Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Quan điểm của gia long và minh mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802 – 1841) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.09 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ NGỌC ĐĂNG

QUAN ĐIỂM CỦA GIA LONG VÀ MINH MẠNG
VỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ QUAN LẠI
(1802-1841)

Ngành: Triết học
Mã số: 9229001

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Tài Đông

HÀ NỘI - 2020


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Tài Đông

Phản biện 1:
ần Hữu uyến
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, tại: Học


viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội Vào lúc giờ
ngày tháng

năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm đã chứng tỏ một điều hết sức rõ ràng rằng,
việc xây dựng và quản lý quan lại dưới chế độ phong kiến trước đây hay đội ngũ
cán bộ hiện nay là một trong những yêu cầu có tính quyết định đến tồn vong đối
với bất cứ một triều đại, chế độ chính trị nào.
Năm 1802, Nguyễn Ánh saukhi giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh
kéo dài gần 20 năm với nhà Tây Sơn, đã tiến hành các bước cơ bản để thiết
lập vương triều Nguyễn và năm 1806, ông chính thức lấy niên hiệu là Gia
Long. Đất nước Việt Nam từ đó được thống nhất trên lãnh thổ rộng lớn,
điều đó lại đặt ra cho triều Nguyễn một thách thức không nhỏ, đó là phải
làm thế nào để xây dựng và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước từ trung
ương đến địa phương; nguồn nhân lực đảm nhiệm việc vận hành bộ máy đó
như thế nào để duy trì sự thống trị của triều đại và nhân dân được sống yên
ổn. Đây chính là những yêu cầu đặt ra cho Gia Long cần phải xây dựng bộ
máy hành chính mạnh với đội ngũ quan lại tài đức, thân tín để cùng hoàng
đế gánh vác trọng trách lịch sử giao phó. Là một vị vua đã kinh qua trận
mạc, trong quá trình điều hành đất nước, vua Gia Long đã rất nhạy bén
trong việc xây dựng bộ máy hành chính và đội ngũ quan lại đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.

Tiếp nối thành quả của vua cha để lại, Minh Mạng lên nắm quyền điều
hành đất nước trong bối cảnh đất nước cũng đặt ra cho ông những yêu cầu
cấp bách cần phải củng cố mạnh hơn nữa nền quân chủ chuyên chế. Đó là
nguyên nhân dẫn đến cuộc cải cách hành chính trên cả nước vào những năm
1831-1832, làm tinh gọn bộ máy nhà nước và tương ứng với đó là xây dựng
được đội ngũ quan lại đáp ứng yêu cầu của các định chế hành chính và quân
sự đương thời.
Trước yêu cầu của tồn tại xã hội mà cụ thể là tồn tại chính trị của đất
nước dưới thời trị vì của hai vị vua Gia Long và Minh Mạng (1802-1841)
đã xây dựng được quan điểm về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lạitrên
cơ sở thực tiễn đời sống chính trị của đất nước, vừa đáp ứng yêu cầu trước
1


mắt về củng cố nền quân chủ chuyên chế, xây dựng đế quyền, bảo vệ lãnh
thổ và chăm lo cho dân chúng, vừa có tính vượt trước để ứng phó về lâu dài
khi có những biến cố chính trị - xã hội trong tương lai để duy trì sự thống trị
bền vững của triều đại
Với mục đích “ôn cố tri tân”, chúng tôi khẳng định rằng, việc nghiên cứu
quan điểm xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại dưới triều Gia Long và Minh
Mạng sẽ đem lại cho chúng ta bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác cán
bộ nước ta hiện nay. Với những vấn đề cấp thiết nêu trên, chúng tôi chọn đề tài
“Quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại
(1802 – 1841)” cho luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Luận án góp phần làm rõ quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây
dựng và quản lý đội ngũ quan lại, từ đó chỉ ra những giá trị, hạn chế và rút ra bài
học lịch sử từ quan điểm đó đối với công tác cán bộ ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, luận án phân tích, làm rõ những điều kiện, tiền đề khách
quan và nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan điểm của Gia Long và
Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại.
Thứ hai, phân tích, trình bày nghiên cứu những nội dung cơ bản trong
quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan
lại (1802-1841).
Thứ ba, rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử từ quan điểm về xây dựng và
quản lý đội ngũ quan lại của triều Nguyễn dưới thời trị vì của Gia Long và
Minh Mạng đối với công tác cán bộ ở nước ta hiện nay
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan điểm của Gia Long và Minh
Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại triều Nguyễn giai đoạn 1802
– 1841.
2


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ những điều kiện, tiền đề
khách quan và nhân tố chủ quan hình thành nên quan điểm của vua Gia Long
và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại cũng như cách thức
thực hiện quan điểm đó trong lịch sử triều Nguyễn (1802 – 1841). Trên cơ sở
đó, luận án bước đầu đưa ra sự đánh giá khách quan ý nghĩa và bài học lịch sử
của các quan điểm đó đối với công tác cán bộ ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của triết học chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về lĩnh vực triết học chính trị (quản lý nhà nước, đạo

đức và văn hóa công vụ, v.v.).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin,sử
dụng phương pháp phân tích – tổng hợp, so sánh – đối chiếu, hệ thống hóa,
khái quát hóa, kết hợp logic với lịch sử, v.v., đồng thời chú trọng cách tiếp
cận liên ngành, chủ yếu là các ngành khoa học xã hội và nhân văn như:
Chính trị học, Sử học, Luật học, Xã hội học, v.v.
5. Cái mới của luận án
Luận án làm rõ một số nội dung, đặc điểm, giá trị và hạn chế trong
quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan
lại triều Nguyễn (1802 – 1841), đồng thời rút ra bài học lịch sử của quan
điểm đó đối với công tác cán bộ ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở phân tích, làm rõ khái niệm, nguồn gốc và một số nội dung
cơ bản trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản
lý đội ngũ quan lại triều Nguyễn (1802 – 1841), luận án án chỉ ra một số
đóng góp về mặt lý luận của quan điểm đó trong đường lối trị nước của hai
vị vua đầu triều này.
3


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án làm rõ vai trò của quan điểm về xây dựng và quản lý đội ngũ
quan lại của Gia Long và Minh Mạng, do đó những kết quả nghiên cứu của
luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu
về triều Nguyễn nói chung, vấn đề quan lại triều Nguyễn và công tác cán bộ
nước ta hiện nay nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Luận án có kết cấu gồm 4 chương 12 tiết.

