lại

13.70%

Qua báo cáo tài chính 3 quý của năm 2016 cho thấy, dư nợ tín dụng cải thiện đáng kể ở
nhiều nhà băng, cả lớn và nhỏ. Tại nhóm ngân hàng thương mại có vốn nhà nước gồm:
Ngân hàng TMCP Ngoại thương (Vietcombank); Ngân hàng TMCP Công thương
(VietinBank); Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), dư nợ tín dụng
tăng trưởng trên dưới 8% sau 3 quý. Vai trò của nhóm này được thể hiện rõ qua việc tham
gia tích cực, hiệu quả trong tái cơ cấu, tiếp quản, nhận sáp nhập các NHTMCP yếu kém;

đề xuất, thực hiện và triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi của Chính phủ và
NHNN. Đi đầu trong thực hiện các chủ trương chính sách của Chính phủ, NHNN đặc biệt
trong giảm lãi suất huy động, lãi suất cho vay và góp phần quyết định hình thành mặt
bằng lãi suất trên thị trường theo đúng định hướng của ngành trong từng thời kỳ. Kế tiếp
là nhóm cổ phần thuộc Top thứ 2, gồm các ngân hàng Á Châu, Techcombank, MB,
VPBank…, cũng có sự cải thiện đáng kể về tăng trưởng tín dụng.
15


Sau 3 quý vừa qua, tín dụng ACB tăng 17%. Năm 2016, ACB đặt mục tiêu tăng trưởng tín
dụng 18 - 20%, cao hơn toàn ngành. Đến cuối tháng 9/2016, huy động vốn của VPBank
tăng trưởng ở mức 9%, dư nợ tăng 11%.Đáng chú ý ở một số nhà băng nhỏ và vừa, tỷ lệ
tăng trưởng tín dụng đều ở mức trên dưới 25%, như Ngân hàng Nam Á (Nam A Bank) 9
tháng, dư nợ tín dụng tăng 24%; OCB đến cuối tháng 6/2016 tăng 21%.Dư nợ tín dụng
tăng trưởng ở mức cao trong 9 tháng năm nay, song nhiều nhà băng vẫn muốn có thêm dư
địa cho vay, nên trình NHNN xin được nâng room . Viet Capital Bank vừa được NHNN
chấp thuận cho nới room tín dụng lên 30%. OCB cũng được NHNN chấp thuận nới room
lên mức 25%.
1.4

Thị phần tiền gửi

Bất chấp nền kinh tế đi lên hay đi xuống, dòng vốn từ thị trường 1 (với đối tượng là dân
cư và các tổ chức kinh tế) vẫn chảy mạnh về các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong
năm nay.Các NHTM NN vẫn là khối chiếm lĩnh thị phần tiền gửi với 47.5% huy động
vốn toàn ngành. Theo báo cáo tháng 10 của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, nguồn
vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư tăng 14,1%, trong khi cùng kì năm trước chỉ
tăng 8%. Dòng vốn vào tăng còn nhanh hơn là tốc độ của dòng vốn đi ra (tín dụng) với
mức tăng 12,5%.
16



Đi sâu vào từng ngân hàng thương mại, có thể thấy nếu xét về con số huy động tuyệt đối,
các ngân hàng đã có tên tuổi với quy mô tài sản rất lớn và hệ thống chi nhánh lớn đang
chiếm lĩnh thị trường vẫn tăng trưởng lượng tiền gửi nói chung dù một vài ngân hàng
không ổn định trong 9 tháng đầu năm nay. Có thể lấy ví dụ như Ngân hàng Quân Đội
(3%), Eximbank (4,8%), Sacombank (9,4%); tăng trưởng ở mức khá hơn thì có
Techcombank, ACB (xoay quanh mức 15%); nhưng ngược lại, lượng huy động vốn của
VPBank lại giảm gần 3% so với thời điểm cuối năm ngoái. Ở phân khúc các ngân hàng có
quy mô tài sản nhỏ, nhiều ngân hàng vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ở mức cao. Lấy ví
dụ tăng trưởng lượng tiền gửi khách hàng ở Ngân hàng LienVietPostBank đạt khoảng gần
35% còn Nam Á Bank khoảng hơn 32%.
Từ việc phân tích thị phần dư nợ tín dụng và thị phần tiền gửi, ta có biểu đồ về mối tương
quan:

2

Cảnh báo về sự bất ổn của hệ thống NHTM Việt Nam

Điều dễ nhận thấy trong giai đoạn 1 (2011-2015) tái cơ cấu NH là xuất hiện những cái tên
mới, nhận diện mới thông qua sáp nhập, hợp nhất và mua lại các NH. Đi cùng với đó là
sự thay đổi bên trong về quan hệ sở hữu, quản trị và năng lực tài chính. Giai đoạn 2
(2016 - 2020) là lúc tạo chuyển biến mạnh mẽ trong đổi mới hoạt động, nâng cao quản trị
theo thông lệ quốc tế, củng cố nền tảng để tăng hiệu quả, mở rộng quy mô và phạm vi
17


hoạt động, nâng cao năng lực canh tranh. Để đạt được những điều trên đòi hỏi, hệ thống
NHTM Việt Nam cần giải quyết được những bất ổn sau.
2.1


Khát vốn – lãi suất huy động đang được đẩy lên
-

Nguyên nhân gây ra “khát vốn” :

Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đòi hỏi ngành ngân hàng phải gia tăng năng
lực tài chính. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề ngân hàng Việt đang phải đối mặt khi gần đây
nhiều ngân hàng tăng vốn lên rất khó khăn.
Ảnh hưởng từ việc áp dụng Basel 2 (trước năm 2019) dẫn đến áp lực tăng vốn sẽ ảnh
hưởng nhiều nhất đến 3 ngân hàng quốc doanh đang niêm yết trên sàn chứng khoán là
Vietcombank, Vietinbank và BIDV. Với thời hạn kể trên, tăng vốn đã trở thành vấn đề cấp
thiết đối với hầu hết các ngân hàng. Nếu không nâng vốn, tăng trưởng tín dụng của
Vietinbank và BIDV có thể sẽ bị hạn chế đáng kể trong nửa đầu 2017 cho đến khi các
ngân hàng này có thể tăng vốn thành công.
Theo dự thảo sửa đổi Thông tư 36 quy định tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn cho vay trung,
dài hạn từ 60% giảm về 40%. Hiện nay, tỷ lệ này tại các NHTM có vốn nhà nước 33,91%
và tại NHTMCP 35,58%. Nguồn vốn để cho vay dài hạn không còn nhiều nên các NH
chạy đua tăng lãi suất để gia tăng nguồn vốn, đảm bảo tăng trưởng tín dụng. Theo các
NHTM, giải pháp xử lý đối với vấn đề này là phải gia tăng vốn huy động dài hạn và giảm
bớt tỷ lệ cho vay trung, dài hạn bằng vốn ngắn hạn.
Việc không ít NH tư vấn cho khách hàng lách trần lãi suất huy động đối với kỳ hạn ngắn
để được hưởng lãi suất cao hơn theo quy định như trong thời gian vừa qua cho thấy nhu
cầu vốn của NH vẫn rất lớn. Thông thường nhu cầu vốn của một NH tăng do phải đáp ứng
nhu cầutăng trưởng tín dụng hay để củng cố tình hình tài chính của mình, hoặc cả 2 mục
tiêu này. Đến nay số liệu tăng trưởng tín dụng cả nước đầu năm 2016 chưa được công bố,
nhưng số liệu tại TP.HCM rất khả quan với 4 tháng đầu năm đạt 3,2%, so với âm 0,8%
cùng kỳ năm ngoái; tại Hà Nội cũng khá tích cực với tăng trưởng 4,8% so với cùng kỳ
năm ngoái.
18



Năm 2016, kế hoạch phát hành TPCP là 220.000 tỷ đồng cũng đã tạo áp lực huy động vốn
đối với các TCTD, vì đặc thù của thị trường TPCP là trên 80% do các TCTD nắm
giữ.Theo công bố của Bộ Tài chính, tính đến ngày 6-5 Việt Nam đã thực hiện phát hành
được gần 111.791 tỷ đồng TPCP bù đắp bội chi ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát
triển, đạt xấp xỉ 50,8% nhiệm vụ huy động vốn trong nước năm 2016. Để tiếp tục thực
hiện phần còn lại, các NHTM chắc chắn phải tiếp tục tăng cường huy động để hoàn thành
kế hoạch và sẽ tạo ra áp lực đối với lãi suất.
-

Gia tăng lãi suất – biện pháp để các ngân hàng hút vốn:

Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu, các NH đang đứng trước áp lực đảm bảo thanh
khoản nên buộc phải tăng lãi suất huy động. Hơn nữa, nhu cầu vay vốn đang tăng cao nên
nhiều NH tính đến phương án điều chỉnh tăng lãi suất huy động để gia tăng nguồn vốn.
Thay vì ồ ạt triển khai các chương trình khuyến mại quà tặng như trước đây, các NH đã
chuyển hướng thu hút khách hàng bằng mức lãi suất rất cạnh tranh và triển khai nhiều ưu
đãi cộng thêm lãi suất để thu hút nguồn tiền gửi dân cư.
Ví dụ như nhân viên của NCB ( National Citizen Bank) tư vấn nên chọn gửi kỳ hạn 13
tháng, kỳ hạn không quá dài nhưng lãi suất lên đến 7,4%/năm. Tương tự, nhân viên
Kienlongbank cũng tư vấn nên gửi kỳ hạn 13 tháng với lãi suất 7,1%/năm, đây là mức lãi
suất cao nhất trong biểu lãi suất của NH này. Sau thông điệp của NHNN tại văn bản chấn
chỉnh việc thực hiện quy định lãi suất huy động đầu tháng 5/2016, các chương trình tiết
kiệm của các NH khá im ắng.Tuy nhiên, các NH vẫn có nhiều cách để gia tăng ưu đãi, lôi
kéo khách hàng. Chẳng hạn như đối với khách hàng gửi trực tuyến, NH sẽ cộng thêm lãi
suất từ 0,1-03%/năm. Tuy nhiên, nhân viên của một số nhà băng cũng chia sẻ, khách hàng
nên đến gửi trực tiếp tại quầy để được hưởng những chương trình ưu đãi dành cho những
khoản tiết kiệm lớn. Trong đó, một số NH cho biết sẵn sàng thỏa thuận với khách hàng,
nếu gửi kỳ hạn dưới 6 tháng sẽ bị vướng trần lãi suất 5,5%/năm, để lách lãi suất chỉ cần

làm hợp đồng tiền gửi trên 6 tháng để áp dụng mức lãi suất cao hơn nhưng trong hợp
đồng có điều khoản thỏa thuận người gửi tiền rút trước thời hạn 6 tháng sẽ vẫn được
hưởng lãi suất theo hợp đồng thay vì phải chịu lãi suất không kỳ hạn.
19


Nhiều NH cũng giới thiệu tiết kiệm trả lãi trước, tiết kiệm lãnh lãi đầu kỳ như NCB,
Kienlongbank, Saigonbank, BaoVietBank, VPBank, Techcombank… Với hàng loạt giải
pháp hút vốn của các NHTM, nguồn vốn huy động trong quý I/2016 tăng đến 8,5% so với
đầu năm, đạt 42.865 tỷ đồng.
Các NH quy mô lớn tiếp tục điều chỉnh ở một số kỳ hạn tăng thêm 0,2 - 0,8%/năm. Ở kỳ
hạn ngắn, biểu lãi suất mới của BIDV cao hơn 0,3% so với nhiều NH TMCP khác. Chẳng
hạn so với Sacombank - NH cũng vừa tăng lãi suất giữa tuần này, lãi suất 3 tháng của
BIDV ở mức 5,5% so với 5,3%; 9 tháng là 5,8% so với 5,5%, 12 tháng là 6,8% so với
6,6%. VietinBank cũng tăng lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng lên 6,8%. Ở kỳ hạn dài,
BIDV tăng lãi suất huy động tiền đồng lên tới 7 - 7,2%/năm, còn VietinBank lãi suất kỳ
hạn 12 - 36 tháng là 6,8 - 7%/năm.
Cuộc chạy đua lãi suất huy động giữa các NH đã làm cho doanh nghiệp lo lắng lãi suất
cho vay sẽ tăng theo. Ông Phạm Đức Bình, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thanh Bình,
cho biết lãi suất khoản vay của công ty ông chưa tăng, nhưng một số công ty bạn của ông
thì “đang lãnh đủ”. Ông kể, 3 - 4 tháng trước nhiều NH TMCP đã mời chào lãi suất cho
vay hấp dẫn ở mức 6 - 6,5%/năm; nhưng chỉ được thời gian ngắn đã tăng lãi suất thêm 2 3% và không cho trả trước hạn, thu phí dịch vụ đắt đỏ.. “Lãi suất tăng cao trở lại như thời
kỳ trước sẽ khiến DN mất ổn định, phát triển không bền vững”, ông lo lắng.
Về thực tế, DN chỉ chịu đựng ở một mức nhất định khi lãi suất cho vay tăng lên, về lâu
dài DN sẽ đứng trước 2 sự lựa chọn: không vay nữa, thu hẹp quy mô; hoặc tiếp tục vay
nhưng sẽ gia tăng nợ xấu. Có thể nói, cạnh tranh bằng lãi suất, các ngân hàng đã “cùng
kéo nhau xuống đáy” làm cho lợi nhuận NHTM giảm, thậm chí là thua lỗ.
Không những làm cho các doanh nghiệp lao đao, gây thiệt hại cho chính bản thân các
NHTM, đối với nền kinh tế, cạnh tranh bằng lãi suất thực ra làm cho dòng vốn ngắn hạn
loanh quoanh trong NHTM, không sử dụng cho đầu tư thực sự.


