Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Vai trò của ngân hàng trong phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.86 KB, 9 trang )

Vai trò của ngân hàng trong phát triển tài chính
toàn diện tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị
Nguyễn Thùy Dương

Nguyễn Thị Thu Trang

Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng

Bài viết tìm hiểu một số quan điểm về tài chính toàn diện cũng như làm rõ
vai trò của ngân hàng trong phát triển tài chính toàn diện. Từ đó bài viết
phân tích vai trò của ngân hàng đối với phát triển tài chính toàn diện tại
Việt Nam trong tương quan với các quốc gia trong khu vực. Thực trạng
được phân tích thông qua hai nhóm chỉ tiêu: mức độ bao phủ của ngân
hàng và mức độ sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng qua giai đoạn nghiên
cứu 7 năm, từ 2012 đến năm 2018. Kết quả cho thấy ngân hàng đã đóng vai
trò quan trọng trong thúc đẩy tài chính toàn diện, tuy nhiên mức độ phát
triển tài chính toàn diện tại Việt Nam vẫn thấp hơn so với một số quốc gia
trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Bài viết cũng nêu một số
khuyến nghị nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện qua ngân hàng tại Việt Nam
trong giai đoạn tới.
Từ khóa: ATM, chi nhánh, ngân hàng, tài chính toàn diện

Roles of bank in financial inclusion development: Current situation and recommendations

Abstract: The paper explores a number of perspectives about financial inclusion as well as clarifies the role
of banks in financial inclusion. Besides, the paper has analyzed the role of the bank in developing financial
inclusion in Vietnam, compared with other regional. The situation is analyzed through two groups of indicators:
the bank’s coverage and the use of banking products and services through a 7-year research period from
2012 to 2018. The results show that the banks in Vietnam has played an important role in promoting financial
inclusion in Vietnam, but the level of financial inclusion is still lower than some regional countries such as
Thailand Malaysia and, Indonesia. The paper also outlines some recommendations to promote financial


inclusion through banks in Vietnam.
Keywords: financial inclusion, banks, ATM, branch.
Asscociate Professor Duong Thuy Nguyen, PhD.
Email:
Dean of Banking Faculty, Banking Academy of Vietnam
Trang Thi Thu Nguyen, MEc.
Email:
Banking Faculty, Banking Academy of Vietnam
Ngày nhận: 04/12/2019

© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X

Ngày nhận bản sửa: 18/12/2019

31

Ngày duyệt đăng: 20/12/2019

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 216- Tháng 5. 2020


Vai trò của ngân hàng trong phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

1. Một số quan điểm về tài chính toàn
diện và phát triển tài chính toàn diện
Liên Hiệp quốc (2006) định nghĩa tài chính
toàn diện (financial inclusion) là khả năng
tiếp cận danh mục dịch vụ tài chính với

chi phí hợp lý của tất cả hộ gia đình. Dịch
vụ tài chính cơ bản bao gồm dịch vụ tiết
kiệm, cho vay ngắn hạn và dài hạn, cho vay
mua nhà, cho thuê tài chính và bao thanh
toán, dịch vụ bảo hiểm, hưu trí, thanh toán,
chuyển tiền trong nước và kiều hối. Ngoài
ra, tài chính toàn diện còn có mục tiêu giúp
cho các tổ chức kinh doanh an toàn và hiệu
quả, được quản lý bởi hành lang pháp lý và
những tiêu chuẩn hoạt động ngành rõ ràng,
giúp cho bền vững thể chế và tài chính,
đảm bảo tính liên tục và chắc chắn của hoạt
động đầu tư.
Theo quan điểm của Md. Ezazul Islam,
Salim Al Mamun (2011), tài chính toàn
diện được hiểu là khả năng cá nhân tiếp
cận dịch vụ và sản phẩm tài chính phù hợp.
Hiểu biết về sự phù hợp dịch vụ và sản
phẩm tài chính bao gồm sự nhận thức về tài
chính, hiểu biết về ngân hàng, kênh dịch vụ
ngân hàng và lợi ích khi sử dụng dịch vụ tài
chính qua ngân hàng. Tuy nhiên cần hiểu
chất lượng dịch vụ tài chính trong hệ thống
tài chính toàn diện được cung cấp với giá
cả hợp lý, thuận tiện và đảm bảo chất lượng
cho khách hàng. Tài chính toàn diện cần
được quy định và giám sát chặt chẽ nhằm
đảm bảo khả năng và mức độ sử dụng
dịch vụ tài chính (European Commission’s
Report, 2008). Word Bank (2017) cho rằng