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Nghiên cứu quan điểm của vua Gia Long và Minh Mạng (1802-1841)
về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại, chúng tôi thấy sự cần thiết phải
tập trung tham khảo các công trình nghiên cứu đã được công bố về những
điều kiện, tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan cho sự hình thành và
thực thi quan điểm của hai vị vua đầu triều này về xây dựng và quản lý đội
ngũ quan lại; những nội dung cơ bản và cách thức triển khai quan điểm đó
trong đời sống chính trị - xã hội Việt Nam đương thời; ý nghĩa và bài học
lịch sử trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản
lý đội ngũ quan lại đối với công tác cán bộ nước ta hiện nay.
1.1. Các tài liệu nghiên cứu về những điều kiện, tiền đề khách quan
và nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan điểm của vua Gia Long và
Minh Mạng (1802-1841) về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại
Trần Trong Kim từ năm 1919 – 1921 đã cho ra mắt cuốn Việt Nam sử
lược. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày khái lược về các triều đại
phong kiến Việt Nam, trong đó có triều Nguyễn. Cuốn Đại cương lịch sử
Việt Nam, tập 1, do Trương Hữu Quýnh chủ biên, đã đề cập đến tình hình
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX gồm các vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội
và văn hóa. Cuốn Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân
4


dưới triều Nguyễn do Trương Hữu Quýnh – Đỗ Bang chủ biên, các tác giả
Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân và Nguyễn Quang Trung Tiến, đã đề cập
đến vấn đề căn bản của kinh tế triều Nguyễn là sở hữu ruộng đất. Cuốn
Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, do Trần Hữu Duy,
Nguyễn Phong Nam làm chủ biên, là tập hợp gồm 26 bài nghiên cứu về
triều Nguyễn với cách nhìn, những kiến giải khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau về các vấn đề như: Triều Nguyễn và xã hội Việt Nam thế kỷ XIX của

Nguyễn Phan Quang; Về tư tưởng “thực tiễn” và tư tưởng “giáo điều” của
triều Nguyễn của Bửu Nam; Minh Mạng với hai tư tưởng chính trị lớn của
ông: củng cố nền thống nhất quốc gia và yên dân của Nguyễn Minh Tường;
Mấy vấn đề phương pháp luận nghiên cứu triều Nguyễn của Trương Hữu
Quýnh, v.v., là những công trình bổ ích cho việc tham khảo trong quá trình
thực hiện luận án của chúng tôi.
Cuốn Một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn của các tác giả Phan
Đại Doãn, Nguyễn Minh Tường, Hoàng Phương, Lê Thành Lân, Nguyễn
Ngọc Quỳnh, đã đề cập đến vấn đề quan chế với tư cách là một trong những
nội dung quan trọng của các triều đại phong kiến trong việc xây dựng và
củng cố vương triều, v,v.
Lê Sĩ Thắng với cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2 bước đầu
phân tích những hệ lụy nêu trên và đi đến nhận định cho rằng, tư tưởng bảo
thủ, phản động của triều Nguyễn về thực chất là do đề cao Nho giáo. Kỷ
yếu Hội thảo khoa học: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb Thế giới, Hà Nội, năm 2008 có
dung lượng khá lớn với nhiều vấn đề về chúa Nguyễn và triều Nguyễn được
đặt ra, trước hết là xuất phát từ yêu cầu về tính khoa học, khách quan của sử
học. Cuốn Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới đã đưa ra những ý
kiến khác nhau về việc đánh giá công, tội của triều đại này một cách khách
quan, nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử triều
Nguyễn một cách đúng đắn hơn.
5


Nghiên cứu về triều Nguyễn, nhất là bộ máy hành chính và đội ngũ
quan lại của triều Nguyễn có khá nhiều công trình, trong đó phải kể đến
những công trình do Đỗ Bang chủ biên nhan đề: “Tổ chức bộ máy nhà nước
triều Nguyễn (1802-1884)”; Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước
triều Nguyễn: những vấn đề đặt ra hiện nay. Nguyễn Minh Tường với cuốn

Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ Việt Nam (Từ năm 939 đến năm 1884),
v.v. Các công trình này đã tập trung phân tích việc tổ chức chính quyền
trung ương và địa phương, tổ chức quân đội, việc ban hành luật pháp và
thực thi pháp luật, v,v.
Trong số các công trình bàn về năng lực chủ quan của Gia Long và
Minh Mệnh phải kể đến cuốn Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước
phương Tây dưới triều Nguyễn (1802-1858) của tác giả Trần Nam Tiến.
Cuốn Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885) do Huỳnh
Công Bá làm chủ biên; Cuốn Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, v.v. Các
công trình này đã đề cập đến năng lực chủ quan của hai vị vua đầu triều
Nguyễn, đưa ra những nhận xét khá chính xác về thành quả cũng như
những hạn chế của họ trong việc trị nước.
1.2. Các công trình liên quan đến việc nghiên cứu những nội
dung cơ bản trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây
dựng, quản lý đội ngũ quan lại giai đoạn 1802-1841 và việc thực thi
quan điểm đó đƣơng thời
Một trong những công trình nghiên cứu khá đầy đủ về bộ máy hành
chính của các triều đại quân chủ Việt Nam là Luận án Tiến sỹ Luật khoa
của Nguyễn Sĩ Hải (1962, Sài Gòn), với đề tài Tổ chức chính quyền trung
ương thời Nguyễn sơ: 1802-1847. Đây là công trình nghiên cứu khá công
phu và có nhiều đóng góp trong việc khảo cứu về bộ máy hành chính triều
Nguyễn nói chung, giai đoạn 1802-1841 nói riêng. Năm 1996, tác giả
Nguyễn Minh Tường đã cho ra đời cuốn “Cải cách hành chính dưới triều
Minh Mạng”. Với công trình này, tác giả đã nghiên cứu về định chế đội ngũ
6


quan lại từ trung ương đến địa phương của Minh Mạng. Trong cuốn Khảo
cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn: những vấn đề đặt ra
hiện nay, tác giả Đỗ Bang cũng nghiên cứu về hệ thống quan chế của triều