20


2.2

Phần lớn lượng tiền dư thừa đang được NHTM rót vào kênh TPCP và tín
phiếu.

Mới đây, CTCP Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) đã đưa ra bản báo cáo cập nhật thanh
khoản hệ thống ngân hàng quý III. Theo đó, BVSC nhận định phần lớn lượng cung tiền
M2 tiếp tục tăng nhanh và mở rộng khoảng cách so với tăng trưởng tín dụng. Theo đó,
tính đến ngày 20/09/2016, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ở mức 10,46%, trong khi
đó, ở phía cung vốn, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán M2 đạt 11,76%, tăng
trưởng huy động đạt 12%. Chênh lệch giữa cung tiền M2 và cầu tín dụng tính từ đầu năm
đến ngày 20/09/2016 vào khoảng 221 nghìn tỷ đồng (tăng 24 nghìn tỷ đồng so với thời
điểm 20/06/2016).
Tổ chức phân tích này cho biết một phần lượng tiền dư ra nói trên đã được các NHTM
đầu tư mới vào kênh TPCP với tổng lượng vốn ròng rót vào đây là 141.923 tỷ đồng (tăng
thêm khoảng 60.000 tỷ đồng so với thời điểm 20/06).
Lượng tiền dư ra giữa hai thời điểm chỉ tăng thêm 24.000 tỷ đồng nhưng lượng đầu tư
tăng thêm vào TPCP lại lên tới 60.000 tỷ đồng. Chính điều này khiến phần vốn dư thừa
trong hệ thống đã giảm từ mức 115 nghìn tỷ đồng tại thời điểm 20/06/2016 xuống chỉ còn
79 nghìn tỷ đồng tại thời điểm 20/09/2016.
Ngoài kênh TPCP thì các NHTM cũng đang hấp thụ một lượng lớn tín phiếu do NHNN
phát hành. Kể từ đầu tháng 6 đến nay, NHNN đã phát hành một lượng lớn tín phiếu kỳ
hạn 7 ngày và 14 ngày (trong đó chủ yếu là kỳ hạn 14 ngày) với lãi suất liên tục giảm và
đến nay đã về mức rất thấp (dưới 0,5%/năm cho kỳ hạn 14 ngày). Theo thống kê của
BVSC thì lượng vốn hút ròng thông qua kênh tín phiếu tính đến ngày 20/9 vào khoảng 77
nghìn tỷ đồng, tương đương với phần vốn dư thừa còn lại trong hệ thống ngân hàng.

BVSC nhận định, việc các NHTM phải tạm thời dồn phần lớn lượng tiền dư thừa vào
kênh TPCP và đặc biệt là kênh tín phiếu với lãi suất không hấp dẫn cho thấy các ngân
hàng có thể đang gặp khó khăn trong việc phát triển tín dụng. Cụ thể, số liệu tăng trưởng
tín dụng tín đến cuối quý III cho thấy còn một khoảng cách khá xa (khoảng 7-8%) để các
NHTM hoàn thành mục tiêu tăng trưởng tín dụng 18-20% cho cả năm nay.
21


