Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Khảo sát tình trạng loãng xương và một số yếu tố nguy cơ ở người cao tuổi tại bệnh viện lão trung ương trường đại học y hà nội, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 103 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

TRN TH MAI THNG

KHảO SáT TìNH TRạNG LOãNG XƯƠNG
Và MộT Số YếU Tố NGUY CƠ ở NGƯờI CAO TUổI
TạI BệNH VIệN LãO KHOA TRUNG ƯƠNG

LUN VN THC S Y HC

H NI - 2012


B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

TRN TH MAI THNG

KHảO SáT TìNH TRạNG LOãNG XƯƠNG
Và MộT Số YếU Tố NGUY CƠ ở NGƯờI CAO TUổI
TạI BệNH VIệN LãO KHOA TRUNG ƯƠNG
Chuyờn ngnh : Ni khoa
Mó s : 60.72.20


LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
PGS.TS. TH KHNH H

H NI - 2012


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, tuổi thọ trung bình của người dân trên thế giới ngày càng cao
điều đó được coi như thành tựu của nhân loại. Tại Việt Nam, theo dự báo dân
số của tổng cục thống kê năm 2010: dân số Việt Nam chính thức bước vào giai
đoạn “già hóa” từ năm 2017. Khi đó, tỷ lệ người cao tuổi chiếm 10% tổng dân
số. Điều đó có nghĩa: thành tựu sẽ đi đôi với những thách thức do sự già hóa
gây nên. Ngành y tế sẽ phải đối mặt với thực tế chính là bệnh tật của quá trình
lão hóa. Một trong số đó thì hiện nay loãng xương đang được coi là một dịch
bệnh âm thầm nhưng nguy hiểm đang lan rộng trên khắp thế giới.
Khi con người lão hóa - bộ xương cũng già cỗi theo tuổi của họ dẫn đến
việc tổn hại cấu trúc của tổ chức xương làm xương giòn và dễ gãy, đó chính
là loãng xương. Loãng xương diễn biến tự nhiên và thầm lặng, triệu chứng
lâm sàng không điển hình, người bệnh thường chủ quan cho đến khi có biểu
hiện lâm sàng hay gặp sự cố gãy xương thì khối lượng xương đã mất trên
30%. Loãng xương ước tính ảnh hưởng đến 200 triệu phụ nữ trên toàn thế
giới, hơn 75 triệu người ở Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản [51][69]. Tỷ lệ loãng
xương ở đàn ông Châu Á trên 50 tuổi là 12,6% [75].Ở Việt Nam, con số
loãng xương ước tính là 2,8 triệu người, chiếm 30% phụ nữ trên 50 tuổi [37].
Hậu quả quan trọng nhất của loãng xương là gãy xương. Sau khi bình
phục bệnh nhân sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong vận động. Họ không thể lao
động bình thường như trước nhất là với người cao tuổi. Chất lượng cuộc sống

bị suy giảm, nguy cơ gãy xương lần thứ hai rất cao và đặc biệt nguy hiểm nó
còn làm tăng nguy cơ tử vong[39][63]. Thật vậy, gần 1/3 bệnh nhân nam, hơn

1/4 bệnh nhân nữ tử vong trong vòng 12 tháng sau khi gãy xương đùi[54].
Theo một nghiên cứu dịch tễ học trong người da trắng, cứ 2 phụ nữ sống đến
85 tuổi thì có 1 người bị gẫy xương và cứ 3 đàn ông sống đến tuổi đó thì có 1
người bị gãy xương do loãng xương[72].


2

Về kinh tế xã hội: một người sau gãy xương sẽ không còn lao động
được như trước, cộng thêm thời gian và phí tổn phải nằm viện điều trị thì rõ
ràng ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế của gia đình và của cả một quốc gia. Theo
phân tích của giới kinh tế số tiền xã hội mất đi vì gãy xương lên tới 14 tỷ đô ở
Mĩ[77] và 6 tỷ đô ở Úc.
“Phòng bệnh hơn chữa bệnh” - Để phòng bệnh “gãy xương” do loãng
xương thì việc nhận dạng được yếu tố nguy cơ của loãng xương là điều thật
sự cần thiết. Làm được điều đó sẽ giúp ngành Y tế có cơ sở để đưa ra chiến
lược phòng chống với mục đích làm thế nào giảm thiểu được loãng xương một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của gãy xương. Làm được
điều đó sẽ giúp chúng ta nhận định được đâu là người có nguy cơ cao để can
thiệp kịp thời. Đặc biệt ở người cao tuổi: ngoài những yếu tố nguy cơ loãng
xương không thể can thiệp, họ còn là những đối tượng tích lũy trong mình
nhiều yếu tố nguy cơ khác trong suốt quá trình sống, kèm theo tính chất đa
bệnh lý vì vậy họ là đối tượng có nguy cơ loãng xương và gãy xương rất cao.
Chính vì vậy để góp phần trong việc đánh giá tình hình loãng xương và
một số yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng loãng xương trên đối tượng người
cao tuổi ở Việt Nam, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: ”Khảo sát tình
trạng loãng xƣơng và một số yếu tố nguy cơ ở ngƣời cao tuổi tại Bệnh
viện Lão khoa trung ƣơng” nhằm hai mục tiêu:

1. Mô tả tỷ lệ loãng xương ở người cao tuổi đến khám tại bệnh viện Lão
khoa Trung Ương.
2. Khảo sát một số yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng loãng xương của
các đối tượng trên.


3

Chƣơng I
TỔNG QUAN
1.1. Đại cƣơng về cấu trúc, chức năng của xƣơng
1.1.1. Cấu trúc xƣơng:
 Cấu trúc đại thể:[7]
- Phần ngoài: (vỏ xương, xương đặc) chiếm 80% khung xương , 20%
diện tích xương, khoảng 3% xương đặc được làm mới hàng năm: chức năng
chính là bảo vệ.
- Phần trong: (xương bè, xương xốp) chiếm 20% khối lượng, 80% diện
tích xương và khoảng 25% được tạo mới hằng năm: chức năng chính là tham
gia vào quá trình chuyển hóa.
 Cấu trúc vi thể:
Gồm các tế bào và chất cơ bản (Bone matrix).
- Chất cơ bản của xương:
o Khung Protein: 95% là sợi collagen typ I là những sợi protein dài xoắn
chuỗi, đan chéo giúp xương đàn hồi, các sợi này và protein không
collagen tạo thành chất khuôn xương có khả năng hút các anion mạnh nên rất
quan trọng trong quá trình calci hóa và cố định các phân tử hydroxyapatite
vào các sợi collagen.
o Muối khoáng: chủ yếu là calci và phospho dạng tinh thể Hydroxyapatit
gắn song song vào các sợi collagen của khung protein.
- Các loại tế bào tạo xương [7] :

o Tiền tạo cốt bào (Pre-osteoblasts): có mặt ở bề mặt xương đang hình
thành, nó có khả năng tự làm mới và có thể chuyển thành tạo cốt bào trên bề
mặt xương.
o Tế bào tạo xương (Osteoblast- Tạo cốt bào): biệt hóa từ các tiền tạo
cốt bào, tập trung từng đám dọc theo bề mặt xương ở những nơi xương đang
hình thành, có vai trò chính trong điều chỉnh chu chuyển xương, sinh tổng
hợp chất nền và quá trình khoáng hóa..