Nguyễn; các thể thức tuyển dụng, phong tước và tổ chức các khoa thi tiến sĩ
nhằm chọn người tài ra giúp nước.
Huỳnh Công Bá với cuốn Định chế hành chính và quân sự triều
Nguyễn (1802-1885) đã phân tích các vấn đề liên quan đến cơ chế vận hành
của bộ máy hành chính và đội ngũ quan lại triều Nguyễn. Cuốn Một số vấn
đề quan chế triều Nguyễn, do tác giả Phan Đại Doãn, Nguyễn Minh Tường
và một số tác giả khác biên soạn đã nghiên cứu về các định chế của triều
Nguyễn đối với quan lại. Tác giả Bùi Huy Khiên với bài viết Tuyển chọn,
kiểm tra, giám sát đội ngũ quan lại dưới triều Minh Mạng, trên tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, đã khái quát về quy trình tuyển chọn, sử dụng quan lại
dưới triều vua và tổ chức, hoạt động của bộ máy thanh tra, giám sát. Cuốn
Kỷ yếu Hội thảo 700 năm Thuận Hóa – Phú Xuân – Thừa Thiên Huế cũng
đặt ra nhiều vấn đề về phương pháp luận nghiên cứu triều Nguyễn.
Năm 2012, trên Bản tin Phòng, chống tham nhũng số 49&50, tác giả
Trần Hồng Nhung với bài viết “Một số giải pháp phòng ngừa tham nhũng thời
Nguyễn”; Bài “Thanh tra, giám sát và khảo xét quan lại thời phong kiến ở nước
ta” của Thái Hoàng và Bùi Quý Lộ, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6
(283) năm 1995 đã khái quát về hệ thống tổ chức thanh tra, giám sát của các
triều đại quân chủ Việt Nam. Cuốn Việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều
Nguyễn của tác giả Lê Thị Thanh Hòa đề cập khá đầy đủ đến cách thức đào tạo
và tuyển dụng quan lại dưới thời Gia Long và Minh Mạng.
Trong bài "Chế độ đãi ngộ của nhà nước phong kiến Việt Nam đối
với giám sinh Quốc tử giám từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX” của tác
giả Trịnh Thị Hà, đăng trên tạp chí Việt Nam khoa học xã hội, số 02(75)
năm 2014. Năm 2012, trong kỷ yếu Hội thảo khoa học 100 năm Đông Kinh
nghĩa thục và công cuộc cải cách giáo dục Việt Nam hiện nay, tác giả Vũ
7


Văn Quân với bài “Vài nét về hệ thống giáo dục và khoa cử Việt Nam thời

Nguyễn”, đã đánh giá về những thành tựu mà nền giáo dục, khoa cử triều
Nguyễn đạt được, đó là xây dựng đội ngũ tri thức Nho học làm nòng cốt tư
tưởng và rường cột nhân sự cho bộ máy nhà nước.
1.3. Các công trình nghiên cứu đề cập đến giá trị, hạn chế và bài
học lịch sử từ quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng,
quản lý đội ngũ quan lại (1802-1841) đối với công tác cán bộ ở nƣớc ta
hiện nay
Xoay quanh các vấn đề thuộc chủ đề này có thể đọc thấy ở công trình
Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884, do Đỗ Bang
chủ biên, hay cuốn sách Định chế hành chính và quân sự dưới triều Nguyễn
(1802-1885); của Huỳnh Công Bá.
Trên các website của Đảng Cộng sản Việt Nam có thể tìm thấy các
Văn kiện của Đảng về công tác cán bộ nước ta hiện nay, về phòng và chống
tham nhũng, về nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thanh tra, giám sát
của Đảng, v.v. Ngoài ra còn có các báo điện tử của các cơ quan khoa học
chính trị, luật pháp khác, ở đó nhiều tác giả cũng tập trung bàn về những
vấn đề về công tác cán bộ nước ta hiện nay như: “Phòng, chống tham
nhũng xưa và nay” của Phạm Thị Huệ; Bùi Huy Khiên với bài Kinh nghiệm
phòng, chống tham nhũng của các triều đại phong kiến Việt Nam qua
nghiên cứu luật “hồi tỵ” trênwww.tapchicongsan.org.vn, Trần Anh Tuấn với
bài "Về chính sách phát hiện, trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng", Tạp chí
Xây dựng Đảng số 8/2011, và một số bài viết khác đã được tham khảo trong
Danh mục tài liệu tham khảo của luận án.
Tóm lại, nghiên cứu về tổ chức bộ máy, phương thức xây dựng và
quản lý đội ngũ quan lại dưới chế độ quân chủ Việt Nam nói chung và triều
Nguyễn nói riêng là đề tài đã và đang được quan tâm nghiên cứu. Kết quả
nghiên cứu của các học giả đi trước chính là những nguồn tư liệu, kinh
nghiệm quý báu giúp chúng tôi thực hiện luận án này.
8



1.4. Đánh giá khái quát về tình hình nghiên cứu đề tài và một số
vấn đề đặt ra từ tổng quan các công trình khoa học liên quan đến đề tài
cần đƣợc tiếp tục giải quyết trong luận án
1.4.1. Đánh giá khái quát về thành tựu và hạn chế trong các công
trình nghiên cứu đề tài nêu trên
Qua việc tham khảocác công trình nghiên cứu trên đây chúng tôi
nhận thấy các tác giả chủ yếu tập trung vào một hoặc vài lĩnh vực nhất định,
chẳng hạn như: Thiết lập bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền, kéo theo đó là các định chế hành chính và quân sự liên quan đến
trách nhiệm và quyền hạn của các hàm phẩm quan lại của triều Nguyễn để
bộ máy đó vận hành có hiệu quả; Hệ thống giáo dục, khoa cử, tuyển dụng,
bổ nhiệm quan lại, được triều Nguyễn rất coi trọng, làm cho việc này trở
nên qui củ và đạt hiệu quả cũng như chất lượng đáp ứng đòi hỏi của bộ máy
nhà nước phong kiến; Các chế độ lương, thưởng, xử phạt... cũng được triều
đình quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến sự an nguy của triều đình nhà
Nguyễn; Quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý
đội ngũ quan lại đã tạo cho triều Nguyễn thực hiện bước quá độ từ chế độ
“tản quyền” sang “tập quyền” và đặc biệt là lĩnh vực cải cách hành chính,
làm cho bộ máy nhà nước được tinh giản, kiểm soát, giám sát quan lại được
hiệu quả hơn.
1.4.2. Những vấn đề Luận án cần tập trung nghiên cứu
Tuy nhiên, với mục đích “ôn cố tri tân”, tìm ra ở đó những hạt nhân hợp
lý có thể tham khảo cho công tác cán bộ nước ta hiện nay, chúng tôi thấy cần
tập trung nghiên cứu một số vấn đề trọng tâm sau đây từ cách tiếp cận triết học:
Một là, nghiên cứu cơ sở hình thành quan điểm của Gia Long và Minh Mạng
về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại; Hai là, phân tích một số nội dung cơ
bản trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng, từ đó rút ra những đặc điểm
chủ yếu của quan điểm đó; Ba là, bước đầu đánh giá, làm rõ những giá trị, hạn
chế trong quan điểm của Gia Long và Minh Mạng vềxây dựng và quản lý đội

