Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Quá trình thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình ở việt nam hiện nay, tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.54 KB, 25 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ) luôn được xác định
là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển đất nước, một trong những
vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của quốc gia. Thực hiện tốt chính sách dân số - kế
hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, luật pháp, chiến lược nhằm quan tâm toàn diện đến vấn đề dân số - kế
hoạch hoá gia đình. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và các Bộ, ngành
liên quan đã ban hành nhiều thông tư liên tịch, văn bản hướng dẫn để thực hiện có
hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng vàluật pháp của Nhà nước về chính
sách này.
Ngày 14/01/1993 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VI,Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 04 về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia
đình (gọi tắt là Nghị quyết TW 4 khoá VII), đây là văn bản có tính chất quan trọng,
làm tiền đề cho những quyết sách về dân số - kế hoạch hoá gia đình sau này của
Đảng và Nhà nước.
Quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật của
Nhà nước, qua hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 04 khoá VII, với sự chỉ đạo
sâu sát của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách dân số - kế
hoạch hoá gia đình đã thực sự đi vào cuộc sống và đạt được nhữngkết quả quan
trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bướcchuyển rõ rệt, quy mô gia đình có một
hoặc hai con được chấp hành ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số đã được


2

khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,5 con


năm 1992 xuống 2,28 con năm 2002, tỷ lệ tăng dân số giảm tương ứng từ hơn 2%
còn 1,32%.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ
tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của chính sách này trong bối cảnh kinh tế,
văn hoá và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thoả mãn với những kết quả đạt
được ban đầu, buông lõng lãnh đạo, chỉ đạo. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm chính
sách dân số - kế hoạch hoá gia đình thiếu ổn định, quá tải, quản lý kém hiệu quả,
việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một chính sách liên quan thiếu chặt chẽ. Trong
hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta chưa phát triển, tình trạng đói nghèo còn nhiều,
tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp, quy mô dân số hiện nay khá lớn với hơn 85 triệu
người (theo kết quả tổng điều tra Dân số và Nhà ở vào thời điểm 0 giờ tháng
01/4/2009 của Tổng cục Thống Kê), mật độ dân số vào hàng cao nhất thế giới (259
người/km2 vào năm 2009), chất lượng dân số chưa được cải thiện đáng kể… Do
đó, việc tăng dân số nhanh trở lại sẽ phá vỡ những thành tựu đạt được, cản trở sự
phát triển kinh tế - xã hội và việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm
chậm quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đặt nước ta trước nguy
cơ tụt hậu xa hơn. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch
hoá gia đình là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong thời gian tới.
Xuất phát từ mục đích ý nghĩa to lớn ấy, chính sách dân số - kế hoạch gia đình cần
phải được quan tâm, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động.Nhằm góp phần
nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này, người viết lựa chọn đề tài “Qúa trình thực
hiện chính sách dân số- kế hoạch hóa gia dình ở việt nam hiện nay.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin , căn cứ vào một số quan điểm trong đường lối, chính


3

sách của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(12-1986), đặc biệt là những vấn đề lý luận và từ thực tiễn công tác dân số - kế

hoạch hóa gia đình.
Do điều kiện về thời gian, về tài liệu cũng như trình độ hiểu biết vấn đề của
người viết còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu từ quý thầy cô và bạn đọc để tiểu luận này
được hoàn thiện hơn!


4

Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
1.Cơ sở lý luận:
1.1.Lý luận chung:
Dân số của mỗi quốc gia hoặc mỗi địa phương thật sự có liên quan rất mật
thiết đến sự phát triển của quốc gia, địa phương đó cũng như có ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng cuộc sống của người dân.
Về mặt tích cực, dân số đông đem lại nguồn lao động cho sản xuất, nhất là khi
trình độ cơ giới hóa, tự động hóa chưa cao. Tuy nhiên về mặt tiêu cực, dân số đông
dẫn đến nhiều vấn đề nghiêm trọng nhất là khi cung không đáp ứng đủ cầu.
Về mặt kinh tế, khi mà tài nguyên thiên nhiên, đầu tư cơ sở vật chất không
đáp ứng kịp tỉ lệ tăng dân số, nạn thất nghiệp sẽ là một vấn đề nan giải. Từ đó dẫn
đến những vấn đề như người lang thang, ăn xin thậm chí là những tệ nạn xã hội
như trộm cướp, mại dâm v.v... chưa kể đến sự đổ xô của nhiều người lên thành thị
làm nặng thêm những vấn đề này ở các thành phố lớn.
Về mặt giáo dục, dân số tăng nhanh có thể vượt mức đáp ứng của hệ thống
giáo dục cộng với điều kiện kinh tế gia đình khó khăn làm tăng tình trạng thất học,
bỏ học dẫn đến trình độ dân trí trung bình giảm thấp, ảnh hưởng đến sự phát triển
chung của xã hội cũng như chất lượng cuộc sống.
Về mặt y tế, dân số tăng nhanh vượt quá mức cung ứng sẽ dẫn đến dịch bệnh
gia tăng dẫn đến giảm sức lao động, thương tật, tử vong.