Việc các ngân hàng đẩy mạnh mua vào một lượng lớn TPCP từ đầu năm đến nay có thể sẽ
mang đến những rủi ro tiềm ẩn. Khi lạm phát quay trở lại hay tỷ giá biến động có thể làm
suy giảm hoạt động cung tiền của NHNN, đồng thời tạo ra “kỳ vọng lãi suất tăng”. Tâm
lý này có thể kích hoạt làn sóng bán TPCP trên thị trường và đẩy lợi suất tăng lên. Áp lực
lên mặt bằng lãi suất chung trên thị trường theo đó cũng tăng dần.
2.3

Gánh nặng về nợ xấu

-Tình hình nợ xấu của các ngân hàng hiện nay:
Nợ xấu trở thành gánh nặng, bào mòn lợi nhuận và cản trở việc ngân hàng hạ lãi suất.
Điển hình như nhiều ngân hàng hiện nay, chi phí dự phòng rủi ro tăng đột biến, bào mòn
đến phân nửa lợi nhuận.
Theo thống kê của CafeF từ báo cáo tài chính quý III/2016 của các ngân hàng công bố
đến thời điểm hiện tại thì nợ xấu các ngân hàng hầu hết đều tăng so với thời điểm đầu
năm 2016, đặc biệt là nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) tăng mạnh.Cụ thể, xét về giá
trị tuyệt đối, tổng số nợ xấu tính tại 13 ngân hàng là hơn 48 nghìn tỷ đồng, trong số này số
liệu của VPBank ước tính vì ngân hàng này chưa công bố báo cáo tài chính.

22



Về cơ cấu nợ, nợ có khả năng mất vốn chiếm tỷ lệ lớn. Sau 9 tháng đầu năm, 12 ngân
hàng "ôm" hơn 27,3 nghìn tỷ đồng nợ có khả năng mất vốn.BIDV dẫn đầu về cho vay
trên hệ thống hiện nay và cũng đang dẫn đầu về con số nợ xấu với hơn 13,6 nghìn tỷ
đồng. Thực tế, ngân hàng nào cho vay càng nhiều thì rủi ro sẽ càng lớn, nợ xấu vì thế
cũng phình to. Tuy nhiên, nếu so sánh cùng quy mô cho vay thì tại VietinBank, ngân hàng
này có dư nợ cho vay đạt 625 nghìn tỷ đồng, thấp hơn một chút so với BIDV nhưng tổng
số nợ xấu tại BIDV lại gấp 2,5 lần tổng số nợ xấu của VietinBank (5,4 nghìn tỷ đồng).Tại
Vietcombank, nợ có khả năng mất vốn cũng chiếm tỷ lệ lớn, trong tổng số nợ xấu của
Vietcombank là 7.757 tỷ đồng (đầu năm là 7.137 tỷ đồng) thì nợ có khả năng mất vốn là
5.414 tỷ đồng, chiếm 70%.Xếp sau 3 ông lớn ngân hàng này về giá trị tuyệt đối nợ xấu là
Sacombank. Kết thúc quý III, Sacombank có tổng nợ xấu 4.620 tỷ đồng, trong đó nợ có
23


khả năng mất vốn là 3.095 tỷ đồng. Nợ xấu tăng lên 2,4% so với mức 1,85% ở thời điểm
đầu năm.
Trong khi hầu hết các ngân hàng công khai số liệu đều có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% thì
Eximbank là trường hợp ngoại đạo. Tính đến 30/9, Eximbank có 2.705 tỷ đồng nợ xấu.
Trong đó, nợ có khả năng mất vốn là 1.079 tỷ đồng, tăng 35% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ
xấu của Eximbank chiếm 3,35% tổng dư nợ cho vay, tăng mạnh so với mức 1,85% ở thời
điểm đầu năm, song đã là giảm so với thời điểm đột biến trong quý II lên tới 5,3%.
Một lưu ý khác về chất lượng tín dụng hiện nay, mặc dù các ngân hàng công bố tỷ lệ nợ
xấu ở mức rất thấp, bỏ xa mốc an toàn 3% nhưng con số tuyệt đối không hề giảm và có
trường hợp nợ có khả năng mất vốn còn chiếm tỷ lệ chủ yếu trong số nợ xấu này.
Nhận định về nợ xấu hiện nay, Luật sư Trương Thanh Đức cho biết nhiều người đặt ra câu
hỏi tại sao ngân hàng lại tạo ra nợ xấu kinh khủng như thế. Theo luật sư, các ngân hàng
cần công bố nợ xấu cho xã hội hình dung, tỷ lệ nợ xấu được công bố chính thức luôn
“nằm trong chuẩn đẹp”, số thực tế cao hơn nhiều. Chính vì con số công bố đẹp, dưới
chuẩn cho phép, nên không ai cảm thấy cần phải xử lý “cục máu đông” này.
Theo tính toán của một chuyên gia tài chính ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu hiện khoảng 7%.Ông