4

o Tế bào xương (Osteocyte) là các nguyên bào xương đã ngừng tổng
hợp khuôn và gắn chặt vào khuôn xương đã calci hóa, chúng nằm trong ổ
khuyết xương và hoạt động như những bộ phận nhân cảm để cảm nhận và
khởi động quá trình tái tạo xương
o Tế bào hủy xương (Osteoclasts-Hủy cốt bào): chức năng là hủy xương
và giải phóng các sản phẩm chuyển hóa vào dịch ngoại bào, có thể thấy ở những
vị trí đang hủy xương chúng gắn chặt vào bề mặt xương đã được calci hóa và tạo
ra một ổ khuyết (Howship) do hoạt động hủy xương tạo thành.
1.1.2. Chức năng của xƣơng
Trong cơ thể xương giữ 3 chức năng chính: [7][39]
o Cơ học : tạo thành bộ khung nâng đỡ cơ thể và là nơi bám cho các cơ,
gân để tạo thành hệ vận động
o Bảo vệ: các cơ quan trong hộp sọ, lồng ngực,các tạng trong ổ bụng, tủy
sống và các thành phần tạo máu của tủy xương
o Chuyển hóa: là nơi dự trữ để duy trì cân bằng ion trong cơ thể.
1.2. Sự tái tạo mô xƣơng và các yếu tố ảnh hƣởng đến chuyển hóa xƣơng
1.2.1. Sự tái tạo mô xƣơng
Bộ xương liên tục được sửa chữa và tự làm mới thông qua quá trình tái
tạo xương. Quá trình này tuần tự theo 4 bước: khởi động, phân hủy, tạm

ngừng và tạo xương:[25][39][52]
Trong giai đoạn khởi động: các dòng tế bào tạo xương tương tác với các
tế bào tạo máu sản sinh ra các tế bào hủy xương. Bắt đầu bằng việc kích thích
các tế bào xương từ những vi tổn thương của mô xương. Các tế bào này tiết ra
các chất hóa học được dẫn truyền tới tế bào liên kết và tế bào liên kết phô
diễn yếu tố RANK trên bề mặt kích hoạt sự tạo thành tế bào hủy xương từ tế
bào tạo máu.
Đến giai đoạn phân hủy: các tế bào hủy xương đục bỏ những xương bị
tổn hại hay xương cũ bằng cách phân hủy các chất khoáng và để lại những lỗ
hổng trên bề mặt xương.
Sau đó là giai đoạn ngắn tạm nghỉ để các đại thực bào thu dọn những
mảnh xương vụn. Các tế bào tạo xương xuất hiện và sửa chữa những xương


5

tổn hại bằng xương mới. Trong quá trình này một số các tế bào tạo xương còn
lưu lại trong mô xương và được chuyển hóa thành các tế bào xương thực sự.
Khi xương mới được khoáng hóa quá trình tái tạo xương được hoàn tất. Một
chu kỳ tái tạo xương kéo dài từ 6-9 tháng.[25]
Ở độ tuổi đang phát triển do tác dụng của các yếu tố tăng trưởng, quá
trình xây dựng xương diễn ra mạnh hơn giúp bộ xương phát triển để đạt khối
lượng đỉnh. Ở người trưởng thành quá trình hủy xương và tạo xương diễn ra
cân bằng [52].Sau khi đạt khối lượng tối đa, xương bắt đầu suy giảm với mức
độ khác nhau theo độ tuổi.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chuyển hóa của xƣơng
Estrogen và testosteron là hai hormon đóng vai trò quan trọng trong
quá trình tạo xương.[24][25]
- Estrogen : hormone sinh dục nữ tăng hoạt động của tạo cốt bào(vì có
thụ thể với estrogen), tăng vận chuyển calci vào xương, tăng phát triển sụn

liên hợp và tăng chuyển sụn thành xương[8], kích thích sản sinh calcitonin,
calcitriol, ức chế bài tiết PTH ảnh hưởng đến các yếu tố tăng trưởng tại chỗ
của xương interleukin-1, interleukin-6, prostaglandin E2. Nó làm giảm lượng
tế bào và hoạt động của tế bào hủy xương.
- Testosteron kích thích tăng trưởng cơ và tác động tích cực đến quá
trình tạo xương, nó còn kích thích sản sinh ra estrogen trong quá trình tác
động đến xương và cơ.[25][24]
Ngoài ra còn rất nhiều các yếu tố toàn thân và nội tại khác tham gia vào
cơ chế tạo xương, hủy xương và chuyển hóa xương:[25]
* Các Polypeptid hormon
- Parathiroid hormon (PTH) : tăng giải phóng calci từ xương vào máu
do tác dụng lên sự biệt hóa và hoạt động của các loại tế bào xương, không tác
dụng trực tiếp lên tế bào hủy xương mà thông qua các tín hiệu được chuyển
vào từ tế bào xương và tế bào tạo xương . PTH vừa kích thích vừa ức chế tổng
hợp các sợi Collagen và khuôn xương .
- Calcitonin: do tế bào cạnh nang tuyến của tuyến giáp tiết ra có tác
dụng ức chế hủy cốt bào làm giảm vận chuyển calci vào máu .