5

Hậu quả nghiêm trọng nhất của việc tăng dân số là vấn đề môi trường. Việc
khai thác thiên nhiên một cách bừa bãi như phá rừng lấy đất canh tác, khai thác gỗ
làm chất đốt, vật dụng, khai thác thú rừng, đào quặng bừa bãi v.v... đã tàn phá trầm
trọng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên gián tiếp ảnh hưởng đến các rối loạn về
mặt sinh thái như nạn lụt lội, hạn hán.
Dân số tăng đặc biệt ở thành thị dẫn đến những vùng có mật độ dân cư cao,
sống chen chúc, mất vệ sinh dẫn đến sự gia tăng các dịch bệnh. Khói thải, nước
thải, rác thải làm ô nhiễm môi trường không khí, nước, đất làm trọng trầm thêm
những vấn đề sức khỏe nhất là ở các đô thị hoặc khu công nghiệp. Ảnh hưởng về
mặt kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường đã tác động mạnh đến đời sống xã hội và
tâm lý của người dân. Cuộc sống khó khăn dẫn đến quẫn bách hoặc xào xáo, mâu
thuẫn trong gia đình càng làm giảm thêm chất lượng cuộc sống.
1.2.Vai trò của công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình:
Từ những phân tích trên, bên cạnh các biện pháp phát triển kinh tế, y tế, giáo
dục, kiểm soát việc khai thác tài nguyên, phân bố dân cư hợp lý, giải quyết ô
nhiễm môi trường thì kế hoạch hóa gia đình là một biện pháp căn cơ giúp giải
quyết vấn đề dân số và nâng cao chất lượng cuộc sống. Kế hoạch hóa gia đình
ngoài mục đích hạn chế sự gia tăng dân số còn nhằm bảo vệ sức khỏe của người
phụ nữ và trẻ em đồng thời đem lại hạnh phúc cho gia đình.
-Nên sinh từ 1-2 con: sinh ít con sẽ làm giảm khả năng tai biến sản khoa, tránh
sa sinh dục, bảo vệ được sức khỏe người phụ nữ tránh các tình trạng kém dinh
dưỡng đồng thời còn bảo vệ vẻ đẹp của người phụ nữ.
-Khoảng cách sinh con nên từ 3-5 năm: không làm tăng thêm gánh nặng cho
người phụ nữ về dinh dưỡng cũng như về sức khỏe giúp giảm suy dinh dưỡng,



6

giảm tai biến sản khoa, giúp sinh dễ. Đồng thời người mẹ có thời gian chăm sóc
trẻ, tránh bệnh tật. Không sinh khoảng cách quá xa vì có thể đã quên kinh nghiệm
nuôi con.
-Tuổi có con nên từ khoảng 22-35. Sinh lúc còn quá trẻ khi cơ thể chưa phát
triển đầy đủ làm tăng tai biến sản khoa, tăng tỉ lệ suy dinh dưỡng cho cả mẹ và con.
2.Cơ sở pháp lý:
2.1.Quan điểm của Đảng và Nhà nước:
a) Quan điểm của Đảng:
Tại Nghị quyết TW 4 khoá VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Đảng ta nêu rõ:
- Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của
chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu
của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từngngười,
từng gia đình và của toàn xã hội.
- Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là
vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ kế hoạch hoá gia
đìnhđến tận người dân; có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp
nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện kế
hoạch hoágia đình.
- Đầu tư cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là đầu tư mang lại hiệu
quả kinh tế trực tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác


7

dân số và kế hoạch hoá gia đình, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng
và tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.
- Huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác dân số và kế hoạch

hoá gia đình, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo
chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu
quả và đến tận người dân.
- Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyết
định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện
công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình theo chương trình.
b) Quan điểm của Nhà nước:
Tại Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22/12/2000 của Thủ tướng
Chínhphủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010
nêu rõ:
- Công tác dân số là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước,là
một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người,
từng gia đình và toàn xã hội, góp phần quyết định để thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
- Thực hiện đồng bộ, từng bước và có trọng điểm việc điều hoà quan hệ giữa
số lượng với chất lượng dân số, giữa phát triển dân số với phát triển nguồn nhân
lực, giữa phân bố và di chuyển dân cư với phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ
quan trọng của công tác dân số; tập trung ưu tiên cho các vùng có mức sinh
cao,vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa để giải quyết các vấn đề dân số và nâng cao
mức sống nhân dân.


