Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN cao học, chính sách đối ngoại của đảng và nhà nước ta trong tiến trình thực hiện sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.97 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, cục diện thế giới đã có những chuyển
biến sâu sắc. Việc Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các
nước Đông Âu sụp đổ đã làm thay đổi cục diện thế giới và đời sống chính trị kinh tế quốc tế, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, tương
quan lực lượng thay đổi có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Cục diện hai cực Xô - Mỹ
chi phối quan hệ quốc tế không còn. Mỹ mạnh hơn các nước lớn khác về kinh
tế, khoa học - công nghệ và quân sự, nhưng ý đồ thiết lập “ thế giới một cực”
của Mỹ gặp nhiều khó khăn. Các nước lớn và các trung tâm chính trị - kinh tế
thế giới khác đang vươn lên mạnh mẽ, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Đặc biệt
kể từ cuối năm 2008 khi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế nổ ra
tại Mỹ và lan rộng ra toàn cầu, thế giới đang chuyển nhanh sang một cục diện
mới với sự tham gia của nhiều nước, nhiều trung tâm, nhiều thể chế như G20,
BRICS.
Quan hệ giữa các nước lớn diễn ra phức tạp theo chiều hướng vừa đấu
tranh vừa thỏa hiệp. Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chiến tranh
và chạy đua vũ trang, chống áp đặt và can thiệp, chống mặt trái của toàn cầu
hóa, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội có bước phát triển
mới và diễn ra đươi nhiều hình thức mới. Song các lực lượng đó chưa hình
thành được liên minh có sức mạnh về tổ chức và vật chất. Hòa bình, hợp tác và
phát triển và phjats triển vẫn là xu thế lớn của thế giới, là đòi hỏi bức xúc của
các quốc gia, dân tộc.
Trước những diễn biến và tác động mạnh mẽ của tình hình thế giới và khu
vực, Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trên
các lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực đối ngoại. Từ Đại hội VI đến nay,
Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại nhằm tạo lập và không ngừng
củng cố môi trường hòa bình ổn định và tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi
để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1



Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 đến nay đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực mạnh
mẽ cho sự phát triển của đất nước. Đổi mới tư duy về đối ngoại thể hiện trước
hết ở việc Đảng ta đã có cách tiếp cận mới trong nhận định và đánh giá tình
hình thế giới và khu vực, những đặc điểm và xu thế lớn của thời đại; đổi mới
về chính sách và hoạt động đối ngoại. Đây là hoạt động rất quan trọng trong
công cuộc đổi mới toàn diện, góp phần khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc
tế, kết hợp sức mạnh thời đại, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam, bảo vệ vững
chắc tổ quốc và đưa đất nước phát triển hiện đại và tiên tiến.
Thông qua các kỳ đại hội, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta
được thể hiện một cách rõ ràng và ngày càng hoàn thiện, thích ứng với yêu
cầu, xu hướng của thời đại.
Đứng trước thời kỳ mở cửa, giao lưu phát triển mạnh mẽ và yêu cầu hòa
nhập nhưng không hòa tan hiện nay của đất nước ta, tầm quan trọng của
chính sách đối ngoại quyết định tới sự phát triển hay suy tàn của một quốc
gia, gắn liền với tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao tầm văn hóa – xã hội của
dân tộc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Trong khuân
khổ một tiểu luận môn học, em xin chọn đề tài “Chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình thực hiện sự nghiệp đổi mới” để
nghiên cứu, nhằm tìm hiểu rõ những quan điểm đối ngoại của Đảng và sự
hoàn thiện của nó trong thời kỳ đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề tài sẽ
nghiên cứu và làm rõ thêm chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong
tiến trình đổi mới đất nước.
2.2. Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu tính tất yếu của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
2



-

Tìm hiểu chính sách đối ngoại và sự đổi mới trong chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước từ Đại hội VI ( 1986) đến nay.

- Tìm hiểu một số phương hướng và giải pháp hiệu quả trong chính
sách đối ngoại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng: Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong tiến trình
đổi mới đất nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ Đại
hội VI đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên các phương pháp : lịch sử, lôgic, phân tích, thống kê và
tổng hợp.
5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ hơn sự đổi mới chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta, những thành tựu đạt được từ đại hội VI ( 1986) đến nay, phương
hướng chiến lược trong chính sách đối ngoại thời gian tới.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu gồm 3
chương:
Chương 1:: Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế là đòi hỏi khách quan và tất yếu.
Chương 2: Hệ thống chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ năm
1986 đến nay.
Chương 3: Một số phương hướng, giải pháp xây dựng chính sách đối ngoại
hiệu quả, phù hợp.


3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN VÀ TẤT YẾU
1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
chính sách đối ngoại
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính
sách đối nội, là bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị và chính sách của
mọi quốc gia, dân tộc.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đấu tranh chính trị. Lênin dạy
rằng đường lối đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa phải nhằm “thiết lập
những quan hệ giúp cho tất cả các dân tộc bị áp bức có thể gạt bỏ được các đế
quốc chủ nghĩa” và tập hợp được những điều kiện thuận lợi nhất cho “việc phát
triển và củng cố cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Quan điểm của các nhà kinh điển chỉ ra rằng một quốc gia, một dân tộc thì
tất yếu phải thực hiện chính sách đối ngoại để tập hợp bạn bè quốc tế, tranh thủ
những điều kiện thuận lợi và sự giúp đỡ của các nước nhằm xây dựng thực lực
của đất nước, giành thắng lợi cho cách mạng và góp phần giải quyết những vấn đề
quốc tế chung. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về quốc
tế, về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới.
Hệ thống quan điểm đó được thể hiện ở những nội dung: Mục tiêu đối ngoại; tập
hợp và mở rộng lực lượng; các phương châm đối ngoại; phương pháp và nghệ
thuật đấu tranh ngoại giao nhằm giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, mục tiêu đối ngoại: là nhằm đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân
tộc, bao gồm các quyền dân tộc cơ bản như: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Điều
đó được khẳng định trong tuyên ngôn độc lập của Nhà nước Việt Nam mới:

Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cái để giữ vững quyền tự
do và độc lập ấy
4


Thứ hai, về mở rộng và tập hợp lực lượng. Xác định đối ngoại là một mặt
trận, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng quan hệ với tất cả các nước, tranh thủ
mọi lực lượng và hình thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại.
Người cho rằng, thắng lợi ngoại giao tuỳ thuộc vào sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất
nước. Với bên ngoài, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng các lực lượng theo
phương châm “thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”, tránh đối đầu “không gây thù oán” với
bất cứ nước nào; khai thác những điểm tương đồng và mọi khả năng có thể nhằm
tập hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam một cách rộng
rãi và sâu sắc nhất.
Thứ ba, về phương châm đối ngoại và phương pháp đấu tranh ngoại giao.
Dân tộc Việt Nam phải tự mình vạch ra đường lối, chính sách đối ngoại độc lập,
tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia và phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thích ứng
với xu thế của thời đại. Tuy nhiên, Người cũng nhấn mạnh rằng không thể hạn
chế những hoạt động đó trong khuôn khổ dân tộc thuần tuý, bởi những hoạt
động đó có sự liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ.
Đối ngoại là một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Trong hoạt
động đối ngoại phải luôn thể hiện chiến đấu cao và tinh thần kiên quyết không
ngừng thế tiến công, nhưng phải biết chọn thời cơ để giành thắng lợi từng bước,
giành thắng lợi từng bộ phận. Để tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước,
hoạt động đối ngoại phải phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động ngoại giao chính trị,
ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá…
Là một nhà ngoại giao lỗi lạc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời sau
những bài học vô cùng quý giá về phong cách của một người làm công tác đối

ngoại. Những tư tưởng này là kim chỉ nam dẫn đường cho việc hoạch định và
thực thi chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Chính sách đối ngoại mới của
Việt Nam sẽ không thể thành công nếu không biết kế tục và phát huy những giá
trị vượt thời gian của những quan điểm này.

5


1.2. Đòi hỏi của trong nước và xu hướng của thế giới về hoạt động đối
ngoại
* Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước
Với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đã giành được thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn. Đất
nước ta hoàn toàn độc lập thống nhất và bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
độc lập tự do và định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa chúng ta có những thuận lợi là: có
Đảng lãnh đạo, một Đảng được tôi luyện, thử thách trưởng thành trong quá trình
đấu tranh cách mạng; có Nhà nước của nhân dân và khối liên minh công nông.
Sau ngày thống nhất đất nước, uy tín của Việt Nam được nâng cao trên trường
quốc tế. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi để giao lưu hợp tác quốc tế, thuận lợi
cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
Để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của đất nước, chính sách đối ngoại của
Việt Nam cũng phải có những điều chỉnh trong chiến lược và sách lược. Một chính
sách đúng đắn là sự khởi nguồn tốt đẹp cho sự phát triển đất nước. Vì vậy để
đảm bảo tính đúng đắn, khách quan khoa học, sáng tạo cao nhất trong việc hoạch
định các chính sách. Đặc biệt là chính sách đối ngoại phải dựa trên quan điểm
lịch sử cụ thể, vừa kế thừa truyền thống ngoại giao của cha ông, vừa kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thời đại mới. Kết hợp nhuần nhuyễn
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả của giai cấp công
nhân, để phục vụ hữu hiệu nhất sự phát triển nước mình, tức là công tác đối

ngoại phải phục vụ chính sách đối nội.
* Xu hướng vận động của thế giới
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và khu vực diễn
biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, có những đột biến lớn làm thay đổi cục diện
kinh tế, chính trị thế giới, đặt ra cho các nước, các dân tộc nhiều vấn đề mới bao
gồm những cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển và cả những khó khăn, thách
6


thức không nhỏ.
Chiến tranh lạnh kết thúc, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát
triển mạnh mẽ, tác động toàn diện đến tình hình chính trị và kinh tế thế giới. Tình
hình chính trị thế giới có những biến động to lớn. Kể từ đầu thập kỷ 90, thế giới
bước vào thời kỳ quá độ, từ trật tự thế giới cũ sang hình thành một trật tự thế
giới mới. Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô
(1991), sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô đã làm cho cục diện thế giới có sự
thay đổi căn bản. Trật tự thế giới hai cực tồn tại trong suốt nửa thế kỷ từ sau chiến
tranh thế giới lần thứ 2 chấm dứt. Lực lượng trên thế giới thay đổi từ chỗ tương
đối cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội chuyển sang hướng có lợi
cho Mỹ và các nước tư bản phát triển, bất lợi cho phong trào cách mạng tiến bộ
trên thế giới.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng tác động không nhỏ đến cán cân so sánh lực
lượng của thế giới thời kỳ sau chiến tranh lạnh, trở thành một thách thức mới đối
với Mỹ là một nước lớn với số dân trên 1 tỷ người. Trung Quốc đã đạt những
thành tựu to lớn trong kinh tế bằng cải cách kinh tế và chính sách mở cửa.
Trung Quốc nuôi hy vọng sẽ vượt Mỹ, Nhật Bản về quy mô kinh tế, trở thành
"anh cả" trong nền kinh tế thế giới và thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của Trung Quốc.
Xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra
mạnh mẽ và trở thành phổ biến. Điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới những
năm gần đây là xu hướng liên kết kinh tế khu vực. Xu hướng này nảy sinh từ

cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế gay gắt mang tính toàn cầu cũng như từ sự
tập hợp lực lượng trong quá trình hình thành trật tự thế giới thời kỳ sau chiến
tranh lạnh. Các nước láng giềng đẩy mạnh hợp tác và liên kết khu vực, nhất là
trong lĩnh vực kinh tế. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
đang diễn ra mạnh mẽ và cùng với nó là xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới mà lợi thế thuộc về các nước công nghiệp phát triển, các trung tâm kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Các nước vừa và nhỏ có nhu cầu hợp lực với nhau để đối phó
7


có hiệu quả trước các chính sách bảo vệ mậu dịch, chính sách can thiệp hoặc gây
sức ép về kinh tế các trung tâm kinh tế thế giới. Đây chính là động lực quan
trọng thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết, nhất thể hoá nền kinh tế khu vực.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế do sự sụp đổ của các nước xã hội
chủ nghĩa ở Đông Âu nhất là ở Liên Xô, bị khủng hoảng sâu sắc về lý luận,
đường lối, tổ chức và phương thức hoạt động, ở khu vực tư bản chủ nghĩa, các
Đảng cộng sản và công nhân đang phải đấu tranh trong những hoàn cảnh hết sức
khó khăn. Chủ nghĩa đế quốc và giai cấp tư sản ra sức tấn công vào Đảng, nhất là
trên lĩnh vực tư tưởng. Một số Đảng khủng hoảng về tư tưởng, đường lối tan rã về
tổ chức dần dần mất chính quyền.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông Nam Á, từ cuối
thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 là một khu vực phát triển năng động, nơi tập trung các
nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Các nước công nghiệp mới (NIC) và
ASEAN đã luôn giữ được tỷ lệ tăng trưởng 6 - 8%. Đặc biệt nền kinh tế Trung
Quốc phát triển nhanh nhất thế giới, với tỷ lệ tăng trưởng lên tới 9,5% trong suốt
thời kỳ từ 1978 đến 1996. Đông Á trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng cao
hàng đầu trên thế giới; một số quốc gia và vùng lãnh thổ vươn lên trở thành
những "con rồng", "con hổ mới" về kinh tế . Đa số các nước trong khu vực đều
có nguyện vọng cùng tồn tài hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, đều đặt ưu
tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế và thực hiện chính sách kinh tế và đối ngoại

nhằm phục vụ mục tiêu bao trùm này.
Sự cam kết mạnh mẽ của chính phủ các nước trong khu vực đối với công
nghiệp hóa và hiện đại hóa, chính sách mở cửa, hội nhập và hợp tác khu vực là
nét nổi bật của các nền kinh tế ở khu vực, từ những nền kinh tế phát triển đến
những nước ASEAN trong đó có Việt Nam. Những cơ chế hợp tác khu vực
trong lĩnh vực kinh tế, tài chính còn khiêm tốn, nhưng ngày càng có vai trò tích
cực thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nước và góp phần cho sự phát triển kinh tế
năng động trong khu vực. Sự phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu của các chương
8


trình hợp tác như tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á
(SAARC), Diễn đàn hợp tác Đông Á - Mỹ La Tinh (FELAC).
Hầu hết các quốc gia trong khu vực đều muốn mở rộng thị trường, phối
hợp các nguồn nhân lực, tài lực, kết cấu hạ tầng và nguồn tài nguyên sẵn có để
hợp tác cùng phát triển. Tuy vậy, vào cuối năm 90 của thế kỷ XX, các nước
Đông Á lâm vào khủng hoàng tài chính tiền tệ, kéo theo khủng hoảng kinh
tế xã hội nghiêm trọng, gây nhiều bất lợi cho các nước trong khu vực. Môi
trường hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực chưa thật vững chắc, vẫn còn
tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định. Nội bộ một số nước và giữa các
nước với nhau, còn tồn tại mâu thuẫn, xung đột về chính trị, sắc tộc, tôn giáo,
kinh tế, xã hội, biên giới trên đất liền, hải đảo và trên biển.
Đặc biệt là cuộc tranh chấp liên quan đến nhiều nước ở biển Đông..
Những diễn biến quan hệ giữa các nước lớn có liên quan đến khu vực và sự dính
líu, can thiệp dưới những hình thức mà có thể gây nên không ít phức tạp cho các
quốc gia và quan hệ giữa các nước trong khu vực với nhau.
Nhìn chung bối cảnh thế giới sau chiến tranh lạnh là các quốc gia trên thế
giới bên cạnh việc tập trung ưu tiên giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở trong
nước, đang đẩy mạnh đấu tranh để phát triển. Do đó, xu thế hòa bình ổn định

hợp tác để cùng phát triển, giải quyết mọi tranh chấp bất đồng thông qua đàm
phán, thương lượng chính trị trở thành xu thế chủ đạo trong đời sống quan hệ
quốc tế đương đại.
Xu thế bình thường hóa, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại trở
thành một đòi hỏi khách quan, bức bách của tất cả các nước do tính tùy thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia trong nền sản xuất được quốc tế hóa và sự mất đi của trật tự
thế giới cũ.
Tóm lại, Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế là đòi hỏi
khách quan của tình hình thế giới và trong nước. Đây không chỉ là truyền
thống của dân tộc, đòi hỏi Đảng phải phát huy tinh thần, tư duy mới.
9


CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
VÀ NHÀ NƯỚC TA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
2.1 Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta thời kỳ 1986 -1990
Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) chỉ ra nhiệm vụ trên lĩnh vực đối
ngoại của Đảng, nhà nước là ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế
giới, tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã
hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi xây dựng, bảo vệ tổ quốc, tích
cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội"
Việc xác định nhiệm vụ đối ngoại là "kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới" là việc quyết định rất đúng đắn, là nhận thức
mới của Đại hội VI là quyết định đúng đắn của Đảng, Nhà nước đã quán triệt
sâu sắc các bài học rút ra từ thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc đặc biệt từ
1975 trở lại đây.
Trong chính sách đối ngoại, Đảng chủ trương kiên trì thực hiện chính sách
đối ngoại hòa bình ủng hộ chính sách cùng tồn tại giữa các nước có chế độ

chính trị xã hội khác nhau. Đây là quan điểm học thuyết Mác - Lênin về vai trò
sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, nó thể hiện ý chí cách mạng
không ngừng phấn đấu cho mục tiêu mới của chủ nghĩa xã hội đồng thời nó phù
hợp với lịch sử của các dân tộc, các quốc gia và nguyện vọng bức thiết của
nhân dân thế giới ngày nay. Chỉ có cùng tồn tại hòa bình, chung sống thực sự
mới tạo ra bầu không khí ổn định hữu nghị và hợp tác, là điều kiện tiên quyết bảo
đảm sự phát triển của mỗi dân tộc và nhân loại.
* Trên lĩnh vực ngoại giao
- Đối với các nước xã hội chủ nghĩa và Liên Xô:
Việt Nam tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
thành viên, hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng quan hệ với các nước xã hội
10


chủ nghĩa khác. Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa hợp tác từ hình thức là
viện trợ kinh tế kỹ thuật tiến tới hợp tác toàn diện, trên mọi lĩnh vực kinh tế xã
hội an ninh quốc phòng. Việt Nam đã tham gia các nước ký nhiều hiệp định
song phương, đa phương.
Từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, nhiều nước xã hội chủ nghĩa tiến hành
cải tổ, cải cách đổi mới. Mở đầu là Trung Quốc 12/1978, Liên xô 4/1986.
Hunggari và Tiệp Khắc 1987…Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, cùng với cương lĩnh
hòa bình, quan hệ Mỹ - Xô - Trung hợp tác làm cho xu thế thế giới chuyển từ
đối đầu sang đối thoại. Tình hình ấy đã tác động lớn tới các chính sách quan hệ
của Việt Nam. Trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, Liên Xô là đối tác quan
trọng nhất, điều đó có ý nghĩa là quan hệ của Việt Nam đối với Liên Xô thủy
chung.
- Đối với phong trào giải phóng dân tộc:
Thái độ nhất quán của Đảng, Nhà nước là luôn ủng hộ phong trào giải
phóng dân tộc. Việt Nam tham gia trong các tổ chức quốc tế có tác động tích cực
làm biến chuyển các quan hệ quốc tế là mục đích hoà hợp các dân tộc vì một

nền hoà bình, ổn định, hợp tác, phát triển thịnh vượng.
- Đối với Liên Hiệp Quốc:
Tổ chức này đóng vai trò quan trọng về hoà giải các vấn đề chính trị xã
hội, trên thế giới theo phương hướng hợp tác và đối thoại giải quyết bằng con
đường thương lượng hoà bình được nhiều nước trên thế giới ủng hộ trong đó có
Việt Nam, Liên Hợp Quốc sẽ trở thành diễn đàn chính trị cho tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế.
- Đối với phong trào không liên kết:
Đảng xác định phong trào không liên kết có vai trò không thể thiếu được
trên thế giới, Việt Nam không ngừng đóng góp vào việc tăng cường đoàn kết
phong trào theo phương châm thống nhất trong đa dạng tích cực phấn đấu thực
hiện các mục tiêu của phong trào… vì lợi ích chính đáng của mỗi thành viên
11


và của phong trào
- Đối với các nước Tư bản chủ nghĩa (Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Nhật,
Ôxtraylia) và các nước phương Tây khác, Đảng, nhà nước ta chủ trương mở
rộng quan hệ trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
- Đối với Trung Quốc: Đảng, Nhà nước ta xác định "Sẵn sàng đàm phán với
Trung Quốc bất cứ lúc nào, cấp nào, nơi nào… nhằm bình thường hoá quan hệ
giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và thế
giới"
- Đối với Mỹ: Đảng, Nhà nước ta chủ trương bàn với Mỹ giải quyết các
vấn đề do chiến tranh để lại luôn sẵn sàng quan hệ với Mỹ vì lợi ích hoà bình, ổn
định ở Đông Nam Á. Chính sách đó thể hiện thiện chí của Việt Nam trong quan
hệ Mỹ - Việt và quan hệ Việt Nam với các nước trong khu vực vì lợi ích hoà
bình ổn định phát triển chung của nhân loại.
- Đối với các nước ASEAN: Đảng chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước Đông Nam Á, bày tỏ mong muốn sẵn sàng cùng các nước

trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, Thiết lập
quan hệ cùng tồn tại hoà bình, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu
nghị và hợp tác
* Trên lĩnh vực kinh tế
Để đưa Việt Nam thoát ra tình trạng bị cấm vận, tổn thất nặng nề sau chiến
tranh và khủng hoảng kinh tế, Đảng Nhà nước đã chủ động mở rộng quan hệ
hợp tác đối ngoại với các nước trên thế giới. Chỉ trong (1987- 1988) Đảng,
nhà nước ta công bố thực hiện hai văn bản luật quan trọng là "Luật Đầu tư nước
ngoại tại Việt Nam" và "Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt
Nam". Hai văn bản này đã làm cho nhiều nhà thương mại quan tâm hợp tác với
Việt Nam.
Cùng với luật đầu tư, pháp lệnh đầu tư, Đảng Nhà nước tìm ra giải pháp
chính trị hiệu quả đối với vấn đề Campuchia. Suốt 3 năm 1987 - 1990 việc kiếm
12


tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia đã lôi cuốn các nước ASEAN,
Đông Dương, 5 nước thường trực Hội đồng bảo an liên hiệp quốc (Nhật, Ấn Độ,
Ôxtraylia, các Châu và Bắc Mỹ)
Những thành tựu trên chính là sự kết hợp chặt chẽ trong đổi mới chính sách
đối nội, đối ngoại. Nét nổi bật của thời kỳ 1986-1990 phải là vai trò lớn lao của
Đại hội VI, Đảng đã đặt nền cơ sở cho sự đổi mới chính sách đối ngoại của
Đảng, Nhà nước trước những biến chuyển của tình hình thế giới và yêu cầu bức
thiết xây dựng bảo vệ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sự đổi mới chính sách đối
ngoại đã tạo ra biến chuyển căn bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội và quan hệ
quốc tế của Việt Nam.
Nhìn tổng quát 1986 - 1990 với những quyết sách kịp thời chính xác trong
đổi mới do Đảng lãnh đạo đã thực sự tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển của
cách mạng Việt Nam. Những thành tựu từ sự kết hợp đổi mới chính sách đối nội đối ngoại đã tạo ra những tiền đề cần thiết cả về lý luận và thực tiễn giúp cho
Đảng, Nhà nước có thêm cơ sở nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam ngày càng được xác định rõ hơn. Chính sách đối ngoại đổi mới đã
tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho công cuộc đổi mới xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc đẩy lùi một bước âm mưu bao vây cô lập Việt Nam. Tăng thêm
bạn,nâng cao uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Tạo nên hình ảnh Việt Nam
mới của Châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Tuy nhiên, công tác đối ngoại
còn có khuyết điểm và những yếu kém: khi tình hình thế giới và quan hệ quốc tế
thay đổi, có việc chưa đánh giá đầy đủ và kịp thời để có chủ chương sát đúng;
chưa tạo ra được sự thống nhất cao về nhận thức và hành động giữa một số
ngành trong một số trường hợp.
2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ 1991 - 1995
Tình hình quốc tế có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nước ta: Sự sụp
đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã gây ra ảnh hưởng
không tốt về chính trị, tư tưởng. Tác động sâu sắc đối với phong trào cách mạng
thế giới và cách mạng Việt Nam. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng tình hình
13


trên, ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biễn hoà bình” bằng những thủ đoạn kinh
tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và quân sự rất thâm độc. Chính quyền Mỹ vẫn thi
hành chính sách bao vây, cấm vận, ngăn cản các nước, các tổ chức kinh tế quan
quan hệ kinh tế với Việt Nam.
Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ 17 - 22/6/1991) trên cơ sở
đánh giá những nguyên nhân tạo nên những thành tựu - hạn chế của việc thực
hiện nghị quyết Trung ương (6, 7, 8) Đại hội VII chỉ những vấn đề mới nảy sinh.
Đại hội thông qua cương lĩnh phương hướng cơ bản về thời kỳ qúa độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội (đến
năm 2000) của Việt Nam.
Đảng xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là: giữ vững hoà bình, mở
rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào

cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Nhiệm vụ của chính sách đối ngoại là: “cần nhạy bén nhận thức và dự báo
được những diễn biến phức tạp thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát
triển mạnh của lực lượng sản xuất và xu thế quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới
để có chủ trương đối ngoại phù hợp”. So với Đại hội VI đây là bước phát triển
mới của Đảng, về nhận thức chính sách đối ngoại trước những biến chuyển của
tình hình thế giới. Đặc biệt trong xác định nhiệm vụ chính sách đối ngoại là:
“Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển” mà Đại hội VII đã đề ra.
2.3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ 1996 - 2001
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện chính sách đối ngoại Đảng và Nhà nước ta
đã xây dựng trong Đại hội VII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
cộng sản Việt Nam đã họp từ ngày 28/06/1996 đến ngày 01/07/1996 đã
khẳng định nhiệm vụ đối ngoại "củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện
14


quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng
thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". Bên cạnh đó, chúng ta vẫn
tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, độc lập tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa.
Trên cơ sở kế thừa những điểm còn phù hợp của các kỳ Đại hội VI, VII, bổ
sung phát triển những luận điểm thích ứng với tình hình mới của đất nước và thế
giới. Đảng đã chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt song
phương và đa phương với các quốc gia, tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên
tắc chỉ đạo là tôn trọng độc lập, chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, giải

quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình.
Nếu như Đại hội VI, Đảng chủ trương "cùng tồn tại hòa bình giữa các nước
có chế độ chính trị khác nhau", Đại hội VII Đảng mong muốn "Hợp tác bình
đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã
hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình". Thì ở đại hội VIII chủ
trương của Đảng trong vấn đề quan hệ quốc tế đã đi vào chiều sâu bằng lời
tuyên bố "Việt Nam coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm
kinh tế - chính trị thế giới" trên cơ sở giữ vững các mối quan hệ truyền thống,
láng giềng và khu vực. Như vậy, Đại hội VIII đã cụ thể hóa đối tượng quan hệ
quốc tế, mở rộng quan hệ của ta với các nước lớn, bảo đảm cho sự hợp tác song
phương.
Đại hội VIII cũng đã đề ra nhiệm vụ mới cho công tác đối ngoại đó là: “tăng
cường hoạt động ở liên hiệp quốc, tổ chức các nước nói tiếng Pháp, các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế, tổ chức thương mại quốc tế và các tổ chức quốc tế khác
tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các
vấn đề toàn cầu". Như vậy chính sách đối ngoại tại Đại hội VIII đã khẳng định
hướng đi đúng đắn trong quan hệ với các tổ chức quốc tế bằng cách bổ sung và
15


phát triển luận điểm của đại hội VII đề ra. Đồng thời mở thêm chương trình mới
trong chính sách đối ngoại Việt Nam, xác định quyền và nghĩa vụ của Việt Nam
đối với các vấn đề toàn cầu, từng bước làm tăng vai trò, vị thế Việt Nam trên
diễn đàn quốc tế.
Hoạt động đối ngoại do Đại hội VIII đề ra có những định hướng chiến lược
trong công tác chỉ đạo hoạt động đối ngoại trong thời gian tiếp đó. Định hướng
này một lần nữa khẳng định và bổ sung tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4 của
Đảng (khóa VIII). Tại Hội nghị này Đảng đã nêu quan điểm về chính sách đối
ngoại, mà cụ thể là công tác hội nhập quốc tế. Một mặt tiến hành khẩn trương,
vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, gia nhập APEC và

WTO, có kế hoạch cụ thể, chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ
AFTA. Mặt khác, mở rộng quan hệ đối ngoại để tranh thủ vốn, công nghệ và gia
nhập thị trường quốc tế nhưng phải trên cơ sở độc lập tự chủ. Đồng thời độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cường là cơ sở vững chắc để đẩy mạnh hơn nữa đoàn kết quốc
tế nhằm góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc.
2.4. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ 2001 - 2004
Ngày 19/04/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã diễn
ra tại Hà Nội. Đảng đã đề ra chính sách đối ngoại trong thời gian tới trên cơ sở
tiếp tục phát huy tinh thần của các Đại hội VI, VII, VIII. Đó là: "thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại tự chủ, mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội IX nêu lên nguyên tắc, nhiệm vụ chung và nhiệm vụ cụ thể của
công tác đối ngoại:
* Về nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng đề ra nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại của Đảng Đảng và Nhà
nước ta là:
16


- Tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực.
- Bình đẳng và cùng có lợi.
- Giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
- Làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường
quyền.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở với các nguyên tắc nêu trên
chúngta tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước, bảo vệ các nước nghèo,
nhỏyếu, chống chủ nghĩa nước lớn và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Kiên quyết làm

thấtbại âm mưu và hành động gây sức ép hoặc áp đặt, đe doạ đến lợi ích của dân tộc.
* Nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại: Hiến pháp nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định nhiệm vụ đối ngoại là: Thực hiện
chính sách hoà bình, hữu nghị mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước
trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và các
bên cùng có lợi, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình độc lập dân tộc dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển. Nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại hiện nay là: Tiếp tục giữ vững
môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế
xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đảm
bảo độc lập chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tránh
chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội
17


2.5.

Chính sách đối ngoại thời kỳ 2005 đến nay
Đại hội X tổng kết cả 20 năm thực hiện đường lối đổi mới về mọi mặt,

trong đó có lĩnh vực đối ngoại. Đại hội đã khẳng định đường lối đó “đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam”, vì vậy đã kế tục đường lối, chính sách
đối ngoại được khởi xướng và kiên trì thực hiện trong suốt thời kỳ đổi mới với
một số sự “cập nhật” cho phù hợp với tình hình mới. Đó là đường lối đối ngoại

độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Trong 20 năm đổi mới chúng ta đã mở rộng được đáng kể quan hệ hợp tác
quốc tế về “chiều rộng”; nay Đại hội X nhấn mạnh yêu cầu “đưa các quan hệ
quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững”. Đồng thời vì mục
tiêu phát triển, các hoạt động đối ngoại phải hướng mạnh vào các nhiệm vụ kinh
tế - xã hội thiết thực như mở rộng thị trường, có thêm đối tác, tranh thủ tối đa
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Do đó Đại hội đã nêu cao yêu cầu “đẩy
mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại”. Điểm mới của Đại hội X đã nêu cao nhiệm
vụ “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “hội nhập sâu hơn và đầy đủ
hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương” vì nước ta đang
đứng trên ngưỡng cửa của sự hội nhập hoàn toàn và đầy đủ vào nền kinh tế thế
giới với việc nỗ lực hoàn tất thủ tục để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO).
Đại hội X khẳng định là kiên trì chính chính sách đối ngoại rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Phát triển tư tưởng được nêu ra trong
ba đại hội trước, Đại hội X một lần nữa nhấn mạnh “Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” đồng thời bổ sung thêm một ý về
lòng mong muốn “tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
với hàm ý nâng cao tính chủ động, tích cực của mình trong các tổ chức quốc tế
và khu vực mà nước ta tham gia. Mặt khác yêu cầu phát triển, an ninh và nâng
cao vị thế quốc tế vẫn đòi hỏi dành nhiều sự quan tâm và công sức củng cố mối
quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng có chung bên giới hoặc trong
18