tài chính toàn diện là việc các cá nhân và
doanh nghiệp có thể tiếp cận được với các
sản phẩm dịch vụ tài chính hữu ích với giá
cả phải chăng, đáp ứng được các nhu cầu
của họ bao gồm: chuyển tiền, thanh toán,
tiết kiệm, tín dụng, và bảo hiểm- được cung
cấp một cách có trách nhiệm và bền vững.

32

Khái niệm về tài chính toàn diện đa dạng
theo từng quốc gia phụ thuộc vào mục tiêu
của từng nước đối với tài chính toàn diện.
Tuy nhiên, theo cách hiểu chung thì tài chính
toàn diện là phương tiện cung cấp dịch vụ tài
chính tới những đối tượng thiếu tiếp cận dịch
vụ tài chính và bao hàm ba yếu tố cấu thành
cốt lõi là tiếp cận, sử dụng và chất lượng
dịch vụ tài chính. Tài chính toàn diện không
chỉ giới hạn trong việc cải thiện khả năng
tiếp cận tín dụng, mà bao gồm cả nâng cao
hiểu biết về tài chính cho người dân và bảo
vệ người tiêu dùng. Triển khai tài chính toàn
diện giúp cho tất cả mọi người có quyền tiếp
cận và sử dụng hiệu quả các sản phẩm, dịch
vụ tài chính phù hợp với nhu cầu, có chất
lượng, tiện lợi, nhanh chóng ở mức chi phí
chấp nhận được.
Theo quan điểm của nhóm tác giả trong
bài viết, tài chính toàn diện là việc đảm

bảo tất cả người Việt Nam trưởng thành,
bất kể địa vị, giới tính, thu nhập, sắc tộc,
có quyền tiếp cận và sử dụng hiệu quả các
sản phẩm, dịch vụ tài chính cơ bản, chính
thức, phù hợp với nhu cầu, có chất lượng,
tiện lợi, nhanh chóng ở mức chi phí chấp
nhận được. Như vậy phát triển tài chính
toàn diện thể hiện dưới hai khía cạnh cung
và cầu như sau: Một là, tài chính toàn
diện thúc đẩy người dân từ không sử dụng
dịch vụ ngân hàng chuyển sang sử dụng
dịch vụ tài chính chính thức để họ có cơ
hội tiếp cận dịch vụ từ tiết kiệm, thanh
toán đến tín dụng, bảo hiểm (Hannig and
Jansen, 2010). Hai là, tài chính toàn diện
là quá trình đảm bảo tiếp cận dịch vụ tài
chính và nhu cầu tín dụng được đáp ứng
cho đối tượng yếu hơn như nhóm khách
hàng có thu nhập thấp với chi phí hợp lý.
Những điều này được thể hiện ở khả năng
tiếp cận tài khoản ngân hàng như tài khoản
tiết kiệm, tiếp cận tín dụng và hệ thống
thanh toán qua ngân hàng (Khan, 2011).

