Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận sở hữu trí tuệ kiểu dáng công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.21 KB, 30 trang )

A - CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các đối
tượng sở hữu công nghiệp (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp
bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh) do mình sáng tạo
ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
1.2. Đặc trưng của quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp có 3 đặc trưng cơ bản: gắn với hoạt động sản xuất, kinh
doanh; thông qua thủ tục xác lập quyền; bảo hộ theo thời hạn.
Quyền sở hữu công nghiệp gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh bởi nó được ứng
dụng và áp dụng trong các hoạt động sản xuất công nghiệp và tạo lợi thế cạnh tranh riêng
cho kinh doanh.
Về thông qua thủ tục xác lập quyền, do đây là loại quyền được áp dụng với nhiều đối
tượng là tài sản trí tuệ khác nhau nên tùy vào đặc điểm của mỗi đối tượng mà pháp luật
đưa ra những căn cứ khác nhau để xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho các đối tượng
này. Cụ thể là:
(i) Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, thiết kế bố trí, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý: quyền sở hữu công nghiệp của các đối
tượng này sẽ được xác lập khi được cấp văn bằng bảo hộ căn cứ vào quy định của
Luật sở hữu trí tuệ. Đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid và Nghị
định thư Madrid thì quyền sở hữu công nghiệp sẽ được xác lập phụ thuộc vào sự công
nhận của Cục sở hữu trí tuệ đối với đơn đăng ký quốc tế đó.
(ii) Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng: một nhãn
hiệu thông thường muốn trở thành nhãn hiệu nổi tiếng thì phải trải qua một quá trình
sử dụng lâu dài, tạo được uy tín và được biết đến rộng rãi trên thị trường. Khi đó,
quyền sở hữu công nghiệp đối với đối tượng này sẽ được xác lập mà không cần phải
thực hiện thủ tục đăng ký.

1



(iii) Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại: tên thương mại
chỉ cần được sử dụng hợp pháp trên thực tiễn tương ứng với khu vực (lãnh thổ)
và lĩnh vực kinh doanh thì sẽ được xác lập quyền sở hữu công nghiệp mà không cần
không qua thủ tục đăng ký. Tuy vậy, tổ chức mang tên thương mại này vẫn có thể
thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ đối với đối tượng này nếu muốn.
(iv) Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh: pháp luật
không yêu cầu thực hiện thủ tục đăng ký mà vẫn thừa nhận quyền sở hữu công nghiệp
đối với các tổ chức đã tìm ra, tạo ra hoặc đạt được thông tin và bảo mật thông tin
thành bí mật kinh doanh bằng hình thức đầu tư tài chính, trí tuệ hoặc bất cứ một hình
thức nào khác.
Ngoài ra, quyền sở hữu công nghiệp có tính bảo hộ theo thời hạn. Tùy theo từng đối
tượng mà quyền này được chia vào các loại bảo hộ khác nhau: có thời hạn; có thời hạn và
được gia hạn; vô thời hạn có điều kiện.
1.3. Vai trò của quyền sở hữu công nghiệp
Mục tiêu cuối cùng của hệ thống bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp chính là chống lại
nguy cơ bị lợi dụng hoặc chiếm đoạt kết quả đầu tư sáng tạo và bảo vệ các cơ hội cho
người đã đầu tư để tạo ra các kết quả sáng tạo đó, nhờ vậy mà kích thích, thúc đẩy các nỗ
lực sáng tạo trong nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
chính là bảo đảm hiệu lực của chủ thể quyền, khuyến khích hoạt động đầu tư sáng tạo,
phát triển sản xuất, buôn bán trong nước.
Tại Điều 7 của Hiệp định TRIPs quy định rằng, việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu
trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi
ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế - xã hội
nói chung và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”.
Bên cạnh đó, các đối tượng sở hữu công nghiệp được tạo ra để đáp ứng nhu cầu nhất
định của người tiêu dùng và việc đảm bảo thực thi cũng chính là bảo đảm cho người tiêu
dùng được sử dụng sản phẩm chính hiệu, đảm bảo chất lượng đúng bản chất của nó. Và
như vậy, hệ thống bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ
sở hữu, mà còn là phương tiện để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.


2


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG CỦA QUYỀN BẢO HỘ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP
2.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp
Theo Luật sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công nghiệp (KDCN) là hình dáng bên ngoài của
sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp của những
yếu tố này, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công
nghiệp hoặc thủ công nghiệp. Kiểu dáng công nghiệp được sử dụng cho nhiều loại sản
phẩm như: các kết cấu kiến trúc, thiết bị điện tử, đồ gia dụng, thiết bị kĩ thuật, thiết bị y
tế, đồ dùng giải trí hay những vật liệu trang sức, đồng hồ, camera, …
Khoản 13, Điều 4 Luật SHTT Việt Nam 2005
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng
hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
2.2. Điều kiện bảo hộ
Công ước Paris chỉ có quy định yêu cầu các thành viên phải bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp mà không có bất cứ quy định nào về cách thức bảo hộ mà các nước thành viên
phải tuân thủ. Do đó, các nước có thể bảo hộ kiểu dáng công nghiệp bằng luật sở hữu
công nghiệp, luật bản quyền hoặc luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Các nước
thành viên không thể không bảo hộ với lý do sản phẩm mang kiểu dáng không được sản
xuất tại nước đó.
Theo Điều 25.1.Hiệp định TRIPS, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ là “kiểu dáng
công nghiệp mới, nguyên gốc, khác biệt đáng kể so với các kiểu dáng đã biết hoặc sự kết
hợp các chi tiết kiểu dáng đã biết.”
Tại Điều 63, Luật SHTT 2005 chỉ rõ “Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ nếu đáp
ứng các điều kiện sau đây: có tính mới, có tính sáng tạo, có khả năng áp dụng công
nghiệp”
Giải thích về TÍNH MỚI của kiểu dáng công nghiệp, Điều 65 có nêu:
1. Kiểu dáng công nghiệp được coi là có tính mới nếu kiểu dáng công nghiệp đó khác

biệt đáng kể với những kiểu dáng công nghiệp đã bị bộc lộ công khai dưới hình thức
sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở

3


nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên nếu đơn đăng ký kiểu dáng
công nghiệp được hưởng quyền ưu tiên.
2. Hai kiểu dáng công nghiệp không được coi là khác biệt đáng kể với nhau nếu chỉ
khác biệt về những đặc điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết, ghi nhớ và không thể
dùng để phân biệt tổng thể hai kiểu dáng công nghiệp đó.
3. Kiểu dáng công nghiệp được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số
người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về kiểu dáng công nghiệp đó.
4. Kiểu dáng công nghiệp không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong các
trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp được nộp trong
thời hạn sáu tháng kể từ ngày công bố:
a) Kiểu dáng công nghiệp bị người khác công bố nhưng không được phép của
người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này;
b) Kiểu dáng công nghiệp được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của
Luật này công bố dưới dạng báo cáo khoa học;
c) Kiểu dáng công nghiệp được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của
Luật này trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển
lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức.
Quy định về TÍNH SÁNG TẠO, Điều 66 đề cập: “Kiểu dáng công nghiệp được coi là có
tính sáng tạo nếu căn cứ vào các kiểu dáng công nghiệp đã được bộc lộ công khai dưới
hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước
hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký kiểu
dáng công nghiệp trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên, kiểu dáng công
nghiệp đó không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình
về lĩnh vực tương ứng.”

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CÔNG NGHIỆP được định nghĩa tại Điều 67 là có thể dùng
làm mẫu để chế tạo hàng loạt sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công
nghiệp đó bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.”

4


2.3. Các đối tượng loại trừ
Tại Điều 25.1 Hiệp định TRIPs, đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa kiểu dáng
công nghiệp là Các kiểu dáng chủ yếu do đặc điểm kỹ thuật hoặc chức năng của sản
phẩm quyết định.
Điều 64 Luật SHTT 2005 chỉ ra các đối tượng không được bảo hộ bao gồm:
1. Hình dáng bên ngoài của sản phẩm do đặc tính kỹ thuật của sản phẩm bắt buộc
phải có;
2. Hình dáng bên ngoài của công trình xây dựng dân dụng hoặc công nghiệp;
3. Hình dáng của sản phẩm không nhìn thấy được trong quá trình sử dụng sản phẩm.

5


CHƯƠNG 3. NỘI DUNG CỦA QUYỀN BẢO HỘ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP
3.1. Quyền chủ sở hữu
Phạm vi độc quyền của chủ sở hữu KDCN cũng giống như phạm vi bảo hộ độc quyền
của chủ sở hữu sáng chế, nghĩa là bao gồm quyền sử dụng, độc quyền và quyền định
đọat.
Quyền sử dụng bao gồm: sản xuất, đưa vào lưu thông để bán, nhập khẩu sản phẩm
được bảo hộ. Bất kỳ sản phẩm nào tương đồng với bản mô tả một sáng chế hay giải pháp
hữu ích được yêu cầu bảo hộ đều được coi như sản phẩm được bảo hộ.
Quyền định đoạt của chủ sở hữu KDCN bao gồm quyền chuyển giao quyền sở hữu
công nghiệp thông qua hợp đồng bằng văn bản, cho hoặc không cho người khác sử dụng

kiểu dáng và để lại thừa kế (đối với chủ sở hữu là cá nhân). Việc thừa kế phải được đăng
ký.
Quyền độc quyền, sử dụng và định đoạt của đối tượng chủ sở hữu được quy định rõ
tại Điều 123 và khoản 2 Điều 124, Điều 125 và chương X Luật SHTT 2005.
Điều 124. Sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
Sử dụng kiểu dáng công nghiệp là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Sản xuất sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ;
b) Lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm quy định tại
điểm a khoản này;
c) Nhập khẩu sản phẩm quy định tại điểm a khoản này.
Chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ có quyền cấm những người không
được phép của mình sản xuất, bán hoặc nhập khẩu những sản phẩm mang hoặc thể hiện
một kiểu dáng là bản sao của kiểu dáng được bảo hộ đó, nếu các hành vi nói trên được
thực hiện nhằm mục đích thương mại. (Quy định tại Điều 26 Hiệp định TRIPS)
Theo Điều này, các Thành viên có thể quy định một số ngoại lệ nhất định đối với việc bảo
hộ kiểu dáng công nghiệp, với điều kiện là các ngoại lệ đó không mâu thuẫn với việc khai
thác bình thường các kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ và không làm tổn hại một
cách bất hợp lý tới lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu kiểu dáng được bảo hộ, và lợi ích hợp
pháp của bên thứ ba. Thời hạn bảo hộ theo quy định ít nhất phải là 10 năm.

6


3.2. Quyền của tác giả
Định nghĩa về tác giả đối với kiểu dáng công nghiệp, mục 1 Điều 122 luật SHTT 2005
có nêu: “Tác giả kiểu dáng công nghiệp là người trực tiếp sáng tạo ra đối tượng sở hữu
công nghiệp; trong trường hợp có hai người trở lên cùng nhau trực tiếp sáng tạo ra đối
tượng sở hữu công nghiệp thì họ là đồng tác giả.”
Quyền nhân thân của tác giả kiểu dáng công nghiệp được nêu tại mục 2 Điều này
gồm các quyền:

a) Được ghi tên là tác giả trong Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp
b) Được nêu tên là tác giả trong các tài liệu công bố, giới thiệu về kiểu dáng công
nghiệp.
Xác định quyền tài sản cho các tác giả kiểu dáng công nghiệp, tại Điều 135 luật
SHTT 2005 có ghi:
1. Mức thù lao tối thiểu mà chủ sở hữu phải trả cho tác giả được quy định như sau:
a) 10% số tiền làm lợi mà chủ sở hữu thu được do sử dụng kiểu dáng công nghiệp,
b) 15% tổng số tiền mà chủ sở hữu nhận được trong mỗi lần nhận tiền thanh toán
do chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp.
2. Trong trường hợp kiểu dáng công nghiệp được nhiều tác giả tạo ra, mức thù lao
quy định này là mức dành cho tất cả các đồng tác giả; các đồng tác giả tự thoả thuận
việc phân chia số tiền thù lao do chủ sở hữu chi trả.
3. Nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả kiểu dáng công nghiệp tồn tại trong suốt thời hạn
bảo hộ của kiểu dáng công nghiệp.
Trong Điều 18 Nghị định 103/2006/NĐ_CP quy định: Nếu giữa chủ sở hữu và tác giả
không có thoả thuận khác, việc thanh toán tiền thù lao phải được thực hiện không muộn
hơn ba mươi ngày, kể từ ngày chủ sở hữu nhận được tiền thanh toán do chuyển giao
quyền sử dụng hoặc kể từ ngày chủ sở hữu thu được lợi sau mỗi đợt sử dụng kiểu dáng
công nghiệp nếu kiểu dáng công nghiệp được sử dụng liên tục thì mỗi đợt thanh toán
không được quá sáu tháng, kể từ ngày kết thúc đợt thanh toán trước.
3.3. Quyền đăng ký
1. Tổ chức, cá nhân sau đây có quyền đăng ký kiểu dáng công nghiệp bao gồm:

7


a) Tác giả tạo ra kiểu dáng công nghiệp bằng công sức và chi phí của mình
b) Tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả dưới hình
thức giao việc, thuê việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác và thỏa
thuận đó không trái với quy định tại khoản 2 Điều 86 luật SHTT 2005.

2. Chính phủ quy định quyền đăng ký đối với kiểu dáng công nghiệp được tạo ra do
sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh phí từ ngân sách nhà nước.
3. Trường hợp nhiều tổ chức, cá nhân cùng nhau tạo ra hoặc đầu tư để tạo ra kiểu
dáng công nghiệp thì các tổ chức, cá nhân đó đều có quyền đăng ký và quyền đăng ký
đó chỉ được thực hiện nếu được tất cả các tổ chức, cá nhân đó đồng ý.
4. Người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 này có quyền chuyển giao quyền
đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế
hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp đã nộp đơn đăng ký.
Ngoài ra, tại Điều 9, chương 2 Nghị định 103/2006/NĐ_CP còn quy định quyền đăng
ký kiểu dáng công nghiệp của Nhà nước như sau:
(i) Trong trường hợp kiểu dáng công nghiệp được tạo ra trên cơ sở Nhà nước đầu tư
toàn bộ kinh phí, phương tiện vật chất - kỹ thuật, quyền kiểu dáng công nghiệp thuộc
về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước được giao quyền chủ đầu tư có trách nhiệm
đại diện Nhà nước thực hiện quyền đăng ký nói trên.
(ii) Trong trường hợp kiểu dáng công nghiệp được tạo ra trên cơ sở Nhà nước góp vốn
(kinh phí, phương tiện vật chất - kỹ thuật), một phần quyền đăng ký kiểu dáng công
nghiệp tương ứng với tỷ lệ góp vốn thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước là
chủ phần vốn đầu tư của Nhà nước có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện phần
quyền đăng ký nói trên.
(iii) Trong trường hợp kiểu dáng công nghiệp được tạo ra trên cơ sở hợp tác nghiên
cứu - phát triển giữa tổ chức, cơ quan nhà nước với tổ chức, cá nhân khác, nếu trong
thoả thuận hợp tác nghiên cứu - phát triển không có quy định khác thì một phần quyền
đăng ký kiểu dáng công nghiệp bố trí tương ứng với tỷ lệ đóng góp của tổ chức, cơ
quan nhà nước trong việc hợp tác đó, thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước

8


tham gia hợp tác nghiên cứu - phát triển có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện
quyền đăng ký nói trên.

(iv) Tổ chức, cơ quan nhà nước thực hiện quyền đăng ký kiểu dáng công nghiệp quy
định trong 3 mục trên đại diện nhà nước đứng tên chủ Văn bằng bảo hộ và thực hiện
việc quản lý quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng đó, có quyền chuyển
nhượng phần quyền đăng ký kiểu dáng công nghiệp của Nhà nước cho tổ chức, cá
nhân khác với điều kiện tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng phần quyền đăng ký
phải trả cho Nhà nước một khoản tiền hoặc các điều kiện thương mại hợp lý khác so
với tiềm năng thương mại của kiểu dáng công nghiệp đó.
3.4. Xác lập, đình chỉ, hủy bỏ văn bằng bảo hộ
Nguyên tắc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp bao
gồm hai giai đoạn bắt buộc: xét nghiệm nội dung và xét nghiệm hình thức.
Quy trình xác lập quyền như sau: Nộp đơn đăng ký – Thẩm định hình thức – Công bố
đơn – Thẩm định nội dung – Quyết định cấp/không cấp bằng độc quyền sáng chế - Nộp
phí duy trì hiệu lực (nếu được cấp) hay Khiếu nại (nếu không được cấp).
Việc xét nghiệm nội dung được thực hiện dựa trên những thông tin trong đơn yêu cầu
bảo hộ. Thông tư 29/2003/TTBKHCN quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của chủ
thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ KDCN. Thời hạn xét nghiệm hình thức là 1 tháng kể từ ngày
nộp đơn. Thời hạn công bố đơn là tháng thứ 2 từ ngày chấp nhận đơn hợp lệ. Thời hạn
xét nghiệm nội dung là 6 tháng kể từ ngày công bố đơn Việc phản đối, khiếu nại, khởi
kiện liên quan đến việc cấp văn bằng bảo hộ cũng tương tự như quy trình áp dụng cho
đơn sáng chế hay đơn nhãn hiệu.
Một kiểu dáng công nghiệp có thể bị đình chỉ nếu chủ các đối tượng này từ bỏ quyền
được bảo hộ hay không tiếp tục nộp lệ phí duy trì hiệu lực văn bằng bảo hộ.
Một văn bằng bảo hộ có thể bị hủy bỏ nếu không hội đủ điều kiện bảo hộ (thí dụ mất
tính mới vào thời điểm nộp đơn).
Văn bằng bảo hộ cũng có thể bị huỷ nếu chủ thể nộp đơn không có quyền nộp đơn,
hay các chủ sở hữu KDCN không thống nhất được với nhau về việc nộp đơn, hay văn

9



bằng bảo hộ ghi sai tên tác giả. Thời hiệu khiếu nại yêu cầu đình chỉ, hủy bỏ một văn
bằng bảo hộ là 5 năm, kể từ khi văn bằng bảo hộ được cấp.