khu vực Đông - Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương cũng như các nước và
trung tâm lớn ảnh hưởng trực tiếp tới cả ba mục tiêu của chính sách đối ngoại.
Giữa các quốc gia không thể tránh khỏi những khác biệt, bất đồng, thậm
chí xung đột lợi ích. Vì vậy, trong quan hệ quốc tế khó tránh khỏi trạng thái vừa

hợp tác, vừa đấu tranh. Chủ trương của chúng ta là gia tăng điểm đồng, hạn chế
bất đồng, thông qua đối thoại, thương lượng để giải quyết những bất đồng ấy,
không để chúng phá vỡ quan hệ hợp tác cùng có lợi. Ngay như trên một vấn đề
có sự khác biệt lớn giữa nước ta với chính giới nhiều nước trên thế giới như vấn
đề nhân quyền, một mặt Đại hội không định chủ trương “chủ động tham gia
cuộc đấu tranh chung vì quyền con người”, mặt khác tỏ ý “sẵn sàng đối thoại với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan về vấn đề nhân quyền”.
Đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao được khẳng định và làm rõ
thêm tại Đại hội X sẽ được thực hiện một cách kiên trì và khôn khéo, góp phần
đắc lực vào việc thực hiện thắng lợi hoạt động ngoại giao của nước ta.
Đến đại hội XI, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta đã được phát
triển toàn diện. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ trương: “Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là
bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi
ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Báo
cáo Chính trị xác định: Mục tiêu của công tác đối ngoại “ Vì lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”; “Nhiệm vụ của
công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới”; “ Nguyên tắc đối ngoại: bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập tự
chủ, vì hòa bình, hữu nghị hợp tác và phát triển, tôn trọng các nguyên tắc cơ
19


bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, tôn trọng các nguyên
tắc ứng xử của khu vực.”; “ Phương châm đối ngoại : thực hiện nhất quán

đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế.”
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và phương châm nêu trên, Đại
hội XI đã đề ra những định hướng lớn cho công tác đối ngoại thời gian tới.
Trong đó, định hướng chung: nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp
tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu.
Định hướng cụ thể gồm có:
- Giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới lãnh thổ : “ Thúc đẩy giải
quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và
thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt
công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu
nghị, hợp tác cùng phát triển”
- Ưu tiên đối tác: “ Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền
thống với các nước láng giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực
và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững
mạnh.”
- Định vị và định hướng quan hệ với ASEAN : “ Chủ đông, tích cực và
có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững
mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan
trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương”
- Định hướng đối ngoại Đảng: “ Phát triển quan hệ với các Đảng cộng
sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác
trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, mở rộng tham gia các cơ chế
20



diễn đàn đa phương ở khu vực và trên thế giới.”
- Định hướng đối ngoại nhân dân: “ Coi trọng và nâng cao hiệu quả của
công tác ngoại giao nhân dân”
- Định hướng tổ chức thực hiện: “ Tăng cường công tác nghiên cứu, dự
báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội
ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; thường xuyên bồi dưỡng kiến thức
đối ngoại cho cán bộ chủ chốt cao cấp. Bảo đảm sự lãnh đạo thống
nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt
động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân;
giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa;
giữa đối ngoại với quốc phòng và an ninh.”
Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị hội nhập sâu rộng, đường lối đối ngoại
của Đại hội XI đã có một số phát triển mới, quan trọng để phù hợp với nhiệm vụ
mới và tình hình mới, cụ thể là:
Lợi ích quốc gia, dân tộc là kim chỉ nam cho mọi quyết sách của Đảng,
Nhà nước, cũng là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Lợi ích
quốc gia, dân tộc bao hàm lợi ích Quốc gia ( Bao gồm Đảng, Nhà nước) và lợi
ích dân tộc ( gồm gần 90 triệu người dân Việt Nam và hơn bốn triệu kiều bào ở
nước ngoài), đồng thể hiện sự thống nhất giữa lợi ích của Đảng, Nhà nước với
dân tộc. Lợi ích Quốc gia, dân tộc mang ba nội hàm an ninh, phát triển và uy tín
quốc gia ( nâng cao vị thế)
Đại hội XI chuyển từ chủ trương “ chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng quan hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” được
thông qua tại đại hội X sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Đây là
một bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng ta, phù hợp với xu thế
phát triển của tình hình thế giới, phù hợp với thế và lực của đất nước sau 25 năm
đổi mới và thực chất của quá trình hội nhập của đất nước, đáp ứng tích cực yêu
cầu, đòi hỏi của tình hình mới. Với chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn
bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả
21