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020


NGUYỄN THÙY DƯƠNG - NGUYỄN THỊ THU TRANG

2. Vai trò của ngân hàng đối với phát

triển tài chính toàn diện
Như đã đưa ra khái niệm ở trên, tài chính
toàn diện được định nghĩa theo quan điểm
rộng là tiếp cận toàn diện về dịch vụ tài
chính với chi phí hợp lý, trong đó dịch vụ
tài chính không chỉ là sản phẩm ngân hàng
mà cả sản phẩm khác như bảo hiểm hay
đầu tư cổ phiếu. Tuy vậy, rất nhiều nghiên
cứu chỉ ra rằng ngân hàng luôn đóng vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính
toàn diện tại các quốc gia như nghiên cứu
của Neha Garg (2015), Hastak và Gaikwad
(2015), Ravikumar (2012), Abbey và cộng
sự (2014). Với lợi thế mạng lưới rộng rãi,
sản phẩm dịch vụ đa dạng, ngân hàng đóng
vai trò chủ yếu trong việc cung cấp các sản
phẩm ngân hàng tài chính cho người dân
trong nền kinh tế.
Neha Garg (2015) đã chỉ rõ bốn trụ cột thể
hiện vai trò của ngân hàng đối với thúc
đẩy tài chính toàn diện, theo đó tập trung
vào các trụ cột cơ bản này sẽ cải thiện sự
tham gia của người dân vào dịch vụ tài
chính. Bốn trụ cột đó là:
Thứ nhất, sự sẵn có sản phẩm ngân hàng,
theo đó sẽ xem xét sự sẵn có 5 sản phẩm
cơ bản của ngân hàng bao gồm tiết kiệm,
cho vay, thanh toán, bảo hiểm và đầu tư.
Các nhóm khách hàng không có lợi thế
thường không có nhu cầu cho cả tất cả sản

phẩm trên. Sản phẩm phù hợp có thể giúp
cho các nhóm trên tiếp cận được hệ thống
ngân hàng.
Thứ hai, hiểu biết về hệ thống tài chính.
Bộ phận khách hàng không có lợi thế nằm
ngoài hệ thống ngân hàng do sự thiếu hiểu
biết về hệ thống tài chính. Cung cấp dịch
vụ tìm hiểu về tài chính là chức năng cốt
lõi của tổ chức tài chính. Hiểu biết về tài

chính xem là kiến thức bắt buộc về quản
lý tài chính cá nhân. Mục tiêu cuối cùng là
mang lại cho người dân hiểu được lợi ích
cá nhân khi họ sử dụng dịch vụ tài chính.
Chức năng chính được thực hiện bởi các
ngân hàng trong việc nâng cao hiểu biết
của người dân về tài chính bao gồm: (i)
Cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến
dịch vụ tài chính và khái niệm các sản
phẩm ngân hàng nói chung với các đối
tượng khách hàng khác nhau bao gồm học
sinh phổ thông và học sinh tiểu học, phụ
nữ ở khu vực nông thôn và đô thị nghèo.
(ii) Mở rộng giáo dục tài chính bao gồm:
cần thiết tiết kiệm, lợi ích của ngân hàng
và các tổ chức tài chính chính thức; sản
phẩm tài chính được cung cấp bởi ngân
hàng liên quan đến tiền gửi, cho vay ứng
trước. (iii) Sản phẩm tài chính điện tử như
ATM, Smart card, mobile banking. (iv)

Lợi ích/ tiện ích khi sử dụng tài khoản.
Thứ ba, khả năng tiếp cận. Những quốc
gia có mức độ tài chính toàn diện thấp do
nhóm khách hàng gặp khó khăn hoặc mất
nhiều thời gian, công sức hơn trong việc
tiếp cận với các dịch vụ tài chính và kênh
phân phối của ngân hàng. Sự phát triển hệ
thống viễn thông có thể giúp đảm bảo tiếp
cận dịch vụ tài chính.
Thứ tư, quản trị rủi ro. Nhìn nhận và đánh
giá lịch sử tín dụng trong quá khứ hạn chế
các tổ chức tín dụng (TCTD) cung cấp
các sản phẩm cho đối tượng khách hàng
không có lợi thế. Khi rủi ro tín dụng được
loại trừ, các TCTD sẵn sàng tham gia cung
cấp dịch vụ tài chính cho đối tượng khách
hàng trên.
Ngoài ra, Raihanath.MP, K.P.Pavithran
(2014) bổ sung thêm một số trụ cột đánh
giá vai trò của ngân hàng đối với tài chính
toàn diện bao gồm:

Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

33


Vai trò của ngân hàng trong phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Thứ nhất, tư vấn tín dụng. Có hai loại dịch

vụ tư vấn tín dụng là tư vấn dự phòng và
tư vấn xử lý. Tư vấn dự phòng cung cấp
nhận thức về chi phí tín dụng, sự sẵn có
của các sản phẩm tín dụng trên cơ sở khả
năng hoàn trả cơ bản của khách hàng vay
vốn. Tư vấn xử lý tín dụng xem xét kế
hoạch quản lý nợ cá nhân đối với danh
mục nợ mà khách hàng không quản lý
được bằng kế hoạch tái cấu trúc các khoản
nợ thực hiện bởi các ngân hàng phù hợp
với mức độ thu nhập của khách hàng và
quy mô tín dụng.
Thứ hai, chi nhánh ngân hàng. Các quy
định thành lập chi nhánh ngân hàng tại các
quốc gia (kèm theo các điều kiện về quy
mô cũng như trang thiết bị) giúp cho việc
mang các sản phẩm dịch vụ tới người dân,
đặc biệt tới các khu vực có ít sự hiện diện
của các ngân hàng. Ở một số quốc gia trên
thế giới, mật độ dân số trên một (01) ngân
hàng được xem là một chỉ tiêu đánh giá
mức độ hay vai trò của ngân hàng đối phát
triển tài chính toàn diện.
Thứ ba, mobile banking. Mobile banking
xem xét về mức độ giao dịch tài khoản,
kiểm tra giao dịch trên tài khoản, thanh
toán qua điện thoại di động. Điều này
khuyến khích số lượng người sử dụng giao
dịch ngân hàng qua điện thoại di động,
mua bán hàng hóa qua internet hoặc tin

nhắn điện thoại, chuyển tiền online, thanh
toán hàng hóa tại các điểm bán. Việc sử
dụng dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di
động đòi hỏi các ngân hàng đầu tư phát
triển các phần mềm tiện ích tích hợp trên
điện thoại di động.
Thứ tư, các yếu tố khác. Bộ phận người
dân nằm ngoài tiếp cận sản phẩm dịch vụ
tài chính cần được quan tâm với nhu cầu
đa dạng của họ. Yêu cầu về dịch vụ ngân

34

hàng trở nên nhỏ hơn khi các vấn đề về
phục vụ và chi phí trở nên quan trọng hơn.
Nhu cầu tiết kiệm của những nhóm đối
tượng này cần được quan tâm đặc biệt như
đáp ứng nhu cầu chu kỳ vòng đời, tạo ra
tài sản, thanh toán chi phí vay mượn, đáp
ứng nhu cầu cấp bách… Vì vậy việc phát
triển sản phẩm đặc thù cho các đối tượng
này như tiết kiệm nhỏ, tín dụng vi mô, bảo
hiểm vi mô là vấn đề vô cùng quan trọng
(Nurkse R, 2010).
Tương tự, nghiên cứu của Neha Garg
(2015) và Nurkse R (2010) đề cập đến các
cách đánh giá vai trò của ngân hàng trong
phát triển tài chính toàn diện các quốc
gia. Nhiều nghiên cứu khác cũng đề cập
đến cách thức đánh giá mức độ phát triển

tài chính toàn diện thông qua một số chỉ
tiêu đo lường như nghiên cứu của Gortsos
(2016), Beck (2007), Sarma Mandira
(2012), Tamilarasu (2014), Ravikumar
(2012). Bên cạnh đó, bắt đầu từ năm 2011,
Ngân hàng Thế giới (World Bank- WB)
và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng xây
dựng một cơ sở dữ liệu đồ sộ về tài chính
toàn diện của các quốc gia trên thế giới
(Global Findex Database) và được điều
tra, đánh giá định kì ba (03) năm một lần.
3. Phát triển tài chính toàn diện thông
qua ngân hàng tại Việt Nam
Theo WB (2017), tại Việt Nam có 31%
người trưởng thành có tài khoản ngân
hàng, phần lớn các khoản tiền của Chính
phủ được người dân nhận bằng tiền mặt,
80% người trưởng thành mua bán online
nhưng lại thanh toán bằng tiền mặt. Chính
phủ trong nhiều năm gần đây đã ưu tiên
thực hiện các nội dung liên quan đến tăng
cường tiếp cận tài chính và phát triển tài
chính toàn diện tại Việt Nam. Cụ thể năm
2010, Chính phủ ban hành Nghị định số

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020


NGUYỄN THÙY DƯƠNG - NGUYỄN THỊ THU TRANG


41/2010/NĐ-CP hỗ trợ tín dụng phát triển
nông nghiệp nông thôn. Tháng 12 năm
2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban
hành Quyết định số 2195/QĐ-TTg phê
duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ
thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến
năm 2020. Gần đây nhất, tháng 9/2016,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định
1726/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao
khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho
nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN),
WB, và IMF.