10


CHƯƠNG 4. CÁC HÀNH VI VI PHẠM
Yếu tố vi phạm đối với kiểu dáng công nghiệp là sản phẩm mà hình dáng bên ngoài
của nó hoặc hình dáng bên ngoài của một bộ phận trùng với một KDCN đang được bảo
hộ hoặc trùng với thành phần tạo dáng cơ bản của KDCN đang được bảo hộ.
Theo điều 126, luật SHTT 2005 về hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu đối với
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm
quyền của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp bao gồm:
1. Sử dụng kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc kiểu dáng công nghiệp không
khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà
không được phép của chủ sở hữu;
2. Sử công dụng kiểu dáng nghiệp mà không trả tiền đền bù theo quy định về quyền
tạm thời quy định tại khoản 1 và khoản 3, Điều 131 của Luật này.
Định nghĩa về “không khác biệt đáng kể” đã được nêu rõ trong khoản 2, điều 65, luật
SHTT 2005. Tại khoản 4, điều 93, luật SHTT 2005, “trong thời hạn có hiệu lực” cũng
được giải thích là hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết năm năm kể từ ngày nộp đơn,
có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần năm năm.
Các yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp được xác định tại Điều 10
Nghị định Số: 105/2006/NĐ-CP
1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp là sản phẩm hoặc phần của
sản phẩm mà hình dáng bên ngoài không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công
nghiệp được bảo hộ.
2. Căn cứ để xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp là phạm
vi bảo hộ kiểu dáng công nghiệp được xác định theo Bằng độc quyền kiểu dáng công
nghiệp.

3. Sản phẩm, phần sản phẩm bị coi là yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công
nghiệp thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Trên sản hoặc phần sản phẩm bị xem xét, kể cả trường hợp đã được cấp Bằng
độc quyền kiểu phẩm dáng công nghiệp, có tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp
thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao (gần như không thể

11


phân biệt được sự khác biệt) của kiểu dáng công nghiệp của chủ sở hữu khác đã
được bảo hộ mà không được sự đồng ý của người đó
b) Trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm bị xem xét có tập hợp các đặc điểm tạo
dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao của kiểu
dáng công nghiệp của ít nhất một sản phẩm trong bộ sản phẩm được bảo hộ của
người khác.
4. Kiểu dáng công nghiệp của một sản phẩm (phần sản phẩm) chỉ bị coi là không
khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ theo quy định tại khoản 1
Điều này khi kiểu dáng công nghiệp đó là bản sao hoặc về bản chất là bản sao của
kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ.
Theo hướng dẫn của Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT, để khẳng định một sản
phẩm có phải là yếu tố vi phạm đối với KDCN hay không cần phải so sánh tất cả các đặc
điểm tạo dáng (đường nét, hình khối, màu sắc) của sản phẩm, bộ phận sản phẩm với các
đặc điểm tạo dáng của KDCN được xác định tại Bằng độc quyền KDCN. Chỉ khi nào tất
cả các đặc điểm của toàn bộ sản phẩm hoặc của một phần sản phẩm đều trùng với các đặc
điểm tạo dáng nêu trong Bằng độc quyền KDCN hoặc trùng với các đặc điểm của thành
phần tạo dáng cơ bản của KDCN nêu trong Bằng độc quyền KDCN thì mới khẳng định
sản phẩm đó là yếu tố vi phạm đối với KDCN. Như vậy để xác định một kiểu dáng A có
xâm phạm kiểu dáng B, cần phải đối chiếu hai kiểu dáng bên cạnh nhau, phân tích các
yếu tố tạo dáng của các kiểu dáng này với các yếu tố tương ứng của kiểu dáng khác và
lập bảng so sánh. Sau khi lập bảng so sánh cần phân tích đánh giá khả năng xâm phạm.


12


CHƯƠNG 5. TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ
Có một số thắc mắc rằng: Việc sử dụng kiểu dáng công nghiệp trước khi công bố có
ảnh hưởng như thế nào tới khả năng cấp bảo hộ của kiểu dáng công nghiệp?
Theo luật SHTT, tính mới của kiểu dáng công nghiệp là một trong các điều kiện đăng
ký kiểu dáng công nghiệp. Để đáp ứng điều kiện này thì kiểu dáng công nghiệp đó phải
chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng. Nhưng ngoài ra, có những trường hợp
sau đây vẫn có thể được chấp nhận cho phép đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp dù
đã bị bộc lộ trước ngày đăng ký:
Kiểu dáng công nghiệp không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong các trường
hợp đã được quy định tại khoản 4, điều 65, luật SHTT 2005 với điều kiện đơn đăng ký
kiểu dáng công nghiệp được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày công bố.
Quyền đăng ký kiểu dáng công nghiệp được quy định tại Điều 86 Luật SHTT. Vì vậy trừ
những trường hợp nêu trên thì kiểu dáng công nghiệp dừ được sử dụng ở bất kỳ hình thức
nào cũng không được quyền xin cấp văn bằng bảo hộ kiểu dáng công nghiệp.
Ngoài ra, khoản 2, điều 125, Luật SHTT 2005 có liệt kê các hành vi sử dụng đối
tượng sở hữu công nghiệp nhưng không bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp,
bao gồm:
a) Sử dụng kiểu dáng công nghiệp nhằm phục vụ nhu cầu nhân hoặc mục đích phi
thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử
nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép sản
xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm;
b) Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị
trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải
do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu
đưa ra thị trường nước ngoài;
c) Sử dụng kiểu dáng công nghiệp chỉ nhằm mục đích duy trì hoạt động của các

phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh
thổ Việt Nam;
d) Sử dụng kiểu dáng công nghiệp do người có quyền sử dụng trước thực hiện
theo quy định tại Điều 134 của Luật này;

13


Trường hợp ngoại lệ cuối cùng được thể hiện ở Điều 134, luật SHTT 2005 về Quyền
sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp như sau:
1. Trường hợp trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên (nếu có) của đơn đăng ký kiểu
dáng công nghiệp mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để
sử dụng kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với kiểu dáng công nghiệp trong đơn đăng
ký nhưng được tạo ra một cách độc lập (sau đây gọi là người có quyền sử dụng
trước) thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng kiểu
dáng công nghiệp trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử
dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu kiểu dáng công
nghiệp được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước kiểu dáng công
nghiệp không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp.
2. Người có quyền sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp không được phép chuyển
giao quyền đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển giao quyền đó kèm theo việc
chuyển giao cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp. Người có quyền sử dụng trước không được mở rộng phạm vi,
khối lượng sử dụng nếu không được chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp cho phép.
Nếu có bất kì cá nhân, tổ chức nào bị tố cáo vi phạm, trước hết phải xét xem hành vi
mà mình đã thực hiện có thuộc vào trường hợp ngoại lệ hay không. Nếu có thì người đó
có quyền và có nghĩa vụ chứng minh rằng hành vi đó thuộc các trường hợp ngoại lệ, nếu
không chứng minh được điều đó thì không được hưởng quyền ngoại lệ nói trên.