ngũ quan lại, trên cơ sở đó rút ra bài học lịch sử của nó đối với công tác đào
tạo, sử dụng cán bộ, công chức nước ta hiện nay.
9


Tiểu kết chƣơng 1
Việc nghiên cứu về triều Nguyễn, trong đó có lĩnh vực tư tưởng trị
nước của các vị vua đầu triều như Gia Long và Minh Mạng vẫn còn nhiều
vấn đề phải dùng đến cách tiếp cận triết học mới lý giải một cách thỏa đáng.
Đó là những vấn đề thuộc nội dung đề tài luận án này.
Chương 2
CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CỦA VUA GIA LONGVÀ
MINH MẠNG VỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ QUAN LẠI
2.1. Khái niệm quan lại và quan lại triều Nguyễn dƣới thời Gia
Long và Minh Mạng (1802 – 1841)
2.1.1. Khái niệm “Quan lại”
Qua việc nghiên cứu các tài liệu để xác định rõ khái niệm “quan lại”,
chúng tôi đi đến khái quát như sau:“Quan lại” là cụm từ Hán – Việt, được
sử dụng như một thuật ngữ hành chính dưới thời quân chủ Gia Long và
Minh Mạng (1802 – 1841) dùng để chỉ những người làm việc trong các bộ
máy nhà nước, có trách nhiệm thực thi mệnh lệnh của triều đình và tuân thủ
các định chế quan lại dưới sự kiểm soát của triều đình.
2.1.2. Quan lại dưới triều Nguyễn thời Gia Long và Minh Mạng
Thứ nhất, về tuyển bổ và lệ phong tước, song hành với việc thiết lập
vương triều là việc tuyển chọn, sử dụng quan lại; Thứ hai, nhiệm vụ và
quyền lợi của quan lại; Thứ ba, vấn đề khảo khóa, thưởng phạt và chế độ
hưu trí của quan lại.
Ba nội dung cơ bản nêu trên trong quan điểm của vua Gia Long và
Minh Mạng về tuyển bổ và sử dụng, về nhiệm vụ và quyền lợi cũng như
chính sách thưởng phạt, đãi ngộ quan lạiđược chúng tôi xác định là đối

tượng chủ yếu của luận án và được phân tích, trình bày rõ hơn ở các chương
sau của luận án.

10


2.2. Những điều kiện, tiền đề khách quan cho sự hình thành quan
điểm của Gia Long và Minh Mạng trong lĩnh vực xây dựng và quản lý
quan lại
2.2.1. Bối cảnh lịch sử, tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và văn
hóa dưới thời Gia Long và Minh Mạng (1802-1841)
Sau khi giành được thắng lợi và quyền bính từ anh em nhà Tây Sơn
(1802), Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn và lên ngôi hoàng đế với niên hiệu
Gia Long vào năm 1806. Việc thiết lập và duy trì cơ chế bộ máy “trung
ương tản quyền” trong gần ba thập niên dưới thời Gia Long và đầu thời
Minh Mạng đã giúp cho hai triều vua này đáp ứng được yêu cầu khách quan
của lịch sử và mong muốn chủ để có thời gian dung hòa được những vấn đề
cấp bách khác. Trong giai đoạn tiếp theo (1820-1841), Minh Mạng đã thực
hiện một cuộc cải cách lớn nhằm kiện toàn bộ máy hành chính từ trung
ương đến địa phương nhằm thống nhất và tập trung quyền.
2.2.2. Tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa
Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế. Chiến tranh kéo dài từ thế kỷ XVI
đến cuối thế kỷ XVIII đã để lại cho cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài nhiều
hậu quả nặng nề, nhất là kinh tế.
Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị - xã hội. Đầu năm 1804 nước ta đổi
tên thành Việt Nam. Đến thời Minh Mạng, vào năm 1838, nước ta lại đổi
tên thành Đại Nam. Về tổ chức chính quyền, sau khi xưng vương, vua Gia
Long đã “kiểm lại hệ thống các đơn vị hành chính cũ, đặt quan chức cai
quản”. Năm 1831-1832, Minh Mạng đã tiến hành “cuộc cải cách hành
chính địa phương, xóa bỏ các tổng trấn, đổi các dinh trấn thành tỉnh. Bấy

giờ cả nước có 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên”.
Thứ ba, trên lĩnh vực văn hóa, vào đầu thế kỉ XIX ở Việt Nam có sự
hiện diện của ba tôn giáo lớn trên thế giới và các tôn giáo khác. Do quan hệ
ràng buộc lợi ích trước đó, vua Gia Long vẫn giữ thái độ không quá lạnh
nhạt với các giáo sĩ và tổ chức giáo hội Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, đến
11


thời Minh Mạng, mối quan hệ với phương Tây nói chung và Thiên Chúa
giáo nói riêng, đã có sự thay đổi. Trên lĩnh vực giáo dục, cả vua Gia Long
và Minh Mạng đều chú trọng và duy trì chế độ học hành, thi cử theo tinh
thần Nho giáo để đào tạo và tuyển chọn nhân tài.
Tóm lại, trong gần 4 thập niên dưới thời trị vì của hai vị vua đầu triều
Nguyễn (Gia Long và Minh Mạng), bối cảnh thế giới và đất nước có nhiều
biến độngvừa có lợi cho việc xây dựng một đế quyền, đất nước hùng mạnh
nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ đe dọa đến sự an nguy của triều đại
cũng như đất nước.
2.2.3. Những tiền đề cơ bản cho sự hình thành quan điểm của
Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý quan lại
Nghiên cứu quan điểmcủa vua Gia Long và Minh Mạng về xây dựng
và quản lý đội ngũ quan lại, chúng tôi thấy cần phải làm rõ những tiền đề
khách quan và những nhân tố chủ quan sau đây:
Thứ nhất, đó là kinh nghiệm xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại
trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam trước thời Nguyễn
Thứ hai, tiền đề tư tưởng từ các học thuyết chính trị - xã hội phương
Đông trong lịch sử
Thứ ba, tiền đề xuất phát từ nhu cầu của đất nước trong lĩnh vực đối
nội và đối ngoại.Trong lĩnh vực đối nội: xây dựng, củng cố vương quyền,
đảm bảo trật tự xã hội và quản lý kinh tế; trong lĩnh vực đối ngoại: bang giao
và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ.