8

- Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho sự phát triển bền vững và manglại
hiệu quả kinh tế - xã hội trực tiếp, gián tiếp và rõ rệt. Nhà nước đảm bảo đủ nguồn
lực cho công tác dân số, đồng thời vận động sự đóng góp của cộng đồng và tranh
thủ sự viện trợ của quốc tế.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông - giáo dục về dân số và phát triển, kết hợp
với việc thực hiện đầy đủ, có hiệu quả Chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh sản kế hoạch hoá gia đình, tăng cường vai trò của gia đình và thực hiện bình đẳng giới

trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ sinh sản/kế hoạch hoá gia đình là các giải pháp
cơ bản để đảm bảo tính bền vững của chương trình dân số và phát triển.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối
vớicông tác dân số, đẩy mạnh xã hội hoá là yếu tố quyết định sự thành công của
chương trình dân số và phát triển.
2.2.Cơ sở pháp lý:
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình hiện nay được tập trung thực hiện
theo quy định tại các văn bản sau:
-Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
-Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 06/3/1995 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnhthực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 về chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình.
-Chỉ thị số 37-CT/TTg ngày 17/01/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy
nhanh thực hiện chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình.
-Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng.


9

-Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Ban Chấp hành Trung ươngvề
việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
-Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chínhphủ
về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyếtsố
47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiệnchính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
-Nghị định số 114/NĐ-CP ngày 03/10/2006 của Chính phủ quy định xửphạt
hành chính về dân số và trẻ em.
-Chỉ thị số 13/2007/CT-TTg ngày 06/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc
tăng cường thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thựchiện

chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
-Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ
luậtđảng viên vi phạm.
-Hướng dẫn số 11/HD-UBKTTW ngày 24/03/2008 của Ban Chấp hànhTrung
ương về việc thực hiện Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của BộChính trị
về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.Thông báo kết luận số 160-TB/TW ngày
04/6/2008 của Ban Bí thư về thựchiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình và
một số giải pháp cấp bách.
-Quyết định 170/2007/Qđ-TTg ngày 08/11/2007 của Thủ tướng Chính phủvề
Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia dân số - kế hoạch hoá gia đình giai đoạn
2006 - 2010.Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 04/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ
về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.


10

-Kết luận số 44-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3
nămthực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp
tụcđẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.


11

Chương 2:
THỰC TRẠNG DÂN SỐ VÀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ HOẠCH
HÓA GIA ĐÌNH
1.Thực trạng dân số:
Dân số thế giới tăng trưởng ngày một nhanh, thời gian tăng thêm một tỷ người
ngày càng rút ngắn trong thế kỷ XX nhưng đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ gia
tăng dân số trong thế kỷ XXI.

Thế kỷ XX thường được gọi là “Thế kỷ dân số” hoặc thế kỷ của “Bùng nổ dân
số”. Nhân loại đã chứng kiến dân số tăng phi thường từ 1,65 tỷ người vào đầu thế
kỷ lên 6,06 tỷ người vào năm 2000, tăng 3,7 lần trong vòng 100 năm. Trong khi
đó, vào thế kỷ XIX dân số thế giới chỉ tăng 1,7 lần từ gần 1 tỷ người lên 1,65 tỷ
người cũng trong cùng khoảng thời gian 100 năm. Tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm
ngày một tăng lên khoảng 0,5% vào năm 1850, khoảng 1,78% vào giai đoạn 1950
đến 1955, khoảng 2,04% vào giai đoạn từ 1965 đến năm 1970, khoảng 1,57% vào
giai đoạn 1990 đến năn 1995 và hiện nay là 1,3%.
Quy mô dân số lớn vẫn tiếp tục gia tăng về số lượng tuyệt đối, song tốc độ gia
tăng có xu hướng giảm. Theo số liệu Tổng điều tra dân số ngày 01/4/1989 nước ta
có 64.412.000 người, đến năm 2007 số dân đã tăng lên tới 85.154.000 người, năm
2008 tăng lên 86.160.000 người. Đến tổng điều tra dân số và nhà ở tại thời điểm 0
giờ ngày 01/4/2009 dân số nước ta còn 85.789.573 người.
Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay dân số Việt Nam tăng nhanh hoặc quá nhanh
như giai đoạn 1954-1960 với tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm là 3,93%; 1960-1970:


12

3,24%; 1970-1976: 3%. Năm 1992 nhịp độ tăng dân số của nước ta là 2,26%, năm
1997: 1,88%. Tốc độ tăng dân số đã giảm từ 2,34% vào năm 1999 xuống còn
1,51% vào năm 1999 và 1,21% vào năm 2007. Với tỷ lệ gia tăng dân số quá nhanh
nói trên, mỗi ngày nước ta có thêm 3.100 người (tương đương dân số 1 xã nhỏ),
mỗi tháng thêm khoảng 97.000 người (khoảng 1 huyện) và mỗi năm thêm khoảng
1,1

triệu

người


(tương

đương

dân

số

1

tỉnh

trung

bình).

Sự gia tăng dân số quá nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đối với việc phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của từngthành viên
trong xã hội.
2.Thực trạng chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình:
Từ khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp chành Trung ương
Đảng khóa VII về “chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình” và Nghị quyết 47NQ/TW, ngày 22-3-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình”, công tác dân số - kế hoạch hóa gia
đình đã đạt được những kết quả quan trọng:
-Nhận thức của toàn xã hội đã có những chuyến biến rõ rệt, quy mô gia đình
có 1 hoặc 2 con được chấp nhận ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số nhanh
đã được khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong đội tuổi sinh đẻ đã
giảm mạnh từ trên 3,8 con (năm 1990) xuống 2,2 con (năm 2000) và đến nay đạt
tiệm cận mức sinh thay thế (mỗi cặp vợ chồng có khoảng 2,1 con); tỉ lệ phát triển
dân số giảm tương ứng từ hơn 2% xuống còn 1,25%.

-Kết quả công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã góp phần rất quan trọng
vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm,
xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân (với những


13

thành tự của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 1999, Việt Nam đã
được nhận giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc).
-Tuy nhiên, những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2003, Pháp lệnh Dân số của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) (số 06/2003/PL-UBTVQH) được ban hành
còn có chỗ thiếu chặt chẽ, làm cho tình hình dân số có diễn biến phức tạp, mức
sinh và tỉ lệ sinh con thứ ba tăng trở lại, nhất là trong cán bộ, đảng viên, làm ảnh
hưởng tiêu cực đến phong trào thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình.
Năm 2007, tỉ lệ sinh con thứ ba tăng hơn nhiều so với năm 2006, nhiều chỉ tiêu về
thực hiện các biện pháp tránh thai đạt kết quả thấp. Quý I năm 2008, số trẻ sinh ra
tăng 7,2%, tỉ lệ sinh con thứ ba tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2007, kết quả thực
hiện các biện pháp tránh thai giảm nhiều so với kế hoạch, đây là thách thức gay gắt
đối với công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trong giai đoạn tới.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém:
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan về tâm lý, tập quán, điều kiện kinh
tế, dịch vụ xã hội phát triển, cơ cấu dân số trẻ, số phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ
hàng năm lớn; còn có những nguyên nhân chủ quan là:
-Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp còn có tư tưởng chủ quan, thỏa mãn,
buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; chưa quán
triệt đầy đủ các nội dung Nghị quyết 47-NQ/TW, ngày 22-3-2005 của Bộ Chính trị
về “tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình”.
-Các cơ quan cấp Trung ương ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện mô hình
tổ chức bộ máy còn chậm, dẫn tới việc mỗi địa phương hiểu và thực hiện rất khác
nhau. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Dân số thiếu chặt chẽ. Các

cấp, các ngành chưa xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức


14

thiếu gương mẫu, vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, đã có tác
động tiêu cực đến phong trào toàn dân thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa
gia đình.
-Hệ thống tổ chức làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trong những
năm qua có nhiều thay đổi, không ổn định. Đặc biệt, vừa qua nhiều tỉnh, thành phố
đã triển khai, xử lý việc giải thể Ủy ban Dân số - gia đình và trẻ em địa phương
không đúng với tinh thần chỉ đạo của Trung ương.
-Một bộ phận nhân dân, trong đó có cả cán bộ, đảng viên cho rằng, công tác
dân số - kế hoạch hóa gia đình đã kết thúc, dẫn tới việc coi nhẹ công tác này, tỉ lệ
sử dụng các biện pháp tránh thai giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước mà hậu quả
sẽ tăng sinh vào cuối năm nay và những năm tiếp theo.