chính trị, quốc phòng, an ninh, và văn hóa - xã hội...., ở mọi cấp độ song
phương, khu vực, đa phương và toàn cầu.
Từ chủ trương “là bạn và đối tác tin cậy” của Đại hội IX, Đại hội XI bổ
sung thêm Việt Nam là “ thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Như vậy Việt Nam tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm tại
các cơ chế/ tổ chức/ diễn đàn khu vực và quốc tế, cùng các nước các tổ chức giải
quyết các vấn đề toàn cầu. Qua đó góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt
sxsNam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song
phương.
Xây dựng cộng đồng ASEAN trở thành một trọng tâm đối ngoại. Đại hội
XI khẳng định Việt Nam là thành viên ASEAN, cam kết phấn đấu cùng các nước
xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN. Các hoạt động đối ngoại sẽ được triển
khai đồng bộ, toàn diện trên cơ sở phát huy tiềm lực của mọi lực lượng và thực
thi trên mọi kênh, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trên mặt
trận đối ngoại.
Tóm lại, sự đổi mới trên đã đem lại những thành công trên lĩnh vực đối
ngoại. Từ chỗ bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế, ngày nay Việt
Nam đã có quan hệ ngoại giao với 179/192 nước thành viên của Liên hợp quốc,
có quan hệ thương mại với 230/255 quốc gia, vùng lãnh thổ; 92 nước/ vùng lãnh
thổ co dự án đầu tư ở Việt Nam và Việt Nam có 500 dự án đầu tư ở 55
nước/vùng lãnh thổ; là thành viên của 70 tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng
như UN, WTO, ASEAN, APEC,...Ngoài ra, Việt Nam có 96 cơ quan đại diện ở
nước ngoài, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 8 nước ( Nga, Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan).

22



CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI HIỆU QUẢ, PHÙ HỢP
3.1. Nhiệm vụ đối ngoại.
Đại hội XI Đảng công sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ của đối ngoại
trong thời gian tới là: “ Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ....., giữ
vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng
cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới...tiếp tục đưa các mối quan hệ
quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc, tự chủ, phát huy tối
đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; chủ động ngăn ngừa và
giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế... Tham gia các cơ
chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên
cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên
hợp quốc ...Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các
nước láng giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng
các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với ca
các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khuân khổ hợp tác ở khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương. Phát triển quan hệ với các Đảng cộng sản, công
nhân, Đảng cánh tả, các Đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở đảm
bảo lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ...Phối hợp chặt chẽ các hoạt động
đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại
giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với
quốc phòng, an ninh”
3.2 Phương hướng hoạt động đối ngoại
Đại hội XI đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại, trên cơ sở đó hoạt động
đối ngoại cần được triển khai theo các hướng sau:

23



Thứ nhất, Chúng ta cần phát triển theo chiều sâu mối quan hệ với các
nước lớn và các nước láng giềng, ASEAN, khu vực. Trên cơ sở khuân khổ quan
hệ với các đối tác chủ chốt được định hình, thời gian tới chúng ta phải triển khai
thông qua các chủ trương, chính sách và có những biện pháp cụ thể để thúc đẩy
quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - thương mại, khoa học kỹ
thuật, văn hóa, giáo duck - đào tạo, y tế... và cả lĩnh vực quốc phòng, an ninh để
giữ vưmngx môi trường hòa bình, toàn vẹn lãnh thổ, thiết lập được mối quan hệ
hào bình ổn định lâu dài,tạo dựng sự đan xen lợi ích của các nước với nước ta.
Đồng thời, chúng ta cũng cần tiếp tục mở rộng và thúc đẩy quan hệ hợp tác về
mọi mặt với các nước bạn bè truyền thống, các nước đang phát triển ở các khu
vực Châu Á, Châu Phi, Trung Đông và Mỹ La tinh...
Thứ hai, tích cực chủ động hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các tổ
chức có tính chất toàn cầu, khu vực và song phương theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ môi trường, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến
năm 2020.
Thứ ba, tích cực, chủ động tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực. Phát huy vai trò và vị thế của nước ta tại ASEAN, APEC, ASEM, WTO và
các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, Phong trào không liên kết, Cộng
đồng các nước nói tiếng Pháp...Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế,
tham gia cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới phấn đấu vì hòa bình
chung của nhân dân thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm thúc đẩy quan hệ hợp
tác kinh tế - thương mại, đầu tư, tranh thủ vốn ODA, mở rộng thị trường xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ, du lịch, lao động.... Tháo gỡ những khó khăn tromng
hợp tác kinh tế - thương mại với các nước. Xuất phát từ nhu cầu nội tại của nền

kinh tế mở, phụ thuộc phần lớn vào bên ngoài của nước ta và xu thế toàn cầu
24


hóa, quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới, chúng ta cần tích cực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Do đó, ta cần chuẩn bị các điều kiện và khai
thác có hiệu quả, giảm thiểu tối đa những thách thức rủi ro với tư cách thành
viên của một nước thành viên WTO, đồng thời thúc đẩy việc ký kết các hiệp
định thương mại tự do song phương và đa phương với các đối tác trên thế giới.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm cho
nhân dân thế giới hiểu rõ hơn về công cuộc Đổi mới, về đất nước, con người
Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển. Đấu tranh với các thế lực thù
địch, tiến hành đối thoại với các nước, tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan
về vấn đề dân chủ, nhân quyền, đấu tranh làm thất bại các âm mưu xuyên tạc, lợi
dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội
bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính
trị ở nước ta.
3.3.

Giải pháp hoạt động đối ngoại hiệu quả.

Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng xác định rõ hơn các giải pháp
chủ yếu:
Một là, nâng cao hiệu quả của hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối
quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy
tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và
giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế:
Xúc tiến thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác có hiệu quả
các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình
độ quản lý tiên tiến.

Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương
vì lợi ích quốc ga trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, Hiến chương liên hợp quốc.Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức
quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc.

25


×