6

- Insulin: của tuyến tụy kích thích tổng hợp chất nền xương do tác
dụng lên tạo cốt bào, rất c ần thiết cho sự calci hóa và sự phát triển bình
thường của xương.
- Hormon tăng trưởng (Growth hormone - GH) của tuyến yên có tác
dụng kích thích mô sụn và xương phát triển, kích thích tạo xương.
* Các steroid hormone:
- Calcitriol (1,25 Dihydroxy vitamin D3 ) có tác dụng tăng quá trình
hấp thu Ca+2 ở ruột và xương, cần thiết cho sự trưởng thành, calci hóa bình
thường của xương. Ngoài ra còn tác dụng kích thích hủy xương và ức chế

tổng hợp collagen xương .
- Glucocorticoid : của vỏ thượng thận, có tác dụng với chuyển hóa và
chất khoáng của xương làm giảm khối lượng xương và gây loãng xương .
- Các thyroid hormon: Hormon tuyến giáp có vai trò chuyển mô sụn
thành mô xương, kích thích hủy xương [9]
* Các yếu tố điều chỉnh tại chỗ:
- Yếu tố tăng trưởng giống insulin duy trì khuôn xương và khối lượng
xương. Yếu tố tăng trưởng chuyển dạng β (TGF-β) tăng số lượng tạo cốt bào,
giảm hủy xương. Yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi làm lành tổ chức xương
và yếu tố tăng trưởng bắt nguồn từ tiểu cầu (FDGF) làm lành tổ chức xương .
- Các Cytokin: các interleukin, các yếu tố hoại tử u, prostaglandin E 2
kích thích sự tiêu xương và tái tạo tế bào xương.
* Các yếu tố khác : men phosphatase acid kháng tartrate(TRAP), yếu
tố nhân Kappa B (RANK), Interferon vừa kích thích vừa ức chế hoạt động tế
bào xương
1.2.3. Những Marker phản ánh chu chuyển xƣơng:
* Những Marker của hoạt động tạo xương
- Phosphastase kiềm: Alkaline phosphatase (AP) - Yếu tố đồng dạng
xương đánh giá sự tạo xương
- Osteocalcin: phản ánh tốc độ tạo xương và sự khoáng hóa - là xét
nghiệm đặc hiệu thăm dò hoạt động tạo xương [8]
* Những Marker của hoạt động hủy xương :


7

- Hydroxyproline (OHP) - Sản phẩm phân hủy Collagen xương đào thải
qua nước tiểu, xét nghiệm tỷ lệ OHP/Creatinin niệu khi đói đánh giá sự hủy
xương trên lâm sàng [39]
- Phosphatase acid kháng Tartrate trong máu (TRAP): TRAP xuất hiện

khi có sự giáng hóa chất khuôn xương
- Pyridinoline nước tiểu - phản ánh sự hủy xương
1.3. Loãng xƣơng, yếu tố nguy cơ của loãng xƣơng
1.3.1. Cơ chế bệnh sinh của loãng xƣơng:

Xƣơng bình thƣờng
Loãng xƣơng
Hình 1.1. Xương bình thường và loãng xương
Quá trình tái tạo xương có khả năng sửa chữa cả những xương bị tổn hại
rạn nứt và có chức năng duy trì mật độ xương ở mức tối ưu. Vậy tại sao lại
loãng xương ?
Đó là khi các tế bào hủy xương tạo ra những lỗ phân hủy sâu, hoặc khi
các tế bào tạo xương không có khả năng lấp vào những lỗ hổng do các tế bào
hủy xương để lại. Quá trình được lặp đi lặp lại trong nhiều năm, lâu dần làm
xương yếu và dễ gẫy, đặc biệt ở những người cao tuổi. Với bề mặt rộng và
nằm sát với những tế bào tủy có tham gia vào chu chuyển xương nên sự mất
xương ở xương xốp thường xảy ra sớm và trên diện rộng hơn xương vỏ vì vậy
rối loạn tái tạo biểu hiện ở xương xốp sớm hơn[52]. Sau thời kì mãn kinh vài
năm ở nữ và sau độ tuổi 60 ở nam các tế bào hủy xương năng động hơn các tế
bào tạo xương, dẫn tới tình trạng suy giảm mật độ xương, loãng xương và gia
tăng nguy cơ gãy xương ở người cao tuổi


8

Xương cần chất dinh dưỡng như calci, vitamin D, phospho để xây dựng
mô xương, những chất này thường được hấp thu qua thực phẩm, khi một
người không cung cấp đầy đủ các khoáng chất đó cho nhu cầu cơ thể, các
hormon điều tiết cơ thể phản ứng bằng cách lấy các chất khoáng này khỏi
xương để dùng cho các chức năng khác trong cơ thể. Khi quá trình này cứ xảy

ra liên tiếp sẽ dẫn đến giảm mật độ xương, loãng xương và gãy xương.[25]
Như vậy, loãng xương là hệ quả của sự mất cân đối giữa hai quá trình
tạo xương và hủy xương: trong đó mức độ hủy xương tăng hơn mức độ tạo
xương. Sự mất cân đối dẫn đến việc cơ thể mất xương tăng dần, khiến lực của
xương suy giảm và làm tăng nguy cơ gãy xương.
Khi sinh thiết xương của một người bình thường và một người bị loãng
xương người ta thấy rằng: xương của người bình thường có những thanh
xương liên kết nhau thành những “ma trận” và ở xương của người bị loãng
xương hay có mật độ xương bị suy giảm thì phần lớn những “ma trận” này bị
mất đi hay bị phân hủy (ảnh 1.1).

Sơ đồ 1.1. Cơ chế loãng xương
Nguồn: Nguyễn Thy Khuê(2011)[24]


9

Cơ chế mất xƣơng ở nữ giới sau mãn kinh
Trung bình phụ nữ mất khoảng 50% xương xốp và 35% xương đặc
trong quãng đời, có ước tính cho rằng trong đó có 25% xương xốp và 15%
xương đặc mất đi là do giảm hay thiếu estrogen [24][25]. Estrogen tác động
đến các tế bào tạo xương và hủy xương để ức chế sự phân hủy xương trong
mọi giai đoạn của quá trình tái tạo xương. Điều đó giải thích rằng ngay những
năm đầu mãn kinh, lượng estrogen bị suy giảm đột ngột hệ quả là mật độ
xương cũng suy giảm nhanh chóng. Ảnh hưởng của Estrogen lên sự tái tạo
xương là vấn đề cơ bản của loãng xương sau mãn kinh[28][53].
Mất xương nhanh ngừng sau 5-10 năm, ngay sau đó người phụ nữ tiếp
tục giai đoạn mất xương chậm do thiếu estrogen, đồng thời lại vừa chịu mất
xương do tuổi già.[24]