15

Chương 3:

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC DÂN SỐ
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
1.Phương hướng:
Năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện Chiến lược Dân số giai đoạn 2001 2010 của Chính phủ với mục tiêu tổng quát là ổn định quy mô dân số, nâng cao
chất lượng dân số, tiến tới đạt mức sinh thay thế. Để phát huy những kết quả đạt
được trong năm qua và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu về DS-KHHGĐ trong
thời gian tới, cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương cần quan tâm các phương
hướng sau:

-Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và Nhà nước đối với công tác
DS-KHHGĐ, xem đây là nhiệm vụ chính trị mà cả hệ thống chính trị của địa
phương cần phải quan tâm thực hiện.
- Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức của Ban DS-KHHGĐ xã, đảm bảo ổn
định số lượng và chất lượng hoạt động của đội ngũ cộng tác viên các ấp. Tiếp tục
đưa đi đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác
dân

số.

-Thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát công tác quản lý địa bàn của
cộng tác viên, thực hiện tốt phương châm “Đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối
tượng” để tránh những thiếu sót trong quá trình cập nhật thông tin về dân số - kế
hoạch hoá gia đình.


16

-Xây dựng kế hoạch thực hiện mô hình đưa chính sách DS-KHHGĐ vào quy
ước xóm, ấp theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn cấp trên.
2. Giải pháp:
Thực trạng và đặc điểm nêu trên của dân số Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt ra cho công tác dân số của nước ta nhiều
cơ hội và thách thức mới. Để củng cố, phát huy những thành tựu đã đạt được; đồng
thời, tiếp tục có được những thành công mới trong công tác dân số thời gian tới,
cần tập trung giải quyết một số vấn đề cốt yếu sau:
-Tranh thủ sự lãnh chỉ đạo của các cấp Ủy Đảng, chính quyền cơ sở qua
côngtác xây dựng kế hoạch, tham mưu đề xuất các giải pháp thực hiện có hiệu quả.
-Phối hợp với các ngành thành viên một cách chặt chẽ và đồng bộ nhằmthực
hiện tốt các mục tiêu theo Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,

Chính phủ trong lĩnh vực DS-KHHGĐ.
-Tiếp tục củng cố hoàn thiện bộ máy hoạt động của Ban Dân số, nâng caochất
lượng nghiệp vụ đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên, chuyên môn hóacông
tác quản lý chương trình đối với CBCT và CTV.Tăng cường công tác kiểm tra
giám sát thường xuyên các hoạt động vềcông tác quản lý, theo dõi cập nhật, thu
thập các thông tin biến động DS-KHHGĐở địa bàn các ấp.
-Tăng cường công tác tư vấn tại trạm về các BPTT hiện đại, chăm sóc
sứckhoẻ sinh sản vị thành niên, chăm sóc thai nghén, sản phụ sau sinh và phòng
chốngcác bệnh lây truyền qua đường sinh sản.


17

-Đầu tư nguồn lực đủ để đáp ứng nhu cầu thực hiện các mặt công tác dânsố,
kế hoạch hoá gia đình, nâng cao hiệu quả hoạt động sớm hoàn thành các mục tiêu
đề ra.
-Đầu tư cho chất lượng dịch vụ qua các hoạt động tư vấn, cung cấp các dịchvụ
tránh thai có chất lượng cao, đảm bảo an toàn thuận tiện đối với người sử dụng,đa
dạng hoá các phương tiện tránh thai để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
-Tiếp tục vận động người sử dụng các BPTT thuốc viên, thuốc tiêm tránh thai,
bao cao su tiếp cận nguồn cung cấp các sản phẩm tiếp thị ngoài xã hội để tạothói
quen vì nhu cầu lợi ích của bản thân, giảm chi phí của nhà nước trong việc đầutư
cho chương trình.
-Tăng cường các hoạt động phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể thànhviên
thông qua kế hoạch liên tịch hàng năm.
-Tăng cường và có sự đổi mới trong công tác tuyên truyền, vận động, tư vấn,
giáo dục các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về DSKHHGĐ trong cộng đồng bằng nhiều hình thức cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tập
trung nhiều hơn nữa cho các vùng khó khăn về 2 lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh
sản và KHHGĐ. Lấy sự chuyển biến từ nhận thức sang hành vi thực hiện làm
thước đo hiệu quả.