14



CHƯƠNG 6. GIỚI HẠN VỀ LÃNH THỔ VÀ THỜI HẠN BẢO HỘ
Theo nguyên tắc chung và phù hợp với Công ước Paris, sự bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp được giới hạn ở quốc gia nơi mà sự bảo hộ được yêu cầu hoặc được cấp. Nếu
muốn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở nhiều nước thì các đơn đăng ký (hoặc nộp lưu)
quốc gia riêng biệt phải được nộp và thông thường thủ tục ở mỗi nước cũng khác nhau.
Tuy vậy, thoả ước La-hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp giúp đơn giản hoá
thủ tục này.
Theo Điều 93, Luật SHTT 2005 quy định về hiệu lực của văn bằng bảo hộ:
1. Văn bằng bảo hộ có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
4. Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết
năm năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần năm năm.
Phạm vi bảo hộ của kiểu dáng gồm tất cả kiểu dáng có tập hợp các đặc điểm tạo dáng
trùng hoặc không khác biệt cơ bản với kiểu dáng đã được bảo hộ. Phạm vi bảo hộ của
kiểu dáng công nghiệp được ghi nhận trong văn bằng bảo hộ (Điều 16 Nghị định
103/2006/NĐ-CP). Phạm vi bảo hộ bao gồm: nhóm sản phẩm được bảo hộ (theo bảng
phân loại Locarno) và giới hạn bảo hộ kiểu dáng (các yếu tố loại trừ – right limitation).
Thông thường, các chủ thể quyền thường yêu cầu bảo hộ tổng thể kiểu dáng của sản
phẩm, ngoại trừ một số trường hợp.
Ví dụ, Kiểu dáng công nghiệp số 16128 cho sản phẩm iPhone 4s

15


B - MỘT SỐ CASE-STUDY THỰC TẾ
CHƯƠNG 1. TRANH CHẤP VỀ KIỂU DÁNG ÁO QUAN
1.1. Tóm tắt
Vụ việc xâm phạm kiểu dáng công nghiệp được giải quyết bằng kiện dân sự tại
tòa án

Nguyên đơn: Công ty liên doanh Nhã Quán
Bị đơn: Công ty TNHH Ý Thiên
Nội dung tranh chấp: tranh chấp kiểu dáng công nghiệp – 33 kiểu dáng áo quan
Năm 2002, công ty TNHH Trường Sanh liên doanh với ông Kou Chi Sheng (Đài
Loan - Trung Quốc) thành lập công ty Nhã Quán chuyên sản xuất, kinh doanh áo quan.
Công ty Nhã Quán đã đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, đăng ký độc quyền KDCN đối với
mặt hàng áo quan. Sau đó, Công ty TNHH Trường Sanh đã lấy các kiểu dáng áo quan do
công ty Nhã Quán làm ra đăng ký độc quyền kiểu dáng cho Trường Sanh và được cấp
văn bằng bảo hộ giữa năm 2005-2006.
Đến năm 2007, Công ty Ý Thiên được thành lập và được công ty TNHH Trường Sanh
chuyển nhượng lại quyền sở hữu những kiểu dáng áo quan trên. Tháng 8-2007, công ty Ý
Thiên gửi thông báo yêu cầu công ty Nhã Quán không được sản xuất, kinh doanh 33 kiểu
áo quan mà công ty Ý Thiên nhận chuyển nhượng từ công ty TNHH Trường Sanh. Cho
rằng việc chuyển nhượng giữa công ty Trường Sanh và công ty Ý Thiên là trái luật, tháng
6 cùng năm, công ty Nhã Quán đã khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh Bình Dương công nhận
quyền sở hữu kiểu dáng áo quan của mình, buộc công ty Ý Thiên chấm dứt hành vi xâm
phạm.
Ngược lại, công ty Ý Thiên phản đối, nói Nhã Quán biết rõ quyền sở hữu các kiểu
dáng áo quan thuộc về Trường Sanh và cả việc Trường Sanh chuyển nhượng hợp pháp
cho công ty Ý Thiên. Với tư cách là chủ sở hữu mới, công ty Ý Thiên từng yêu cầu công
ty Nhã Quán không sản xuất các kiểu dáng áo quan này để bán ra thị trường nhưng công
ty Nhã Quán không thực hiện nên đã nhiều lần bị cơ quan chức năng xử phạt hành chính.
Ngoài ra, công ty Ý Thiên nhận định việc công ty Nhã Quán khởi kiện thực ra chỉ nhằm
cản trở các cơ quan chức năng xử lý vi phạm và để tiếp tục sử dụng các kiểu dáng áo
quan mà công ty Ý Thiên đang sở hữu. Hành vi này là có dụng ý, xâm phạm nghiêm

16


trọng đến quyền lợi của công ty Ý Thiên nên công ty Ý Thiên yêu cầu công ty Nhã Quán