Nguyễn Đức Kiên - Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cho biết con số thật của
nợ xấu hiện là 147 nghìn tỷ đồng, cộng thêm 160 nghìn tỷ nằm ở VAMC và báo cáo nội
bảng tại các ngân hàng còn 140-145 nghìn tỷ có tiềm ẩn nợ xấu.Còn theo số liệu của
NHNN, tính đến thời điểm cuối tháng 8/2016, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 548,5
nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó chủ yếu là do các TCTD tự xử lý là 57,2%, còn lại là bán
nợ (bao gồm bán cho VAMC và tổ chức cá nhân khác) chiếm 42,8%.
-Hướng giải quyết của chính phủ đề ra:
Việc xử lý nợ xấu theo Nghị định 53/2013/NĐ-CP chủ yếu vẫn bơm tiền thông qua “trái
phiếu đặc biệt”. Ngoài ra, VAMC cũng thiếu động lực để xử lý nợ và hệ quả của nó là có
thể gây áp lực lên lạm phát trong tương lai và làm giảm hiệu quả của nền kinh tế. Mục
tiêu cuối cùng của xử lý nợ xấu là để thu hồi được vốn vay. Kinh nghiệm ở hầu hết các
24


quốc gia cho thấy AMC thường phải mua lại nợ xấu của ngân hàng bằng “tiền thật” và
sau đó tìm cách xử lý khoản nợ này. Việc xử lý nợ xấu thường vô cùng phức tạp và mất
một khoảng thời gian tầm 5 năm. Bên cạnh đó, yếu tố không thể thiếu được chính là
nguồn lực tài chính dồi dào. Thông thường nguồn lực này là ngân sách chính phủ hoặc
vay mượn từ bên ngoài quốc gia.
Nghị định 53 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC mà Chính phủ vừa ban
hành khá khác biệt. Việc phát hành trái phiếu đặc biệt để tạo dựng nguồn vốn cho VAMC
được một số chuyên gia ca ngợi là sáng tạo vì không cần dùng đến ngân sách. Bên cạnh
đó VAMC cũng có chức năng mua bán nợ xấu theo giá thị trường và xử lý như một AMC
thông thường của các quốc gia khác.
Phương án huy động vốn bằng trái phiếu đặc biệt nhiều người cho là sáng tạo thực tế lại
là một công cụ hết sức thô sơ. VAMC không phải trích lập dự phòng khi mua nợ xấu bằng
trái phiếu đặc biệt và cũng không chịu áp lực phải xử lý nợ xấu vì nếu không xử lý được
thì TCTD phải mua lại đúng bằng mệnh giá. Ngoài ra, VAMC cũng không phải trả lãi cho
trái phiếu đặc biệt nên không phát sinh chi phí liên quan đến trái phiếu. VAMC có thể bán
nợ xấu, bán tài sản đảm bảo hoặc các hình thức thu hồi nợ vốn khác bằng bất kỳ giá nào

cũng không sợ lỗ và lại được hưởng “hoa hồng” khi xử lý được nợ xấu.
Đối với ngân hàng thì họ phải mạo hiểm trao nợ xấu vào tay VAMC xử lý mà không có
bất kỳ ràng buộc gì. Tuy nhiên, rất may cho ngân hàng, một lối mở cho việc xử lý nợ xấu
đó là việc ủy quyền lại cho chính ngân hàng đã bán nợ xấu để tiếp tục xử lý nợ.
Mấu chốt của việc xử lý nợ xấu này chính là việc trái phiếu đặc biệt được TCTD mang
đến NHNN làm vật thế chấp để vay tiền. Như vậy, với những ngân hàng nợ xấu cao thì
khi bán nợ cho VAMC họ có thể vay mượn tiền từ NHNN. Những ngân hàng mất khả
năng thanh khoản trầm trọng do nợ xấu cao sẽ nhận được nguồn tiền để tiếp tục tồn tại.
Mỗi năm họ chỉ phải trích lập dự phòng 20% nợ xấu trong vòng 5 năm thay vì phải trích
lập dự phòng ngay lập tức.

25


×