Sơ đồ 1.2. Giai đoạn mất xương chậm do thiếu estrogen sau mãn kinh
Nguồn: Nguyễn Thy Khuê(2012) [24]
1.3.2. Loãng xƣơng ở ngƣời cao tuổi
Xuất hiện ở cả giới nam và nữ trên 70 tuổi: là hậu quả của sự mất
xương từ từ trong nhiều năm.[27][31]
Nguyên nhân là do giảm chức năng tạo cốt bào, mất cân bằng giữa tạo
xương và hủy xương, tạo nên những cân bằng âm tại vị trí mất xương. Vì vậy
làm cho vỏ xương bị mỏng đi, liên kết giữa các bó xương bị đứt gãy do hậu
quả của sự thiếu hụt nhiều yếu tố kích thích tạo xương, gián tiếp làm các yếu
tố kích thích hủy xương tăng lên.[25]


10

Đồng thời có sự giảm hấp thu calci ở ruột, giảm tái hấp thu calci ở ống
thận, dẫn tới cường cận giáp thứ phát do đó tăng bài tiết calci qua nước tiểu ,
gây mất chất khoáng toàn thể cả xương xốp và xương đặc. Vì vậy loãng
xương ở người cao tuổi biểu hiện chủ yếu là gẫy cổ xương đùi với tỷ lệ
nam/nữ là 1/2 và thường xuất hiện muộn.[27]
Ngoài sự lão hóa của tạo cốt bào, các yếu tố khác không kém phần
quan trọng ảnh hưởng tới mật độ xương, đó là khi tuổi càng cao đồng nghĩa
với việc con người tích lũy càng nhiều yếu tố nguy cơ trong suốt quá trình
sống. Sự hấp thu các chất dinh dưỡng giảm, lượng calci, vitamin D, phospho
và khoáng chất không được cung cấp một cách đầy đủ trong khẩu phần ăn
hàng ngày dẫn đến thiếu calci và vitamin D. Người già dễ bị suy dinh dưỡng,
sức khỏe giảm sút, họ thường ít hoạt động thể lực, khối cơ yếu, thị lực kém, ở
trong nhà nhiều. Và thêm một điều quan trọng, khác với các đối tượng khác,
đó là người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh mạn tính liên quan đến quá trình
lão hóa có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của xương ...
Như vậy, những người cao tuổi đồng thời có thể có rất nhiều nguy cơ

gây loãng xương điều đó đồng nghĩa với việc càng làm tăng nguy cơ loãng
xương và gẫy xương do loãng xương.
1.3.3. Định nghĩa, triệu chứng loãng xƣơng và các phƣơng pháp đo mật độ
xƣơng
 Định nghĩa:
* Năm 1991 WHO định nghĩa : Loãng xương là một bệnh lý của xương,
đặc trưng bởi sự giảm khối lượng xương kèm theo hư biến cấu trúc của xương
làm cho xương giòn và trở nên dễ gẫy[1][39].
Năm 2001- Viện Y tế Hoa Kì chủ trì hội nghị chuyên đề về loãng
xương đã đi đến một định nghĩa mới về loãng xương: Loãng xương được đặc
trưng bởi sự thay đổi sức mạnh của xương. Sức mạnh này được đặc trưng bởi
mật độ xương và chất lượng của xương [27][39].
Chất lượng xương được đánh giá bởi các thông số: cấu trúc của xương,
chu chuyển xương, độ khoáng hóa, tổn thương tích lũy, tính chất của các chất
cơ bản của xương. Tuy nhiên các thông số để đánh giá chất lượng xương hiện


11

đang được nghiên cứu để tìm ra các chỉ số có thể ứng dụng trên lâm sàng,
hiện nay mật độ xương vẫn là tiêu chuẩn vàng để đánh giá sớm nhất tình trạng
loãng xương trên lâm sàng.
 Triệu chứng:
- Triệu chứng lâm sàng xuất hiện muộn khi mật độ xương đã mất khoảng
30%, biểu hiện:[27][31][39]
Đau dọc các xương dài, đau cột sống thắt lưng, đau cột sống cổ.
Giảm chiều cao so với lúc trưởng thành hoặc đau cột sống do xẹp các
đốt sống cấp tính; đau xuất hiện khi có 1 đốt sống mới bị xẹp hoặc đốt sống
ban đầu bị xẹp nặng lên. Trường hợp có biến dạng cột sống: làm cho bệnh
nhân đau cột sống và đau do cọ sát vào xương chậu

Hội chứng kích thích rễ thần kinh:có thể có dấu hiệu chèn ép rễ, không
bao giờ có dấu hiệu chèn ép tủy.
Nhiều trường hợp biểu hiện đầu tiên của loãng xương là gẫy xương tự
nhiên hoặc sau 1 sang chấn nhẹ, thường gặp ở vị trí cổ xương đùi, xương cánh
tay, cẳng tay, xương sườn, xương chậu. Trong số đó gãy xương đùi gây hậu
quả nặng nề nhất, làm tăng nguy cơ tử vong, tàn tật và chi phí y tế cao.
- Xét nghiệm sinh hóa: Bilan phospho-calci âm tính, CRP bình thường..
Tạo xương: xét nghiệm nồng độ Osteocalcin, phosphatse kiềm trong
huyết thanh.
Hủy xương: xét nghiệm phosphatase acid, kháng tartrate(TRAP) trong máu
- Nước tiểu: piridinolin(Pyr), Desoxypyridinolin(D-Pyr)
- XQ quy ước: có nhiều tiêu chuẩn đánh giá mật độ xương bằng phương pháp
Xquang, tính theo các chỉ số Barnett-Nordin, Meunier, Buchanan J.R, Singh
 Các phƣơng pháp đo mật độ xƣơng:
- Đo hấp phụ photon đơn ( Single photon Absortiomerry - SPA): áp dụng
đo khối lượng xương ở vị trí ngoại vi như xương quay, xương gót, không đo
được vị trí trung tâm như xương đùi, cột sống.
- Đo hấp phụ photon kép: sử dụng chùm photon có 2 đỉnh năng
lượng riêng biệt, tách phần hấp thu bởi mô mềm để tính mật độ xương
chính xác hơn.