3.Chiến lược dân số của Việt Nam trong quá trình phát triển
Muốn tăng trưởng kinh tế thì yếu tố đầu tiên phải là con người - nguồn nhân
lực, mà nguồn nhân lực lại gắn liền với tình hình biến đổi dân số. Mặt khác, mục
đích cuối cùng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội không ngoài việc nâng cao
chất lượng cuộc sống của mỗi người dân. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được với một


18

quy mô, tốc độ tăng trưởng, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực phù hợp với nền
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Năm 1957 Đại hội đồng Liên hợp quốc nhất trí thông qua nghị quyết về các
vấn đề dân số, trong đó kêu gọi các nước thành viên tính đến mối quan hệ tương hỗ
giữa phát triển kinh tế và biến đổi dân số và cổ vũ các chính phủ đi theo con đường
"Kế hoạch hoá gia đình" để giảm bớt sự gia tăng dân số quá nhanh. Đặc biệt, đối
với các nước đang phát triển (chiếm tới 67% dân số thế giới vào năm 1950), chịu
ảnh hưởng trầm trọng của vấn đề bùng nổ dân số đã ngày càng quan tâm đến
chương trình kiểm soát sinh. Theo dự báo của Liên hợp quốc thì ngay cả khi các
các quốc gia đã có những nỗ lực và thành công nhất định trong công tác dân số thì
quy mô dân số thế giới vẫn có khả năng đạt tới con số 8 tỷ người vào năm 2025 với
số tăng trung bình hàng năm khoảng 80-90 triệu người. Ngày nay, hơn một nửa số
các cặp vợ chồng trên thế giới đã tích cực sử dụng các biện pháp tránh thai và họ
đã có ít con hơn so với cha mẹ mình vài chục năm trước đây. Mặc dù vậy, số trẻ
sinh ra hàng năm vẫn ở mức cao bởi số người bước vào độ tuổi sinh đẻ vẫn lớn
hơn nhiều so với số người bước ra khỏi độ tuổi sinh đẻ. Các nhà khoa học, lãnh
đạo và các nhà quản lý của nhiều quốc gia trên thế giới nhận thấy rằng, gia tăng
dân số nhanh có tác động hạn chế đến quá trình phát triển của từng quốc gia và cả
thế giới. Gia tăng dân số nhanh cũng góp phần làm căng thẳng thêm các vấn đề
toàn cầu như: cạn kiệt nguồn tài nguyên, suy thoái môi trường, hiện tượng nóng lên
của khí hậu toàn cầu, quá tải dân cư ở các khu đô thị lớn... Chính các hiện tượng

này cùng với các nhu cầu sống cơ bản của người dân không được đáp ứng đầy đủ
như lương thực, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, nhà ở..., sự phân hoá giàu nghèo, bất
bình đẳng trong hưởng thụ dẫn đến những mâu thuẫn và xung đột... là những yếu
tố cản trở các nỗ lực ổn định dân số ở mỗi quốc gia.


19

Ở Việt Nam từ đầu thập niên 60 đến nay, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm
đến việc hoạch định và thực thi chính sách dân số quốc gia, nhằm làm giảm mức
sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý. Chính sách
dân số hướng tới giảm mức sinh ở Việt Nam ra đời cách đây hơn 40 năm được
đánh dấu bằng Quyết định 216/CP ngày 26-12-1961 của Hội đồng Chính phủ. Tại
thời điểm này dân số nước ta mới khoảng 30-31 triệu người. Điều đó chứng tỏ Nhà
nước ta đã sớm ý thức tầm quan trọng của việc kiểm soát mức sinh và hơn nữa, có
tầm nhìn chiến lược đối với công tác này khi xác định mục tiêu của sinh đẻ có
hướng dẫn không chỉ đơn thuần là để hạn chế quy mô dân số mà mục đích quan
trọng của nó là: "Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc và sự hoà thuận của gia
đình, để cho việc nuôi dạy con cái được tốt...".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
(năm 1993) nhận định: "Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên
nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho
việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể
lực của nòi giống. Nếu xu thế này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa
nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều
mặt". Nghị quyết đã nêu lên quan điểm về mối quan hệ giữa dân số và phát triển,
vị trí của công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình: "Công tác dân số và kế hoạch
hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một
trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của từng người, từng gia đình và toàn
xã hội.".

Chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000 được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt ngày 06/3/1993 đã thể chế hoá một giai đoạn thực hiện Nghị


20

quyết Trung ương lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) tạo nên
bước ngoặt có tính quyết định thành công của chương trình dân số Việt Nam.
Mức sinh giảm nhanh hơn so với kế hoạch đề ra đã tạo điều kiện thuận lợi để
đạt được mục tiêu hạ tỷ lệ phát triển dân số từ 2,1% (năm 1992) xuống còn trên
1,3% (năm 2002), quy mô dân số 79,7 triệu người (năm 2002), số con trung bình
của 1 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2,28 con. Đây là một tiến bộ vượt bậc so với
mục tiêu của Chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000. Như vậy
mục tiêu đạt mức sinh thay thế vào năm 2015 chúng ta sẽ đạt sớm hơn 10 năm.
Quy mô dân số theo mục tiêu Nghị quyết Trung ương 4 là 85,2 triệu người thực tế
nước ta chỉ ở mức 79,5 triệu người (giảm 5,5 triệu người). Theo tính toán của Tổng
cục Thống kê dựa trên kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở (1999) đáng lẽ dân số
nước ta là 80 triệu người vào năm 1999 thì đến cuối 2002 chúng ta mới đạt con số
này lùi lại được 3 năm. Kết quả này đã góp phần giảm bớt chi ngân sách nhà nước
cho dịch vụ phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế, trực tiếp góp phần xoá đói giảm
nghèo, nâng cao mức sống cho những gia đình thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình.
Suy cho cùng tăng trưởng kinh tế nhằm đạt mục tiêu phát triển, chỉ tiêu tích
hợp này được thể hiện qua tỷ lệ tăng thu nhập bình quân đầu người (GDP). Tỷ lệ
tăng GDP đầu người phụ thuộc trực tiếp vào tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội và
tỷ lệ tăng dân số, trong đó tỷ lệ tăng sản phẩm quốc nội là tử số và tỷ lệ tăng dân số
là mẫu số. Để tăng được GDP bình quân đầu người thì tổng sản phẩm quốc nội
phải tăng nhanh hơn tỷ lệ tăng dân số. Việc hạ thấp tỷ lệ tăng dân số vừa góp phần
làm tăng GDP thông qua việc tăng số lượng và chất lượng lao động và tăng tiết
kiệm chi tiêu dùng để đầu tư phát triển kinh tế, nhưng được thấy rõ hơn là làm tăng
GDP bình quân đầu người, đặc biệt khi xem xét kết quả của việc thực hiện chương



21

trình DS-KHHGĐ làm tăng GDP bình quân đầu người được thấy đậm nét trong
một giai đoạn dài.
Trong giai đoạn 1991-2000, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng liên tục
qua các năm với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Đến năm 2000 tổng sản
phẩm trong nước đã gấp 2,07 lần năm 1990, đạt và vượt mức mục tiêu tổng quát đề
ra cho Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 là tổng sản
phẩm trong nước gấp 2 lần. Đồng thời, tỷ lệ tăng dân số đã giảm rất nhanh và đạt
mức tăng 1,7% mỗi năm. Do đó, tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người cao nhất
trong 3 thập kỷ qua là 5,86% bình quân mỗi năm.
3.1Tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số Việt Nam 1976-2002
Đơn vị tính: %

Nguồn: - Việt Nam dân số và phát triển. NXB Thống kê, Hà Nội, 1996
- Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm 1991-2000. Tổng cục Thống kê,
Hà Nội, 2-2001


22

- Tổng quan kinh tế - xã hội 2001-2010. Tổng cục Thống kê
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy, hầu hết các nước đang
phát triển có sự phát triển nhảy vọt về kinh tế khi trước đó đã thực hiện có kết quả
cao về DS-KHHGĐ. Các nhà kinh tế học đã thừa nhận, việc giảm sinh trong 3 thập
kỷ qua đã góp phần lớn vào việc tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc, Đài Loan, Thái
Lan, Xingapo. Đối với Việt Nam, Liên hợp quốc dự báo rằng, nếu thực hiện tốt
chương trình DS-KHHGĐ thì quy mô dân số sẽ ổn định ở mức 120 triệu người và