Để đánh giá phát triển tài chính toàn diện
thông qua ngân hàng tại Việt Nam, nhóm
nghiên cứu sử dụng hai nhóm chỉ tiêu:
Thứ nhất, nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ
bao phủ của hệ thống ngân hàng, phản ánh
khả năng cung cấp và dễ dàng tiếp cận với
ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng của
người dân. Thứ hai, nhóm chỉ tiêu về mức
độ sử dụng sản phẩm ngân hàng- tài chính.
Quy mô nghiên cứu áp dụng cho hệ thống
ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn
nghiên cứu 07 năm, từ 2012 đến 2018.
Số liệu được thu thập từ nguồn thứ cấp từ

Trong những năm qua, hệ thống Ngân

hàng tại Việt Nam không ngừng mở rộng
về quy mô, đa dạng về tính chất hoạt động
và loại hình sở hữu. Tính đến cuối năm
2018, hệ thống Ngân hàng Việt Nam có
07 ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà
nước, 01 ngân hàng chính sách xã hội, 01
ngân hàng phát triển, 01 ngân hàng hợp
tác, 28 NHTM cổ phần; 02 ngân hàng liên
doanh; 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài
và 49 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
So với năm 2012, số lượng các NHTM cổ
phần có sự sụt giảm nhẹ do tác động của

3.1. Mức độ bao phủ của hệ thống ngân hàng
Số lượng các ngân hàng trong hệ thống có
tác động tới lượng người có thể tiếp cận
và được sử dụng các dịch vụ ngân hàng tài
chính chính thức. Lượng ngân hàng càng
nhiều thì mức độ bao phủ của hệ thống
ngân hàng càng lớn (Ravikumar, 2012).

Hình 1. Số lượng ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn 2012-2018

Nguồn: NHNN
Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

35


Vai trò của ngân hàng trong phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị


việc mua lại, sáp nhập các ngân hàng cũng
như việc tái cơ cấu hệ thống TCTD giai
đoạn 2011-2015. Số lượng chi nhánh ngân
hàng nước ngoài tăng, số lượng ngân hàng
100% vốn nước ngoài cũng tăng, chứng tỏ
Việt Nam ngày càng thu hút được sự tham
gia cung cấp dịch vụ ngân hàng tài chính
của các ngân hàng ngoại.
Để có thể đánh giá chính xác hơn về mức
độ bao phủ của ngân hàng, các chỉ tiêu
thường được sử dụng là mức độ bao phủ
của chi nhánh ngân hàng và ATM theo
địa lý và dân số. Mức độ bao phủ của chi
nhánh về mặt dân số phản ánh số lượng
chi nhánh trên mỗi 100.000 người dân nói
chung hoặc 100.000 người trưởng thành.
Mức độ bao phủ của ATM về dân số phản
ánh số lượng ATM trên mỗi 100.000 người
dân nói chung hoặc 100.000 người trưởng
thành. Tương tự như vậy, mức độ bao phủ
của chi nhánh về mặt địa lý phản ánh số
lượng chi nhánh trên mỗi 1.000 km2. Mức
độ bao phủ của ATM về mặt địa lý phản
ánh số lượng ATM trên mỗi 1.000 km2.
Những chỉ tiêu này phản ánh mức độ sẵn
có của chi nhánh ngân hàng và ATM trên
phương diện tiếp cận của người dân. Những
chỉ tiêu này càng cao phản ánh mức độ phát
triển tài chính toàn diện càng cao, người

dân càng dễ tiếp cận với các dịch vụ ngân
hàng tài chính. Nhóm chỉ tiêu này đã được
rất nhiều nghiên cứu sử dụng như Beck và
cộng sự (2007), Kiatchai Sophastienphong
và Anoma Kulathunga (2009), Chakravarty
và Rupayan Pal (2010).