2.3. Nhân tố chủ quan trong sự hình thành quan điểm của Gia
Long và Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại
2.3.1. Vai trò của Gia Long trong sự thiết lập bộ máy quan lại
vương triều Nguyễn
Về vai trò của vua Gia Long trong việc thiết lập vương triều
Nguyễn, ngoài những vấn đề về kế thừa quan điểm, cách thức tổ chức bộ
máy nhà nước theo mô hình Trung Hoa và các triều đại trước của nước
ta.Việc hoàn thiện bộ máy nhà nước phong kiến triều Nguyễn được người
nối ngôi Gia Long thực hiện chính là Minh Mạng.
12


2.3.2. Vai trò của vua Minh Mạng trong sự kế thừa và phát triển
quan điểm về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại của vua Gia Long
Là vị vua am hiểu sâu sắc học thuyết chính trị - xã hội Nho giáo,
Minh Mạng chú trọng đến hai nội dung tư tưởng căn bản là củng cố nền
thống nhất quốc gia và an dân. Với chính sách khai khẩn ở vùng duyên hải
Bắc Bộ do Nguyễn Công Trứ (1778-1858) và triều đình chủ trương, nhà
Nguyễn đã thực hiện cùng một lúc, một mũi tên đạt hai đích, đó là chính
sách an dân và giáo hóa dân.
Tiểu kết chƣơng 2
Nghiên cứu cơ sở hình thành quan điểm của Gia Long và Minh Mạng
về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại, chúng tôi rút ra một số nhận xét
sau đây:
Thứ nhất, là quan điểm của hai ông đã được xây dựng trên cơ sở thực
tiễn của đất nước, đúc rút những kinh nghiệm từ các triều đại quân chủ Việt
Nam trước đó, về cơ bản, đó là quan điểm và tổ chức bộ máy của vua Lê
Thánh Tông dưới triều Lê Sơ và mô hình nhà nước, luật pháp của nhà
Thanh.
Thứ hai, quan điểm của Gia Long và Minh Mạng được hình thành

trên cơ sở lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống kết hợp với những giá
trị truyền thống của dân tộc.
Thứ ba, là quan điểm về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại phản
ánh năng lực chủ quan của hai vị vua đầu triều Nguyễn trong sự nắm bắt cơ
sở thực tiễn đất nước đương thời. Quan điểm đó bao gồm một số nội dung
cơ bản và được thực thi trong hoạt động của các bộ máy hành chính, quân
sự từ trung ương đến địa phương.

13


Chương 3
NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG QUAN ĐIỂM CỦA GIA LONG
VÀ MINH MẠNG VỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ QUAN LẠI
(1802-1841) VÀ SỰ THỰC HIỆN QUAN ĐIỂM ĐÓ ĐƢƠNG THỜI
3.1. Những nội dung chủ yếu trong quan điểm của vua Gia
Long về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại
Trong quá trình xây dựng đường lối trị nước, tổ chức bộ máy hành
chính vàđịnh chế trách nhiệm, quyền hạn cũng như phương thức cai trị, vua
Gia Long đã kế thừa kinh nghiệm của các triều đại quân chủ Việt Nam
trước đó và các đời chúa trước đây, cùng với năng lực cá nhân, vua Gia Long
đã thể hiện quan điểm của mình về xây dựng và quản lý quan lại giai đoạn
1802-1819 với những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quan niệm vê nhân tài.Trên thực tế, vua Gia Long đã quan
tâm đến việc xây dựng đội ngũ quan lại từ những năm ông chưa lên ngôi
vua. Theo ông: “Việc trị nước chính cần phải mở rộng đường tìm kiếm
[nhân tài] để thoả lòng nguyện vọng mọi người”. Sau khi lên ngôi, ông “rất
lưu ý nghiệp văn, thường lấy sự bồi dưỡng nhân tài làm việc gấp. Phàm ai
có đơn xin theo học, đều cho được miễn binh đao, khiến cho gắng công tập
nghiệp để đợi khoa thi”.

Thứ hai, quan điểm về tiến cử người hiền tài.Tiến cử quan lại là việc
hệ trọng, do đó không thể để xẩy ra sơ suất mà phải dựa vào các tiêu chí
đạo đức và tài năng.
Thứ ba, quan điểm coi giáo dục và khoa cử là cơ sở xây dựng đội ngũ
quan lại.Gia Long cho rằng: “Học hiệu là quan hệ đến hiền sĩ, nhà nước
dùng người phần nhiều lấy ở đấy… Ta theo chí Tiên đế, muốn sai làm nhà
học, lấy thêm sinh viên, hậu cấp lương cho, định rõ chương trình khiến cho
người học đều được thành tài để đợi xét dùng”.
Thứ tư, quan điểm về quản lý đội ngũ quan lại. Liên quan đến vấn đề
quản lý quan lại, theo quan điểm của Gia Long, triều đình cần có sự phối