đến 2035, GDP bình quân đầu người bằng 31,2 lần GDP bình quân đầu người năm
1990. Và ngược lại, nếu không thực hiện tốt chương trình DS-KHHGĐ thì quy mô
dân số sẽ ổn định ở mức 160 triệu người và đến năm 2035, GDP bình quân đầu
người chỉ bằng 25 lần GDP bình quân đầu người năm 1990.
Như vậy chúng ta thấy trong thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
của Việt Nam vào khoảng 7,56% nhưng nếu tỷ lệ tăng dân số không giảm xuống
mức 1,7% mà vẫn tăng ở mức 2,4-2,5% như những năm đầu thập kỷ 80 thì tỷ lệ
tăng GDP bình quân đầu người sẽ giảm 1%. Vì vậy việc thực hiện thành công mục
tiêu của chương trình DS-KHHGĐ trong những năm thập kỷ 90 đã góp phần làm
tăng GDP bình quân đầu người mỗi năm. Trong 2 năm đầu của thế kỷ 21 mực dù
tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt so với chỉ tiêu đề ra nhưng nhờ thực hiện tốt
chương trình DS-KHHGĐ nên tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người vẫn đạt ở mức
cao.
Nhằm tiếp tục phát huy thành quả của Chương trình Dân số đã đạt được góp
phần xây dựng đất nước phát triển, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã
chỉ đạo các ngành, các cấp tiến hành đánh giá tổng kết 10 năm thực hiện Chiến
lược dân số - kế hoạch hoá gia đình và 10 năm thực hiện Nghị quyết ban chấp hành
Trung ương lần thứ 4 khoá VII (1993-2003). Qua tổng kết sẽ rút ra những bài học


23

kinh nghiệm, đặc biệt là những mặt yếu kém cần khắc phục để có giải pháp thực
hiện tốt hơn những mục tiêu được đặt ra trong Chiến lược Dân số Việt Nam 20102020.

4.KIẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA
ĐÌNH
Kiến nghị:
Nhằm phát huy những mặt đạt được, khắc phục những khó khăn, hạn chế
trong thời gian qua, để nâng cao chất lượng hoạt động về công tác dân số - kế

hoạch gia đình trong năm 2010 và những năm tiếp theo, người viết xin đề xuất
mộtsố kiến nghị sau:
-Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan đến công tác dân sốkế hoạch hoá gia đình, đảm bảo khi ban hành có thể thực hiện được ngay.
-Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp Uỷ đảng, chính quyền địa phương
đốivới công tác này, hàng năm cần đưa các mục tiêu về DS-KHHGĐ vào Nghị
quyếtcủa Đảng uỷ - HĐND để thực hiện.
- Các ban ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội cần quan tâm hơn
nữacông tác phối hợp thực hiện các hoạt động của công tác này; đưa nội dung,
chươngtrình, mục tiêu về DS-KHHGĐ vào kế hoạch hoạt động của từng ban ngành
để tiến hành thực hiện.
-UBND xã thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá từng hoạt động của
chương trình dân số nhằm rút ra những kinh nghiệm, kịp thời chấn chỉnh những sai


24

sót trong quá trình thực hiện; có hình thức khen thưởng các tổ chức, đơn vị, cá
nhân gương mẫu thực hiện chính sách DS-KHHGĐ, xử lý nghiêm những trường
hợp vi phạm chính sách dân số theo quy định của Đảng và Nhà nước.
-Tăng mức đầu tư về kinh phí cho chương trình dân số nhằm đảm bảo thực
hiện hoàn thành các chỉ tiêu được cấp trên giao.
-Thường xuyên tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác
dân số và đội ngũ cộng tác viên nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng tuyên truyền về
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
-Điều chỉnh mức thù lao cho cộng tác viên nhằm đảm bảo cuộc sống cũng như
tạo điều kiện cho việc tham gia công tác lâu dài. Quan tâm đến việc khuyếnkhích
thi đua khen thưởng cho từng tập thể, cá nhân đạt được nhiều thành tích cũng như
có sự cống hiến cho công tác DS-KHHGĐ.
- Đa dạng hoá các sản phẩm truyền thông về DS-KHHGĐ, cung cấp tài liệu,tờ
bướm, pa nô, áp phích…cho tuyến cơ sở nhằm phục vụ cho công tác tuyêntruyền

được sinh động, phong phú hơn, phù hợp hơn với từng nhóm đối tượng.


25

KẾT LUẬN:
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là bộ phận quan trọng trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước cũng góp phần một nhỏ trong công cuộc xây dựng
và tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để
nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Việc xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước với các ngành,
đoàn thể, tổ chức xã hội, chính trị - xã hội là yếu tố quan trọng đảm bảo cho việc
kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động về công tác dân số - kế hoạch
hoá gia đình ở cở sở, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và Nhà nước
giao cho công tác này đó là “Ổn định quy mô dân số, nâng cao chất lượng dân
số, tiến tới đạt mức sinh thay thế” trong năm 2020 và những năm
tiếp theo.


×