12

- Siêu âm định lượng: khi xương xốp do loãng xương thì khả năng dẫn
truyền tia siêu âm của xương giảm và khả năng hấp thụ tia siêu âm của xương
cũng giảm.
- Chụp cắt lớp điện toán định lượng: cung cấp hình ảnh 3 chiều, BMD và
khối lượng thật của xương. Thành phần xương đặc và xương xốp được đánh
giá 1 cách biệt lập

- Đo hấp thụ tia X đơn: dùng để đo mật độ xương ở các vị trí xương
ngoại vi, đo ở những vị trí tránh dùng chất phóng xạ, kĩ thuật này khó sử dụng
ở phần xương đùi và cột sống
- Đo độ hấp thụ tia X năng lượng kép - DEXA ( Dual-energy X-ray
Absorptionmetry) : nguyên lý giống như đo độ hấp phụ photon kép nhưng sử
dụng tia X thay vì chất đồng vị phóng xạ. Kết quả chính xác, đo được ở các vị trí
trung tâm . Ưu điểm: độ chính xác cao thời gian thăm dò ngắn, liều tia xạ thấp.
Ngoài cột sống và cổ xương đùi còn đo được các xương ngoại vi toàn cơ thể.
1.3.4. Chẩn đoán loãng xƣơng
 Chẩn đoán: - Chẩn đoán loãng xương theo tiêu chuẩn chẩn đoán của
WHO dựa trên mật độ xương.
Từ năm 2002 các hội nghị quốc tế về loãng xương đã thống nhất quan
điểm chỉ có máy sử dụng tia X năng lượng kép được gọi là DEXA ( Dualenergy X-Ray absorptionmetry) mới có giá trị chẩn đoán.
Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương của WHO dựa vào BMD (Bone
Mineral Density) tính theo T-score (độ lệch chuẩn): là chỉ số mật độ xương
của cá thể đó so với mật độ xương của nhóm người trẻ tuổi làm chuẩn:
Mật độ xƣơng bình thƣờng khi T-score ≥ -1: tức là BMD của cá thể
đó lớn hơn hoặc bằng -1 độ lệch chuẩn với giá trị trung bình của người trưởng
thành khỏe mạnh 20-30 tuổi.
Giảm mật độ xƣơng khi -1>T-score>-2,5: tức là BMD<-1 đến >-2,5 độ
lệch chuẩn với giá trị trung bình của ngưởi trưởng thành khỏe mạnh 20-30 tuổi.
Loãng xƣơng khi T-score ≤ -2,5: tức là BMD ≤ -2,5 độ lệch chuẩn với
giá trị trung bình của người trưởng thành khỏe mạnh 20-30 tuổi.
Loãng xương nặng khi T-score ≤ -2,5 và kèm gẫy xương


13

- Các triệu chứng lâm sàng và hình ảnh trên phim X quang chỉ chẩn đoán
loãng xương ở giai đoạn muộn khi đã có biến chứng:[27]

o Giảm chiều cao so với thời thanh niên do đốt sống bị lún, xẹp
o Cột sống biến dạng gù, cong
o Được phát hiện lún xẹp đốt sống hoặc thưa xương trên Xquang
o Gẫy xương không do chấn thương : thường gẫy đầu trên xương đùi,
đầu dưới xương cẳng tay.
 Phân loại:[1] [27][39]
Loãng xương chia 2 loại: loãng xương nguyên phát và loãng xương thứ phát.
- Loãng xương nguyên phát: (chiếm khoảng 80%) là loại loãng xương
xuất hiện một cách tự nhiên mà không tìm thấy căn nguyên nào khác ngoài
tuổi và/hoặc tình trạng mãn kinh ở phụ nữ. Nguyên nhân do quá trình lão hóa
của tạo cốt bào dẫn đến tình trạng mất cân bằng giữa tạo xương và hủy
xương. Loãng xương nguyên phát được chia thành 2 typ:
o Loãng xương sau mãn kinh - typ 1: nguyên nhân chủ yếu do thiếu hụt
estrogen, ngoài ra có sự giảm tiết PTH, tăng thải calci qua nước tiểu.. thường
gặp ở phụ nữ 50-60 tuổi đã mãn kinh hoặc cắt bỏ buồng trứng khoảng 5-15
năm. Tổn thương chủ yếu là sự mất chất khoáng ở xương xốp, biểu hiện
bằng sự gẫy lún các đốt sống hoặc gẫy đầu dưới xương quay.
o Loãng xương tuổi già - typ 2: xuất hiện ở cả nam và nữ trên 70 tuổi,
đây là hậu quả của sự mất xương trong nhiều năm, liên quan đến hai
tếu tố: giảm hấp thu calci ở ruột và giảm chức năng tạo cốt bào gây
cường cận giáp thứ phát làm tăng bài tiết calci qua nước tiểu. Tổn
thương cả ở phần xương xốp và xương vỏ, thường biểu hiện bằng gẫy
cổ xương đùi
- Loãng xương thứ phát: là loãng xương tìm thấy nguyên nhân do 1 số
bệnh hoặc thuốc gây nên
o Bệnh nội tiết: tăng tiết hormon vỏ thượng thận, giảm chức năng tuyến
sinh dục, cường giáp, cường cận giáp, đái tháo đường, cắt bỏ buồng trứng.
o Bệnh tiêu hóa: cắt dạ dày, cắt đoạn ruột, rối loạn tiêu hóa kéo dài, bệnh
gan mãn, kém hấp thu..



14

o
o
o
o

Bệnh khớp: viêm khớp dạng thấp, bệnh lý cột sống,
Bệnh ung thư: kaler, ung thư di căn.
Bệnh di truyền: nhiễm sắc tố sắt, bệnh marfan
Sử dụng corticoid kéo dài, heparin, thuốc chống động kinh, hay nằm
bất động lâu ngày.

1.3.5. Các yếu tố nguy cơ gây loãng xƣơng
Tình trạng loãng xương phụ thuộc vào một hoặc cả hai yếu tố: khối
lượng xương đỉnh và sự mất xương sau khi đạt khối lượng xương đỉnh .
 Khối lượng xương đỉnh: là khối lượng xương đạt được tại thời điểm
trưởng thành 20-30 tuổi, đây chính là ngân hàng dự trữ xương của cơ
thể khi về già. Khối lượng xương đỉnh càng cao thì nguy cơ loãng
xương khi có tuổi càng thấp. Khối lượng xương đỉnh được quyết định
bởi các yếu tố sau:
genetic
dinh dƣỡng

khối lƣợng xƣơng đỉnh

các hormon

lối sống

Sơ đồ 1.3. Các yếu tố quyết định khối lượng xương đỉnh
*Nguồn Manolagas S.C (1995) [66]
 Những yếu tố nguy cơ khác gây loãng xương sau khi cơ thể đạt khối
lượng xương đỉnh:
Các yếu tố được nêu sau đây không có yếu tố nào là nguyên nhân đặc
biệt gây loãng xương mà mỗi yếu tố đều có một phần vai trò trong việc làm
cho xương mỏng và xốp dần, tất cả đều có nguy cơ làm giảm mật độ xương,
một cá thể hội tụ nhiều các yếu tố nguy cơ thì nguy cơ loãng xương cao hơn
những cá thể không có hay có ít yếu tố nguy cơ.
- Yếu tố chủng tộc : người da đen ít bị loãng xương hơn người da trắng
và người Châu Á
- Yếu tố di truyền và gia đình: tiền sử gia đình là yếu tố nguy cơ gây loãng