14


hợp của các bộ khác, cụ thể là Bộ Lễ và Bộ Hình. Do đó, không phải ngẫu
nhiên khi gọi tên các bộ trong Lục bộ, Bộ Lại được xếp đầu tiên.
3.2. Những nội dung chủ yếu trong quan điểm của vua Minh
Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại.
Quan điểm của vua Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan
lại, với những bước đi vừa táo bạo, vừa cơ bản về cải cách hành chính để
xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ngày một mạnh mẽ
hơn, kéo theo đó là một loạt các biện pháp về tuyển bổ và sử dụng nhân tài,
đặc biệt là khâu quản lý quan lại rất chặt chẽ.Cụ thể:
Thứ nhất, quan niệm về nhân tài.Vua Minh Mạng vốn coi kiến thức
văn hóa và tài nghệ, dù nhỏ cũng có thể giúp ích cho nước, coi “người học
rộng văn hay, am thuộc điển tích” chính là người được chuẩn bị kỹ càng về
kiến thức theo “bát điều mục” của Nho giáo.
Thứ hai, về tiến cử người hiền tài. Trong thời kỳ trị vì của mình, vua
Minh Mạng nhấn mạnh: “Người hiền tài là rường cột của quốc gia”. Hiền
tài là hai phẩm chất cần có của những người làm quan, trực tiếp thay vua

làm “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân).
Thứ ba, quan điểm coi giáo dục và khoa cử là cơ sở xây dựng đội ngũ
quan lại.Noi theo quan điểm giáo dục và khoa cử của vua cha, dưới thời trị
vì của mình vua Minh Mạng đã xây dựng chế độ khoa cử một cách bài bản,
đủ các bậc học nhằm tuyển lựa từ đó những người có đủ tài đức giúp vua.
Thứ tư, về quản lý đội ngũ quan lại. Tất thảy những dẫn chứng từ các
tư liệu về quan điểm của vua Minh Mạng trong việc dùng người cho thấy,
ông chủ trương cải cách hành chính, từ cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước
đến đội ngũ quan lại, quản lý đội ngũ quan lại bằng pháp luật, thưởng phạt
công minh dựa trên hiệu quả công việc.
3.3. Việc thực hiện các quan điểm của vua Gia Long và vua
Minh Mạng về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802-1841)
3.3.1. Xác định các phương thức chủ yếu trong xây dựng quan lại
Đối với vua Gia Long, những năm đầu dựng nghiệp do những yếu tố
khách quan, đội ngũ quan lại hầu hết được lựa chọn từ những người có
15


công trong công cuộc giành đế quyền từ nhà Tây Sơn. Trong khi đó, yêu
cầu thực tiễn cần phải có đội ngũ quan lại được đào tạo, có kiến thức để
giúp vua quản lý hành chính, kinh tế, xã hội… ngày càng cao vì mục tiêu
xây dựng chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Đó là giáo dục – khoa
cử, tiến cử và bảo cử, tập ấm:
Thứ nhất, trong lĩnh vực giáo dục – khoa cử. Dưới chế độ quân chủ
Việt Nam nói chung và Gia Long nói riêng, giáo dục – khoa cử vẫn là
phương thức quan trọng và phổ biến nhất trong tuyển chọn quan lại. Đối
với vuaMinh Mạng, ngay từ năm đầu nối ngôi, ông xuống chiếu rằng:
“Thánh nhân để phúc không gì lớn bằng gây dựng con nguời... nhà nước ta
chính trị, giáo hóa sáng tỏ, phong trào Nho học chấn hưng”. Nhờ đó mà
Minh Mạng đã tuyển chọn được những người có thực tài đáp ứng yêu cầu

củng cố nền quân chủ chuyên chế.
Thứ hai, phương thức tiến cử và bảo cử. Tiến cử là một trong những
phương thức mà các triều đại quân chủ Việt Nam áp dụng để tuyển dụng
nhân tài. Đây là một giải pháp tức thời giúp cho triều đình không bỏ sót
nhân tài, tạo điều kiện để nhân tài đóng góp tài năng, đức độ của mình
“phò vua, giúp nước”. Cùng với tiến cử, vua Gia Long còn áp dụng các
phương thức nhiệm tử, bảo cử.
Thứ ba, phương thức “tập ấm”. Tập ấm (còn gọi nhiệm tử, ấm sung
hay tích phong...), là phương thức triều đình cho con, em, cháu, chắt của
các đại thần có công với triều đình được bổ dụng vào các chức quan tập sự
hoặc cho vào học ở Quốc Tử giám để tham gia các kỳ thi hoặc kỳ tuyển bổ.
3.3.2. Thực hiện các phương thức chủ yếu trong quản lý quan lại
Tuyển dụng hay xây dựng được bộ máy nhà nước với đội ngũ quan
lại có năng lực chuyên môn và đạo đức là vấn đề quan trọng luôn thường trực
đối với nhà cầm quyền. Sau khi lên ngôi, một trong những khó khăn đặt ra
cho vua Minh Mạng là đội ngũ quan lại hầu như chưa kinh qua đào tạo,
khoa cử. Trước tình hình đó, Minh Mạng đã ban hành các định chế về xây
dựng và quản lý quan lại. Cụ thể:
Một là, xây dựng và hoàn thiện các định chế quản lý quan lại;
Hai là, xây dựng cơ chế quản lý, giám sát đội ngũ quan lại;
16


Cùng với hệ thống pháp luật, vua Minh Mạng còn cho xây dựng các
cơ chế để quản lý, giám sát đội ngũ quan lại trong cả nước. Năm 1832, vua
Minh Mạng đã cho thành lập Đô Sát viện, trong đó có Lục khoa và Giám
sát ngự sử thập lục đạo. Năm 1832 vua Minh Mạng đã cho thành lập Tam
Pháp ty – toà án tối cao của triều đình triều Nguyễn. Trong quá trình tồn tại,
Tam Pháp ty và trống Đăng Văn đã giúp cho triều đình minh oan được
nhiều vụ án, trả lại sự công bằng cho dân chúng. Vua Minh Mạng còn thiết