bồi thường 500 triệu đồng.
1.2. Chủ thể
Nguyên đơn: Công ty liên doanh Nhã Quán
Công ty Nhã Quán được thành lập bởi việc liên doanh giữa công ty TNHH Trường
Sanh (Việt Nam) với ông Kou Chi Sheng (Đài Loan – Trung Quốc). Tháng 6 năm 2007
đã khởi kiện Công ty Ý Thiên vì đã xâm phạm đến quyền sở hữu KDCN đối với 33 kiểu
dáng áo quan.
Nhã Quán cho rằng việc chuyển nhượng quyền sở hữu kiểu dáng áo quan giữa Trường
Sanh và Ý Thiên là trái luật, yêu cầu TAND tỉnh Bình Dương công nhận quyền sở hữu
kiểu dáng áo quan của mình, buộc công ty Ý Thiên chấm dứt hành vi xâm phạm.
Bị đơn : Công ty TNHH Ý Thiên
Thành lập năm 2007, được công ty TNHH Trường Sanh chuyển nhượng quyền sở hữu
33 kiểu dáng áo quan mà Trường Sanh đã đăng ký và được cấp văn bằng.
Tháng 8 năm 2007 yêu cầu công ty Nhã Quán không được sản xuất, kinh doanh 33
kiểu áo quan mà công ty Ý Thiên nhận chuyển nhượng từ công ty TNHH Trường Sanh.
Sau khi bị Công ty Nhã Quán kiện thì phản tố, cho rằng Nhã Quán đã xâm phạm đến
quyền lợi của mình, yêu cầu Nhã Quán bồi thường 500 triệu.
Công ty TNHH Trường Sanh
Là một công ty gia đình do bà Tôn Hải Đường làm Giám đốc, trước đây đã sản xuất
áo quan, sau đó mới liên doanh thành lập công ty Nhã Quán vào năm 2002 để tăng cường
tiềm lực tài chính. Trong liên doanh, công ty TNHH Trường Sanh chỉ góp vốn bằng máy
móc, nhà xưởng chứ không góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ về kiểu dáng áo quan mà
công ty Trường Sanh đã có văn bằng bảo hộ.
Công ty TNHH Trường Sanh đã lấy các kiểu dáng áo quan do công ty liên doanh Nhã
Quán làm ra đăng ký độc quyền kiểu dáng cho mình và được cấp văn bằng bảo hộ giữa
năm 2005-2006. Sau đó chuyển nhượng quyền sở hữu các kiểu dáng này cho công ty Ý
Thiên vào năm 2007.
1.3. Lý lẽ từ các bên

17



Công ty Liên doanh Nhã Quán
Về phía Nhã Quán cho rằng, Trường Sanh thành lập được 1 năm thì tiến hành liên
doanh, chuyển hết toàn bộ nhà xưởng, máy móc, nhân công vào công ty liên doanh hoạt
động; và chỉ còn tồn tại danh nghĩa trên giấy phép kinh doanh mà không có bất kỳ hoạt
động sản xuất kinh doanh khác. Bà Đường cũng trở thành Phó Giám đốc liên doanh Nhã
Quán. Những mẫu kiểu dáng quan tài trên hình thành trong thời gian liên doanh hoạt
động nên thuộc về Nhã Quán. Tuy nhiên, trong quá trình đăng ký bảo hộ sở hữu KDCN,
bà Đường - người phụ trách làm hồ sơ báo cáo là vướng yếu tố nước ngoài nên không
thể thực hiện được. Để bảo hộ kiểu dáng tại thị trường Việt Nam, ông Sheng đã ký vào
hợp đồng chuyển nhượng lại quyền đăng ký sở hữu KDCN cho Trường Sanh mặc dù
không nắm rõ nội dung. Sau này, do mối quan hệ tình cảm giữa đôi bên rạn nứt nên phát
sinh chuyện tranh chấp.
Phía Nhã Quán cũng đặt ra nhiều nghi vấn về quyền tác giả những mẫu thiết kế áo
quan. Cụ thể, trong hồ sơ đăng ký bảo hộ kiểu dáng của Trường Sanh, toàn bộ ảnh chụp,
bản vẽ áo quan có các hoa văn, logo, nhãn mác của Nhã Quán. Những kiểu dáng này có
nguồn gốc từ Đài Loan (Trung Quốc) và được Nhã Quán du nhập, chế tác thêm. Vì vậy,
khi Trường Sanh nộp hồ sơ sang Hoa Kỳ đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp thì bị từ
chối vì đây không phải là kiểu dáng mới.
Ngoài ra, Công ty Ý Thiên vừa thành lập trước thời điểm tranh chấp khoảng 3 tháng,
không có chứng từ cụ thể chứng tỏ thiệt hại nhưng yêu cầu mức bồi thường quá cao (500
triệu đồng).
Công ty Trường Sanh
Trường Sanh cho biết công ty là cơ sở sản xuất gia đình với ngành nghề kinh doanh là
dịch vụ tang lễ, sản xuất và bán áo quan... Do vậy, Trường Sanh nắm bí quyết kỹ thuật,
thiết kế kiểu dáng áo quan và đã sản xuất bán áo quan trên thị trường trước khi liên
doanh. Việc liên doanh chỉ nhằm tăng cường tiềm lực tài chính. Trường Sanh chỉ góp
vốn vào liên doanh bằng máy móc thiết bị, nhà xưởng, không góp vốn bằng quyền sở
hữu công nghiệp kiểu dáng áo quan.

Ban đầu, do thiếu hiểu biết về pháp luật sở hữu trí tuệ nên đã kê khai sai, sử dụng tên
liên doanh Nhã Quán để đăng ký bảo hộ KDCN. Tuy nhiên, sau đó, Nhã Quán đã ký bản

18


thỏa thuận công nhận quyền sở hữu kiểu dáng áo quan thuộc về Trường Sanh và ký hợp
đồng chuyển nhượng lại "quyền nộp đơn đăng ký bảo hộ kiểu dáng". Ngược lại, Trường
Sanh ủy quyền (không quy định thời hạn) cho Nhã Quán được phép sử dụng những mẫu
quan tài trên.
Việc công ty Nhã Quán viện dẫn trên một số kiểu dáng áo quan của công ty TNHH
Trường Sanh có logo công ty Nhã Quán để nói rằng đó là kiểu dáng công nghiệp của
mình là không đúng. Công ty TNHH Trường Sanh chỉ chấp thuận cho công ty Nhã Quán
gắn logo để tiện kinh doanh nên dù có gắn logo công ty Nhã Quán thì các kiểu dáng đó
vẫn là của công ty TNHH Trường Sanh và công ty Trường Sanh đã chuyển nhượng họp
pháp cho công ty Ý Thiên.
Ngoài ra, trước thời điểm công ty Nhã Quán khởi kiện, công ty Trường Sanh đã đăng
ký các kiểu dáng áo quan đang tranh chấp và công bố trên Công báo Sở hữu công
nghiệp, quá thời hạn cũng không ai phản đối quyền tác giả của công ty TNHH Trường
Sanh cả.
Công ty Ý Thiên
Công ty Ý Thiên thì phản tố lại yêu cầu khởi kiện với lý do Nhã Quán biết rõ quyền
sở hữu các KDCN áo quan thuộc về Trường Sanh và biết rõ cả việc Trường Sanh, Ý
Thiên chuyển nhượng hợp pháp quyền sở hữu KDCN áo quan. Việc Nhã Quán khởi kiện
chỉ nhằm cản trở các cơ quan chức năng xử lý vi phạm và để tiếp tục sử dụng các kiểu
dáng áo quan đang tranh chấp. Hành vi này là có chủ ý.
1.4. Phân tích – Cơ sở pháp lý
Thức nhất, theo công ty Nhã Quán và công ty TNHH Trường Sanh cho biết thì kiểu
mẫu áo quan là do bà Tôn Hải Đường sáng tác, đã đăng ký và được cấp văn bằng chứng
nhận sở hữu kiểu dáng công nghiệp (KDCN) vào năm 2005. Ban đầu, do thiếu hiểu biết