15

xương, những người có mẹ đẻ bị gẫy xương thường có nguy cơ gẫy lún đốt
sống do loãng xương hơn những người có mẹ đẻ không bị gẫy xương do
loãng xương [48]
- Giới: phụ nữ có nguy cơ loãng xương cao hơn nam giới vì khối lượng
xương của họ thấp hơn và có một quá trình mất xương nhanh do sự suy giảm
chức năng buồng trứng sau mãn kinh.[67]
- Tuổi già: tuổi càng cao mật độ xương càng giảm do chức năng của tạo
cốt bào suy giảm làm mất cân bằng giữa tạo xương và hủy xương. Thêm vào
đó là sự giảm hấp thu calci ở ruột, và giảm tái hấp thu calci ở ống thận
[27][31][37]
- Tuổi mãn kinh: những phụ nữ mãn kinh sớm một cách tự nhiên hay do
cắt bỏ buồng trứng có nguy cơ loãng xương sớm hơn do thiếu hụt hormon
oestrogen. [36]
- Yếu tố hormon: giảm oestrogen trong thời gian tăng trưởng và sau mãn

kinh đóng vai trò quan trọng nhất trong cơ chế bệnh sinh của loãng xương, tỷ
lệ mất xương trong giai đoạn mất xương nhanh có liên quan đến nguy cơ gãy
xương do loãng xương.[24][36]
Giảm androgen, tăng tiết hormon cận giáp trạng, tăng tiết corticoid của
vỏ thượng thận cũng có thể dẫn tới loãng xương.
- Yếu tố dinh dưỡng: Chế độ ăn không đầy đủ calci và vitamin D khi
tuổi già làm tăng nguy cơ gãy xương do loãng xương ở người cao tuổi. Một
chế độ ăn kiêng quá mức dẫn tới việc các cơ bị yếu đi không đủ sức chống đỡ
khi có nguy cơ ngã, và cơ cũng không đủ dày để đệm cho xương, không đủ
căng để giúp xương chịu lực ở những nơi xương bị loãng do đó càng làm tăng
nguy cơ gãy xương khi bị ngã.
- Cân nặng: người nhẹ cân sự mất xương xảy ra nhanh hơn, tần xuất gẫy
cổ xương đùi và xẹp đốt sống cao hơn
- Chiều cao: tầm vóc nhỏ dễ bị loãng xương hơn do có khối lượng xương
thấp hơn. Vũ Thị Thanh Thủy (1996), Trần Thị Tô Châu (2002) thấy rằng
chiều cao dưới 145cm là yếu tố nguy cơ gây giảm mật độ xương.[3][33]


16

- Chỉ số khối cơ thể (BMI): có ảnh hưởng đến mật độ xương , BMI ≥
25 như là yếu tố bảo vệ với mật độ xương, BMI <22 lại tăng nguy cơ loãng
xương[44]; Nguyễn Thị Hoài Châu(2003) cũng kết luận có mối liên quan giữa
chỉ số khối cơ thể với tình trạng loãng xương[2].
- Vận động: tập thể dục thường xuyên làm giảm bớt nguy cơ loãng
xương và làm chậm quá trình mất xương ở người có tuổi, đồng thời làm cho
cơ chắc khỏe và giảm nguy cơ ngã, vận động của các cơ kích thích sự tạo
xương và tăng khối lượng xương, giảm vận động sẽ gây mất xương
nhanh[80].
- Hút thuốc lá : làm tăng mất xương, ở những người có hút thuốc lá mật độ

xương thấp hơn những người chưa từng hút thuốc lá.[39]
- Thói quen uống rượu và cafe: làm giảm hấp thu calci và các chất
khoáng ở ruột, các độc chất sinh ra trong quá trình chuyển hóa làm ngăn cản
sự hoạt động của tạo cốt bào[39]
- Loãng xương do thuốc: sử dụng corticoid kéo dài làm tăng nguy cơ
loãng xương và gãy xương.
- Yếu tố cơ học: nằm bất động lâu trên 6 tháng…
- Các bệnh lý ảnh hưởng tới loãng xương: cường giáp, cường cận giáp,
Cushing, đái tháo đường, sau cắt dạ dày, ruột, rối loạn tiêu hóa kéo dài, suy
thận, xơ gan, suy giáp, viêm khớp mạn tính.[27]
Một số phƣơng pháp đánh giá nguy cơ loãng xƣơng hiện nay
 Phương pháp đánh giá nguy cơ loãng xương dựa vào chỉ số OSTA:
áp dụng cho phụ nữ Châu Á, tại các cơ sở chưa có máy đo mật độ
xương, có thể đánh giá nhanh nguy cơ loãng xương nhờ các dụng cụ
xác định chỉ số OSTA (Osteoporosis Self - Assessment Tool for Asians
Index).[58][62]


17

Tuổi

Cân nặng
40-44

45-49

50-54

55-59


60-64

65-69

70-74

75-79

80-84

85-89

90-94

40-44
45-49
50-54
55-59
60-64
65-69
70-74
75-79
80-84
85-89
90-94
95-99

Nguy cơ thấp


Nguy cơ trung bình

Nguy cơ cao

Hình 1.2. Dụng cụ xác định chỉ số OSTA
Dụng cụ xác định chỉ số OSTA được áp dụng với những người đã mãn kinh.
 Tìm nguy cơ loãng xương ở điểm giao nhau giữa cân nặng và tuổi.
Chỉ số OSTA được tính như sau:OSTA = 0.2*(Trọng lượng - Độ tuổi).
Phụ nữ với chỉ số OSTA ≤ -1 được xem là có nguy cơ cao.[20]
 Ứng dụng chỉ số OSTA
- Nguy cơ cao: có chỉ định đo mật độ xương, nên chỉ định thuốc chống
loãng xương.
- Nguy cơ trung bình: có chỉ định đo mật độ xương, mật độ xương thấp cần
điều trị thuốc chống loãng xương
- Nguy cơ thấp: không cần đo mật độ xương trừ khi có yếu tố nguy cơ.
 Phương pháp đánh giá nguy cơ loãng xương theo Hiệp hội Loãng
xương quốc tế IOF (Internation Osteoporosis Founation) [42]:


18

Đánh giá nguy cơ trên cơ sở trả lời các câu hỏi dưới đây:
1- Cha mẹ bạn có bị gẫy cổ xương đùi sau chấn thương rất nhẹ không?
2- Bản thân bạn có bị gẫy cổ xương đùi sau 1 chấn thương rất nhẹ không?
3- Bạn đã từng dùng corticoid, prednisolon.. trên 3 tháng không?
4- Chiều cao của bạn có bị giảm trên 3cm?
5- Bạn có thường xuyên uống rượu không?
6- Bạn có thường xuyên hút trên 20 điếu thuốc lá mỗi ngày không?
7- Bạn có thường bị tiêu chảy không?
8- Bạn đã mãn kinh ( hoặc bị cắt bỏ buồng trứng) trước 45 tuổi?