lập cơ chế thanh tra, áp dụng chế độ hồi t như thời Lê. Hồi tỵ, có nghĩa là
tránh đi hoặc né đi nhằm ngăn chặn quan hệ để kết b , kéo phái hòng tham
nhũng tiền của triều đình và cửa quyền, hạch sách dân chúng.
Ba là, lấy đức hóa và hình phạt làm phương tiện quản lý quan lại.
Trong 20 năm trị vì, bất cứ ai, dù là công thần hay hoàng thân quốc
thích, nếu phạm tội tham ô, tư lợi của nhà nước hay hạch sách, nhũng nhiễu
dân chúng đều bị Minh Mạng trừng trị thích đáng. Có thể thấy các biện
pháp đó được áp dụng như sau: Thứ nhất, đảm bảo công bằng và không tư
vị, nể nang; Thứ hai, nghiêm trị đối với những người “cầm cân nẩy
mực”;Thứ ba, nghiêm trị đối với những vị quan lợi dụng quyền hạn để tư
lợi và không “chăn dân” (mục dân 牧民); Thứ tư, phạt nặng để răn đe và
khoan hồng để quan “cầu tiến”.
Bốn là, áp dụng chế độ lương bổng, đãi ngộ phù hợp.
Tiểu kết chƣơng 3
Trước những yêu cầu khách quan và mong muốn chủ quan, trong gần
bốn thập niên trị vì, hai vị vua đầu triều Nguyễn đã xây dựng được hệ thống
quan điểm trong quản lý và xây dựng đội ngũ quan lại phù hợp với thực tiễn
của đất nước thời bấy giờ. Trong xây dựng đội ngũ quan lại, triều đình luôn
chú trọng đến mọi phương án để tìm kiếm nhân tài, hiền tài cho đất nước,
coi đó là điều kiện tiên quyết để bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả,
làm cho quốc thái dân an. Trong quản lý quan lại, vua Gia Long và Minh
Mạng không thiên vị bất kỳ ai, dù đó là người của hoàng tộc. Tuy đường lối
trị nước của họ dựa trên nền tảng học thuyết chính trị - đạo đức của Nho
giáo, song luật pháp là cán cân công lý để giúp triều đình thưởng phạt
nghiêm minh, công bằng.
17


Chƣơng 4
GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ TRONG QUAN ĐIỂM CỦA GIA LONG

VÀ MINH MẠNG VỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ QUAN LẠI
(1802-1841) VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ
4.1. Một số giá trị, hạn chế trong quan điểm của Gia Long và
Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại (1802 – 1841)
4.1.1. Một số giá trị cơ bản
Quan điểm và phương thức về xây dựng và quản lý quan lại không
phải là toàn bộ các yếu tố cấu thành đường lối trị nước, song, có thể nói,
quan lạithuộc đối tượng của các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình hoạt động quản lý nhà nước, chịu sự điều chỉnh của luật hành chính
mà phương pháp điều chỉnh của ngành luật này là phương pháp mệnh lệnh,
được thể hiện ở quan hệ giữa “chỉ huy” và “phục tùng”. Qua phân tích,
trình bày những nội dung chủ yếu trong quan điểm và phương thức xây
dựng và quản lý quan lại của triều Nguyễn dưới thời vua Gia Long và Minh
Mạng, chúng ta có thể rút ra một số ý nghĩa lịch sử đối với xã hội phong
kiến Việt Nam đương thời sau đây:
Thứ nhất, thiết lập mô hình nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
Thứ hai, quan điểm về tuyển dụng và bổ nhiệm quan lại.
Thứ ba, quan điểm vềsử dụng và quản lý quan lại.
Thứ tư, thưởng phạt quan lại phải căn cứ vào pháp luật.
Nói tóm lại, một số giá trị cơ bản trong quan điểm của Gia Long và
Minh Mạng về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lạiđã được trình bày ở
trên có thể khái quát lại một cách ngắn gọn như sau:
Một là, ngay từ những ngày đầu thiết lập vương triều, vua Gia Long
đã quyết định lựa chọn mô hình nhà nước quân chủ phong kiến trung ương
tập quyền. Do đó, ngoài sự kế thừa kinh nghiệm trị nước của các triều đại
phong kiến trước đây, Nguyễn Ánh đã thể hiện năng lực cá nhân trong việc

18



“thêm”, “bớt” các yếu tố cấu thành Hoàng Việt luật lệ với tư cách là công
cụ quản lý đất nước.
Hai là, song hành với chủ trương tập trung quyền lực, Gia Long luôn
chú trọng đến vấn đề chủ quyền toàn vẹn quốc gia và đường lối trị nước độc
lập, không để nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước mình.
Ba là, giai đoạn trị vì của vua Minh Mạng là giai đoạn củng cố và
hoàn thiện cơ cấu tổ chức nhà nước trên nền tảng đã được Gia Long thiết
lập. Quan điểm về xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại của Minh Mạng
song hành với những thử thách to lớn trong quá trình thực hiện việc cải
cách hành chính.
4.1.2. Một số hạn chế chủ yếu
Vua Gia Long thiết lập vương triều và được vua Minh Mạng hoàn
thiện thể chế quân chủ chuyên chế. Tuy nhiên, tình hình thế giới vào đầu
thế kỷ XIX đã có nhiều biến động và thay đổi, do đó, ngoài những giá trị
nêu trên, sự bất cậptrên phương diện xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại
là không thể tránh khỏi:
Thứ nhất, để bảo vệ và củng cố nền quân chủ chuyên chế và lợi ích của
Hoàng tộc, vua Gia Long và Minh Mạng vẫn áp dụng chế độ ấm tập, bảo cử
truyền thống đối với những đối tượng có công với triều đình cũng như cho
con cháu thuộc dòng dõi hoàng thân, quốc thích.
Thứ hai, do đề cao tư tưởng Nho giáo vì mục đích tuyệt đối hóa quyền
lực của Hoàng đế, làm hạn chế đáng kể đối với vai trò chủ động và sáng tạo
của đội ngũ quan lại.
Thứ ba, việc triều Nguyễn cho phép một vị quan có thể kiêm nhiệm nhiều
chức vụ khác nhau chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”,
làm hạn chế tính độc lập và hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp.
Thứ tư, triều Nguyễn đề cao nền giáo dục – khoa cử theo tư tưởng Nho
giáo và tư tưởng “đóng kín” của phương Đông, vì thế vô hình trung đã
“khước từ” văn minh và khoa học kỹ thuật phương Tây.
19