về pháp luật sở hữu trí tuệ nên đã kê khai sai, sử dụng tên liên doanh Nhã Quán để đăng
ký bảo hộ KDCN. Tuy nhiên, sau đó, công ty Nhã Quán đã ký bản thỏa thuận công nhận
quyền sở hữu kiểu dáng áo quan thuộc về công ty Trường Sanh và ký họp đồng chuyển
nhượng lại “quyền nộp đơn đăng ký bảo hộ kiểu dáng”. Như yậy, công ty Nhã Quán
không đăng ký quyền sở hữu KDCN áo quan. Việc Công ty Nhã Quán sản xuất các mẫu

19


áo quan, tiêu thụ rộng rãi ở thị trường trong và ngoài nước, không có nghĩa là KDCN đó
thuộc quyền sở hữu của mình.
Thứ hai, giữa năm 2005-2006 công ty TNHH được cấp văn bằng đăng kí bảo hộ
KDCN áo quan. Như yậy, căn cứ Điểm a Khoản 3 Điều 6 Luật SHTT năm 2005 qui định:
“Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí,
nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng kỷ quy định tại Luật này hoặc công nhận
đãng kỷ quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên; đổi với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử
dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng kỹ’ thì công ty TNHH Trường Sanh là chủ sở
hữu quyền kiểu dáng công nghiệp (chủ văn bằng). Vì thế , công ty Nhã Quán không đăng
ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp áo quan, nay lại khởi kiện để tranh chấp các kiểu dáng
mà công ty Trường Sanh đã đăng ký là trái pháp luật.
Thứ ba, trong bản thỏa thuận giữa công ty TNHH Trường Sanh và công ty Nhã Quán
ghi nhận các kiểu dáng áo quan là sự sáng tạo và tài sản sở hữu công nghiệp của công ty
TNHH Trường Sanh. Công ty TNHH Trường Sanh chỉ đồng ý cho công ty Nhã Quán sử
dụng KDCN. Vì thế nên trước đây, công ty Nhã Quán từng khiếu nại lên Cục Sở hữu trí
tuệ đề nghị hủy bỏ hiệu lực các văn bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp của công ty
TNHH Trường Sanh nhưng không được chấp nhận. Dù Nhã Quán một mực nói không
biết gì về bản thỏa thuận trên nhưng theo kết quả giám định của Viện khoa học hình sự
thì văn bản đó có chữ ký, con dấu của công ty Nhã Quán.

Thứ tư, công ty Nhã Quán khởi kiện công ty Ý Thiên trong việc sử dụng kiểu dáng
với lý do việc chuyển nhượng này là bất họp pháp. Nhã Quán cho rằng, các kiểu dáng
này được sáng tạo ra trong quá trình thực hiện liên doanh. Như vậy, công ty Nhã Quán có
nghĩa vụ chứng minh nguồn gốc KDCN có được từ liên doanh của công ty Nhã Quán
theo quy định tại Điều 203 Luật SHTT 2005 như sau:
1. Nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cỏ quyền và nghĩa
vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 của Bộ ỉuật tổ tụng dân sự và theo quy định
tại Điều này.
2. Nguyên đơn chứng minh mình ỉà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ bằng một trong các

20


chứng cứ sau đây:
a) Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền
liên quan, văn bằng bảo hộ; bản trích lục sổ đăng kỷ quốc gia về quyền tác giả,
quyền liên quan, So đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp, sổ đăng kỷ quốc gia
về giong cây trồng được bảo hộ;
b) Chứng cứ cần thiết để chứng minh căn cứ phát sinh quyền tác giả, quyền liên quan
trong trường hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng
nhận đăng kỷ quyền liên quan; chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đổi với bỉ
mật kinh doanh, tên thương mại, nhãn hiệu nổi tiếng;
c) Bản sao hợp đồng sử dụng đổi tượng sở hữu trí tuệ trong trường hợp quyền sử
dụng được chuyển giao theo hợp đồng.
3. Nguyên đon phải cung cấp các chứng cứ về hành vỉ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
hoặc hành vỉ cạnh tranh không lành mạnh.
4. Trong vụ kiện về xâm phạm quyền đối với sảng chế là một quỵ trình sản xuất sản
phẩm, bị đơn phải chứng mình sản phẩm của mình được sản xuất theo một quy trình
khác với quy trình được bảo hộ trong các trường hợp sau đây:
a) Sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ là sản phẩm mới;

b) Sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ không phải là sản phẩm mới
nhưng chủ sở hữu sảng chế cho rằng sản phẩm do bị đơn sản xuất là theo quy
trình được bảo hộ và mặc dù đã sử dụng các biện pháp thích hợp nhưng vẫn
không thể xác định được quy trình do bị đơn sử dụng.
5. Trong trường hợp một bên trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chứng minh
được chứng cứ thích hợp để chứng minh cho yêu cầu của mình bị bên kia kiểm soát
do đó không thể tiếp cận được thì có quyền yên cầu Toà án buộc bên kiểm soát chứng
cứ phải đưa ra chứng cứ đó.
6. Trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì nguyên đơn phải chứng minh
thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quỵ
định tại Điều 205 của Luật này.
Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự thì “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để
chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải

21


chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó”
Như vậy, trong vụ án Công ty Nhã Quán lại không chứng minh được ai là người tạo
ra kiểu dáng đó và liên doanh đã đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất gì cho tác giả dưới
hình thức giao việc, thuê việc hay thỏa thuận nào khác để tạo ra các kiểu dáng đó. Việc
công ty Nhã Quán đổ lỗi do tình hình nhân sự công ty xáo trộn, việc quản lý không tốt,
làm mất tài liệu là không có cơ sở.
1.5. Kết luận
Tại phiên tòa sơ thẩm diễn ra năm 2008, Hội đồng xét xử cho rằng Nhã Quán không
đăng ký quyền sở hữu KDCN áo quan. Ngày 4.4.2005, Nhã Quán đã ký bản thỏa thuận
thừa nhận các kiểu dáng liệt kê trong hồ sơ đăng ký KDCN là tài sản sở hữu công nghiệp
của Trường Sanh. Trường Sanh cũng có văn bản đồng ý cho Nhã Quán sử dụng KDCN
áo quan trong quá trình liên doanh. Công ty Nhã Quán chỉ chứng minh được việc sản
xuất áo quan tiêu thụ rộng rãi ở thị trường trong và ngoài nước, nhưng việc sử dụng

KDCN không có nghĩa là KDCN đó thuộc quyền sở hữu của Nhã Quán. Quan trọng nhất,
Nhã Quán đã không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh quyền sở hữu cũng như
quyền nộp đơn đăng ký đối với KDCN có tranh chấp. Từ đó, TAND tỉnh Bình Dương đã
bác yêu cầu khởi kiện và buộc Công ty Nhã Quán phải bồi thường 440 triệu đồng thiệt
hại về vật chất lẫn tinh thần cho Công ty Ý Thiên.
1.6. Bài học
Các đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN) là tài sản ngày càng có giá trị trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty Trường Sanh đã đầu tư, sáng tạo ra các kiểu
dáng áo quan, đã đăng ký để sở hữu họp pháp các sản phẩm sáng tạo của mình. Sau đó,
Trường Sanh lại sử dụng quyền của chủ sở hữu được pháp luật quy định để chuyển
nhượng quyền sở hữu các kiểu dáng này cho công ty ý Thiên. Các việc làm của công ty
Trường Sanh thể hiện doanh nghiệp này có nhận thức, hiểu biết luật pháp về SHCN. Điều
đó mang lại lợi ích cho doanh nghiệp vì đã thu được lợi nhuận từ việc chuyển nhượng tài
sản trí tuệ.
Bài học về việc quản lý quá trình tạo ra đối tượng SHCN: Công ty Nhã Quán cho
rằng, các kiểu dáng này được sáng tạo ra trong quá trình thực hiện liên doanh. Để thuyết

22


phục được Toà, Nhã Quán có nghĩa vụ chứng minh nguồn gốc KDCN có được từ liên
doanh của công ty Nhã Quán. Nhưng công ty Nhã Quán lại không chứng minh được ai là
người tạo ra kiểu dáng đó và liên doanh đã đàu tư kinh phí, phương tiện yật chất gì cho
tác giả dưới hình thức giao việc, thuê việc hay thỏa thuận nào khác để tạo ra các kiểu
dáng đó. Để phân chia quyền lợi sau khi xác lập quyền, các bên tham gia cần phải có cam
kết, tốt nhất là hợp đồng bằng văn bản. Trong đó có các cam kết về trách nhiệm, nghĩa vụ
và phân chia quyền lợi khi tạo ra các đối tuợng SHCN và được bảo hộ. Có như vậy, khi
xảy ra tranh chấp, sẽ có cơ sở để giải quyết.
Cần xác định đúng đối tượng SHCN: Công ty Nhã Quán viện dẫn việc trên một số
áo quan của Trường Sanh sản xuất có logo của Nhã Quán để nói rằng đó là kiểu dáng của

mình là không đúng. Công ty Trường Sanh chỉ chấp thuận cho Công ty Nhã Quán gắn
logo để tiện kinh doanh, nên dù có gắn logo của Công ty Nhã Quán thì các kiểu dáng đó
vẫn là của Công ty Trường Sanh đã chuyển nhượng họp pháp cho ý Thiên bởi nhãn hiệu
(thể hiện dưới dạng logo) và kiểu dáng là hai đối tượng SHCN khác nhau.

23


CHƯƠNG 2. XÂM PHẠM KIỂU DÁNG XE ĐẠP ĐIỆN
2.1. Tóm tắt sự việc
Nguyên đơn: Công ty CP Xe điện toàn cầu PEGA (Công ty PEGA)
Bị đơn: Công ty CP Thương mại quốc tế Phú Sỹ (Công ty Phú Sỹ)
Nội dung vụ việc:
Công ty CP Xe điện toàn cầu PEGA (Công ty PEGA) đã gửi đơn đến Bộ Công
Thương đề nghị ngăn chặn việc Công ty CP Thương mại quốc tế Phú Sỹ (Công ty Phú
Sỹ) đưa ra thị trường sản phẩm xe điện FUJI CAP – A2 có kiểu dáng xâm phạm quyền
đối với kiểu dáng công nghiệp xe đạp điện CAP – A2 đang được bảo hộ theo Bằng độc
quyền kiểu dáng công nghiệp của công ty cổ phần xe điện toàn cầu Pega LTT.

Xe điện PEGA CAP – A2

24


Xe điện FUJI CAP – A2
2.2. Chủ thể

Công ty PEGA
Chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp xe đạp điện CAP – A2 đang được bảo hộ theo
Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp.

Công ty Phú Sỹ
Công ty cho ra sản phẩm xe điện FUJI CAP – A2, kiểu dáng được cho là xâm phạm
KDCN của công ty PEGA.
Sau khi PEGA gửi đề nghị, cục Đăng kiểm Việt Nam đã ra thông báo tới công ty Phú
Sỹ về việc xử lý vi phạm sở hữu trí tuệ về kiểu dáng công nghiệp. Nhưng công ty Phú Sỹ
cho rằng kiểu dáng xe đạp điện CAP-A2 của công ty PEGA không có tính năng mới so
với kiểu dáng xe đạp điện đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp BĐQ KDCN số 21511 (ngày
nộp đơn 17/11/2014). Đồng thời Công ty Phú Sỹ phát hiện kiểu dáng xe đạp điện này
được Công ty PEGA nộp ngày 25/3/2016 hoàn toàn giồng với kiểu dáng công nghiệp đã
được Cơ quan Sở hữu trí tuệ Trung Quốc cấp ngày 8/3/2016 cho người nộp đơn là ông

25


×