9- Bạn có bị mất kinh trên 12 tháng không liên quan đến thai kỳ không?
10- Riêng đối với nam bạn có bị bất lực, giảm ham muốn tình dục hoặc có
các tình trạng liên quan đến giảm testosteron?
Khi có đồng thời nhiều yếu tố nguy cơ sẽ càng tăng nguy cơ loãng xương.
 Mô hình tiên lượng loãng xương cho phụ nữ Việt Nam trên 50 tuổi:
Được phát triển dựa vào 2 chỉ số nhân trắc: tuổi và trọng lượng cơ
thể[20]. Mô hình này góp phần vào việc tuyển chọn đối tượng để điều trị
loãng xương và loại bỏ những trường hợp không cần phải đo MĐX

Hình 1.3. Biểu đồ tiên lượng cho từng độ tuổi và cân nặng
Nguồn: Nguyễn Thị Thanh Hương, Phạm Thị Minh Đức và cộng sự [20]


19

Cách tính: Đánh dấu độ tuổi của đối tượng trên trục Age, vẽ một
đường thẳng đến trục Point để xác định chỉ số tuổi cho đối tượng. Lặp lại quy
trình trên để xác định chỉ số cho cân nặng. Cộng hai chỉ số với nhau và đánh
dấu tổng số này ở trục Total Points, vẽ một đường thẳng từ tổng số trên trục
Total Points đến trục Risk of Osteoporosis để xác định xác xuất loãng
xương cho đối tượng.
Theo mô hình này phần lớn các phụ nữ từ 70 tuổi trở lên có nguy cơ loãng
xương rất cao, đặc biệt với những phụ nữ dưới 50kg.
1.3.6. Điều trị và dự phòng loãng xƣơng
Điều trị loãng xương nhằm vào 3 mục tiêu chính sau:
- Phòng chống hoặc giảm thiểu được nguy cơ gẫy xương: góp phần vào
việc nâng cao chất lượng cuộc sống và nâng cao tuổi thọ của bệnh nhân.
- Những bệnh nhân gẫy xương thường có nguy cơ gẫy xương lần nữa
rất cao, trên những bệnh nhân này mục tiêu điều trị nhằm ngăn chặn gãy
xương lần thứ 2 hay lần kế tiếp.

- Ngăn chặn tình trạng mất chất khoáng trong xương bởi vì mật độ
xương thấp là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến gẫy xương, đặc biệt sau
thời kì mãn kinh.
 Các biện pháp không dùng thuốc:
- Thể thao, hoạt động thể lực thường xuyên để củng cố chất lượng
xương: các bài tập thể dục thông thường làm tăng sức chịu đựng của cơ thể:
đi bộ, chạy bộ, khiêu vũ, tennis..
- Đảm bảo chế độ ăn giàu calci trong suốt cuộc đời, ngay từ thời niên
thiếu. Tránh sử dụng thuốc lá và rượu
- Các bệnh nhân có nguy cơ loãng xương cần tránh ngã: cần đánh giá
trên bệnh nhân cụ thể để loại trừ các yếu tố có thể gây ngã: tránh đi bộ trong
trời mưa, rét; có thể làm tay vịn trong nhà khi có người già yếu, mắt kém đi
lại khó khăn..có thể mặc quần đùi bảo vệ khớp háng tránh gẫy cổ xương đùi,
khi có biến dạng cột sống , gù vẹo cần đeo thắt lưng cố định cột sống để trợ
giúp cột sống.


20

 Điều trị thuốc:
Cơ chế của thuốc chống loãng xương: xương là sự kết tinh của hai quá
trình sinh học đối nghịch nhau tạo xương và hủy xương, ở người cao tuổi tế
bào hủy xương hoạt động mạnh hơn và dẫn đến tình trạng mất chất khoáng
trong xương vì vậy điều trị chống loãng xương sẽ tác động vào 1 trong 2 cơ
chế này. Hiện nay các thuốc điều trị loãng xương chia làm 2 nhóm cơ bản
Nhóm 1: Thuốc chống hủy xƣơng:
Kết hợp calci và vitamin D : là thuốc căn bản có trong mọi phác đồ
điều trị loãng xương. Chỉ dùng đơn độc sự kết hợp này thì không đủ để điều
trị loãng xương.
Nhóm biphosphonat: có hoạt tính chống hủy xương với sự giảm tiêu

xương: hiện được coi là nhóm thuốc có hiệu quả nhất trong điều trị loãng xương:
+ Alendronat- Fosamax, Risedronat-Actotel: Các thuốc nhóm này cần
uống lúc đói và không nằm sau uống thuốc ít nhất 30 phút tránh trào ngược
thực quản
+ Pamidronat- Aredia: chỉ định trong loãng xương nặng thứ phát., hoặc
chỉ định ở phụ nữ sau mãn kinh có lún xẹp đốt sống nhiều
+ Acid Zoledronic-Aclasta điều trị loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh
hoặc loãng xương nam giới
+ Calcitonin-Miacalcic: chỉ định cho gẫy xương mới, loãng xương nhẹ
,dự phòng loãng xương do dùng corticoid ,thay thế hormon nữ
Nhóm 2: Thuốc tăng tạo xƣơng
+ Hormon cận giáp trạng PTH - Forsteo
+ Strontium ranelate - Protelos
 Dự phòng loãng xƣơng:
Theo nguyên lý chung của dự phòng bệnh tật: ngăn ngừa loãng xương
được chia thành 2 cấp độ:
Phòng ngừa nguyên phát: chủ động áp dụng các biện pháp ngăn ngừa
cho một cộng đồng hay một nhóm cá thể chưa có biểu hiện loãng xương
(Tscore ≤-1) nhằm giảm thiểu tỷ lệ mắc cho cộng đồng.[86]