4.2. Bài học lịch sử từ quan điểm của Gia Long và Minh Mạng
về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại (1802-1841) đối với công tác cán
bộ nƣớc ta hiện nay
4.2.1.Quán triệt chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước về
công tác cán bộ
Ngoài các Văn kiện của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng,
gần đây, trong Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018, Hội nghị lần thứ
bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ, có nêu quan điểm của Đảng là: “Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt”
của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán
bộ, là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc
hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa
học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho sự
phát triển lâu dài, bền vững”. Từ quan điểm nêu trên, Đảng đã chỉ rõ các
qui định, nguyên tắc và cách thức thực hiện công tác cán bộ như trách
nhiệm nêu gương của các cán bộ lãnh đạo các cấp, thẩm quyền của các cơ
quan thanh tra, giám sát và kiểm soát, v.v.
4.2.2. Coi trọng việc sử dụng “nhân tài” và qui hoạch cán bộ
Thấm nhuần quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, cụ thể là quan
niệm về nhân tài với những tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn và đạo đức,
coi tiêu chuẩn là chính và giữa đức và tài, coi đức là gốc, chúng ta có thể
khẳng định một điều là, trong các tiêu chuẩn để lựa chọn nhân tài cho công
tác qui hoạch cán bộ, phẩm chất đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu.
4.2.3. Đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ công chức và bổ nhiệm
cán bộ quản lý
Một là, công khai, minh bạch và tăng cường giám sát công tác tuyển

dụng và bổ nhiệm.
20


Hai là, áp dụng các hình thức thi tuyển từ kiến thức thực tiễn.
Ba là, áp dụng hình thức thi tuyển đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Bốn là, nên có cam kết về kết quả từ ý tưởng mà cán bộ được tuyển
dụng hay cán bộ được bổ nhiệm lãnh đạo, quản lý
4.2.4. Giám sát và đánh giá định kỳ năng lực, chất lượng đội ngũ
cán bộ nước ta hiện nay
Đây là việc làm cần thiết để đánh giá năng lực và phẩm chất của cán
bộ với mục đích khuyến khích những người làm việc tốt, cảnh tỉnh hoặc bãi
nhiệm các chức vụ mà người thực thi không hoàn thành nhiệm vụ. Việc lấy
phiếu tín nhiệm cũng là một trong những hình thức đánh giá định kỳ.
4.2.5. Tham khảo chính sách “Hồi tỵ” trong luân chuyển cán bộ
Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018, Hội nghị lần thứ
bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) mà chúng tôi đã dẫn ra ở
trên,có đề cập đến sự luân chuyển cán bộ như sau: “Chủ trương luân chuyển
kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương đạt
được kết quả bước đầu”. Như vậy, tuy trong tài liệu không dùng thuật ngữ
“hồi t ”, song thực chất của chủ trương nêu trên là trùng hợp với chính sách
“Hồi t ” trong lịch sử mà triều Nguyễn rất quan tâm.
4.2.6. Lấy pháp luật làm “thước đo” quản lý CBCC
Trong Qui định trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong
công tác phòng, chống tham nhũng, số 01-Qđi/TW ngày 10/5/2018 tại điều
2: Nguyên tắc thực hiện viết rằng: “Đảng viên ở bất cứ cương vị công tác
nào, có dấu hiệu tham nhũng đều phải được xem xét làm rõ và xử lý nghiêm
theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không có “vùng cấm”.
Kinh nghiệm của triều Nguyễn, nhất là dưới thời Minh Mạng cho
thấy, pháp luật là yếu tố quyết định trong điều hành đất nước và quản lý xây

dựng, nó còn quan trọng hơn đối với quản lý quan lại.

21


4.2.7. Cải cách chế độ, chính sách đãi ngộ để tạo động lực cho
CBCC
Đột phá thứ 4 được nêu trong Nghị quyết đã nêu ở trên chỉ rõ: “Cải
cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu,
toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế chính sách để tạo cạnh tranh bình
đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài”. Đây cũng là vấn đề được
Gia Long và Minh Mạng rất quan tâm và có quan điểm khá phù hợp.
Tiểu kết chƣơng 4
Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định mang tính lịch sử, nhưng
bài học về xây dựng, quản lý đội ngũ quan lại của hai vị vua đó đã để lại
cho chúng ta những kinh nghiệm và bài học lịch sử quý báu trong công tác
cán bộ hiện nay.
Do thực trạng công tác cán bộ nước ta đang có nhiều vấn đề đặt ra, có
đó việc tham khảo kinh nghiệm về đào tạo, tuyển dụng những con người có
đủ tài năng và đặc biệt là phẩm chất đạo đức “trung quân”, “ái quốc” và
“chăm dân” thời Nguyễn để xây dựng đội ngũ CBCC thực sự là “công bộc
của dân”, yêu nước và trung thành với Đảng là việc làm cần thiết.

22


KẾT LUẬN
Nghiên cứu quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và
quản lý đội ngũ quan lại, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Một là, cơ sở hình thành quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về

xây dựng và quản lý đội ngũ quan lại trước hết, là những điều kiện kinh tế,
chính trị - xã hội và văn hóa của đất nước đầu thế kỷ XIX với tư cách
những bộ phận cấu thành tồn tại xã hội có tính quyết định đối với quan
điểm đó.Ngoài những điều kiện, tiền đề khách quan nêu trên, chúng ta
không thể không đề cập đến nhân tố chủ quan mà cụ thể là trí lực và tâm
lực của hai vị vua đầu triều Nguyễn trong quá trình thiết lập và xây dựng
vương triều.
Hai là, quan điểm của Gia Long và Minh Mạng về xây dựng và quản
lý đội ngũ quan lại thể hiện trước hết là ở việc trọng dụng nhân tài, kêu gọi
nhân tài trong cả nước tham gia vào công việc quản lý đất nước của triều
đình, đặc biệt là nhấn mạnh đến biện pháp tiến cử, bảo cử, sau nữa là chú
trọng đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo quan lại.
Ba là, việc sử dụng đội ngũ quan lại, theo quan điểm của Gia Long
và Minh Mạng, trước hết là phải dựa vào luật pháp, theo đó thưởng phạt
phải công minh và nhằm mục đích răn đe; sau đó là việc ban bố các định
chế về trách nhiệm và quyền lợi của quan lại, về thưởng và phạt trong các
cơ quan hành chính nhà nước và quân đội.
Bốn là, tuy quan điểm của hai vị vua đầu triều Nguyễn được hình
thành do nhu cầu trị nước, dựa trên hệ tư tưởng Nho giáo mà nền tảng của
nó là đức trị và kết hợp với pháp luật, đúc rút kinh nghiệm trị nước của các
triều đại phong kiến trước đó, song trong quá trình xây dựng và quản lý đội
ngũ quan lại, Gia Long và Minh Mạng vẫn không tránh được những hạn
chế nhất định.
Năm là, những giá trị và hạn chế trong quan điểm xây dựng và quản lý
quan lại dưới thời Gia Long và Minh Mạng trị vì đã trở thành những bài học
lịch sử quan trọng cho công tác đào tạo và sử dụng CBCC nước ta hiện nay.

23



×