21

Phòng ngừa thứ phát: Tập trung phòng ngừa và điều trị cho đối tượng
có mật độ xương thấp ở người cao tuổi: thay đổi thói quen lối sống ảnh hưởng
tiêu cực đến mật độ xương làm giảm thiểu phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ,
giáo dục nhận thức về loãng xương. Dự phòng cho các đối tượng có nguy cơ
loãng xương thứ phát (bệnh lý, sử dụng corticoid). Can thiệp bằng thuốc.
1.4 Tình hình nghiên cứu loãng xƣơng hiện nay.
Nhận thức được quy mô và ảnh hưởng của bệnh loãng xương các giới

chức y tế thế giới xem loãng xương là một trong những vấn đề y tế hàng đầu
trong thế kỷ 21 và từ năm 2002 đến 2012 được xem là thập niên xương.
Trong nước: Nhiều công trình nghiên cứu khoa học về loãng xương như:
Đánh giá những yếu tố nguy cơ loãng xương sau mãn kinh ở Việt Nam
của Vũ Thị Thanh Thủy, Trần Ngọc Ân tại bệnh viện Bạch Mai. Xác định các
yếu tố nguy cơ loãng xương: tuổi > 70, chiều cao dưới 145 cm, tuổi mãn kinh
< 43, thời gian mãn kinh > 20 năm, gãy xương sau chấn thương tối thiểu
trước 45 tuổi [34].
Nhận xét mật độ xương của nam giới bình thường từ 50 tuổi trở lên
bằng phương pháp đo hấp thụ tia X năng lượng kép ở xương gót và xương
cẳng tay, tác giả Phạm Văn Tú và cộng sự cho thấy kết quả: MĐX gót tăng
theo chiều cao, cân năng, luyện tập, giảm theo tuổi, hút thuốc lá, chưa thấy có
liên quan với uống rượu bia.[38]
Phát triển mô hình tiên lượng loãng xương cho phụ nữ Việt Nam của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương và cộng sự (2007) cho thấy mật độ xương
liên quan trực tiếp đến độ tuổi và trọng lượng [20].
Nghiên cứu mật độ xương vùng cổ xương đùi của người bình thường
bằng phương pháp đo hấp thụ tia X năng lượng kép của tác giả Đặng Hồng
Hoa (2008) cho tỷ lệ loãng xương vùng CXĐ của nam giới 6,5%; nữ giới là
11,3%. Tuổi có mối tương quan nghịch với MĐX vùng CXĐ. MĐX của hai
giới tăng lên cùng với sự gia tăng của chỉ số khối cơ thể ở độ tuổi trên 60, tập


22

luyện thể thao làm tăng MĐX, sinh con trên 3 lần giảm MĐX. Tuổi, tình
trạng mãn kinh là yếu tố nguy cơ làm giảm MĐX ở nữ. Tuổi, hút thuốc lá,
uống rượu làm giảm MĐX ở nam.[16]
Đánh giá mật độ xương và tỷ lệ loãng xương ở các bệnh nhân khám và
điều trị tại bệnh viện 103 bằng phương pháp hấp thu tia X năng lượng kép của

Nguyễn Huy Thông và cộng sự cho thấy tại CXĐ tỷ lệ loãng xương là 14%,
trong đó nữ giới 16%, nam giới 9,6%. Tỷ lệ loãng xương tăng theo tuổi, cao
nhất khi trên 70 tuổi (nam 33.3%, nữ 66.7%), tình trạng bệnh mạn tính có khả
năng ảnh hưởng tới mật độ xương làm tăng tỷ lệ loãng xương.[32]
Thế giới:
Theo Iqban Mohammad (2000) có 2 triệu người Canada (10% dân số)
bị loãng xương trong đó có 1,5 triệu là phụ nữ, dự báo đến năm 2021 có
khoảng 13% dân số bị loãng xương .
Nghiên cứu của Mary Anderson và Pierre D. Delmas (2000) cho thấy
những yếu tố nguy cơ của loãng xương như: thiếu xương hoặc biến dạng cột
sống, giảm chiều cao, gãy xương do chấn thương nhẹ, sử dụng corticoid, mãn
kinh sớm trước tuổi 45, chỉ số khối cơ thể dưới 19, tiền sử gãy xương
hông.[68]
Theo tác giả Mary Fraser (2003) loãng xương là một vấn đề sức khỏe
quan trọng, nó ảnh hưởng đến khoảng 75 triệu người Hoa Kỳ, Châu Âu và
Nhật Bản, gồm 1/3 phụ nữ mãn kinh, người cao tuổi kể cả những đàn ông
trung niên. Trên thế giới có khoảng 2,5 triệu người gãy xương do loãng
xương trong năm, trong đó có 1,7 triệu người gãy xương hông [69].
Theo báo cáo của Pensenrga EZG(2007) về tình hình loãng xương ở
Châu Á cho thấy: tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ Thái Lan ở khu vực nông thôn
là 26%,tỷ lệ loãng xương trên phụ nữ trên 40 tuổi ở Trung Quốc là 16%[29]


23

Chƣơng II
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 5/2012 đến tháng 10/2012.
- Địa điểm : Khoa Khám bệnh- Bệnh Viện Lão Khoa Trung ương

2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
2.2.1. Cách chọn mẫu nghiên cứu:
Các bệnh nhân đến khám đạt tiêu chuẩn ĐTNC, được đo MĐX, được
hỏi bệnh, khám, và thu thập thông tin theo mẫu phiếu điều tra nghiên cứu
thống nhất (phụ lục).
Mẫu nghiên cứu thu được N = 611 đối tượng.
2.2.2. Tiêu chuẩn chọn đối tƣợng nghiên cứu:
- Đối tượng ≥ 60 tuổi bao gồm cả hai giới (sinh từ năm 1952).
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2.3. Tiêu chuẩn loại trừ :
- Bệnh nhân nằm bất động hoặc giảm chức năng vận động nặng.
- Bệnh nhân bị ung thư.
- Bệnh nhân đã và đang điều trị loãng xương
- Các bệnh nhân không có khả năng trả lời phỏng vấn
- Những người không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang.
2.3.2. Công cụ nghiên cứu: Mỗi đối tượng nghiên cứu có một bộ phiếu điều
tra thống nhất theo mẫu (xem phụ lục) gồm:
- Phần 1: Các câu hỏi về thông tin cá nhân.
- Phần 2 : Các câu hỏi khảo sát các yếu tố nguy cơ ở đối tượng nghiên cứu.


×