Bảng 1 cho thấy nhìn chung có xu hướng
tăng trưởng đều đặn về mức độ bao phủ
của chi nhánh ngân hàng theo địa lý, cứ
mỗi 1.000 km2 thì có 6,4 chi nhánh ngân
hàng vào năm 2012, trong khi con số này
năm 2018 là 8,64. Tương tự như vậy về
mức độ bao phủ của chi nhánh ngân hàng
theo dân số, nếu trong năm 2012 có 3,1
chi nhánh trên mỗi 100.000 người trưởng
thành thì con số này đến năm 2016 là 3,92
chi nhánh. Có một sự sụt giảm nhẹ về mức
độ bao phủ của chi nhánh ngân hàng trong
năm 2015. Nguyên nhân chính là do, đặc
biệt phải kế đến ba thương vụ NHNN mua
lại ngân hàng yếu kém để tái cơ cấu các
ngân hàng này.
Như vậy trong giai đoạn 2012- 2018,
người dân nói chung và người trưởng
thành tại Việt Nam nói riêng có thể dễ
dàng hơn trong việc đến các chi nhánh
ngân hàng, từ đó việc tiếp cận với các dịch
vụ ngân hàng sẽ trở nên dễ dàng và thuận
tiện hơn. Tuy nhiên, những con số này

hiện đang thấp hơn rất nhiều so với các
nước trong khu vực. Cụ thể số chi nhánh
trên mỗi 100.000 người trưởng thành tại
Malaysia, Thái Lan và Indonesia trung
bình lần lượt khoảng 11 chi nhánh, 13 chi
nhánh và 17 chi nhánh (IMF, 2017).
Hình 2 cho thấy mức độ bao phủ của
ATM theo cả dân số và địa lý đều có sự
tăng trưởng đều đặn. Về mặt địa lý, năm
2012 Việt Nam có 42,9 cây ATM trên mỗi
1.000 km2 thì đến năm 2018 con số này

Bảng 1. Mức độ bao phủ của chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn 2012-2018
Chỉ tiêu
Số lượng chi nhánh trên mỗi 100.000 người
trưởng thành
Số lượng chi nhánh trên mỗi 1.000 km2

Năm 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
3,14 3,69 3,88 3,80 3,87 3,88 3,92
6,4

7,3

8,2

8,1

8,3


8,48 8,64

Nguồn: WB, IMF

36

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020


NGUYỄN THÙY DƯƠNG - NGUYỄN THỊ THU TRANG

Hình 2. Mức độ bao phủ của ATM tại Việt Nam giai đoạn 2012-2018

Nguồn: WB, IMF

Bảng 2. Mức độ sử dụng sản phẩm thẻ và tiền gửi giai đoạn 2012- 2016
Năm 2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Chỉ tiêu
Số tài khoản tiền gửi trên mỗi
617,48 667,74 780,48 853,64 933,70 970,90 1.090,48
100.000 người trưởng thành
Lượng thẻ trong lưu thông
54,2
66,0

81,6
99,5
117,8 132,3
153
(triệu thẻ)
Nguồn: NHNN, IMF

là 56,16. Tương tự như vậy, cứ 100.000
người trưởng thành tại Việt Nam năm
2012 có 20,9 cây ATM thì năm 2018 số
lượng cây ATM đã lên tới 25,41. So với
các nước trong khu vực như Malaysia,
Thái Lan và Indonesia thì số lượng cây
ATM trên 100.000 người trưởng thành
trung bình trong giai đoạn nghiên cứu lần
lượt khoảng 50, 110 và 50 cây ATM. Như
vậy mức độ bao phủ ATM về dân số của
Malaysia và Indonesia gấp đôi Việt Nam,
còn mức độ bao phủ ATM về dân số của
Thái Lan gấp hơn 4 lần Việt Nam.
3.2. Mức độ sử dụng các sản phẩm ngân
hàng - tài chính
Các chỉ tiêu phản ánh mức độ sử dụng
các sản phẩm ngân hàng tài chính được
sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: (i) số
lượng tài khoản tiền gửi trên mỗi 100.000
người trưởng thành; (ii) số lượng thẻ trong
lưu thông. Rất nhiều các nghiên cứu đã
sử dụng các chỉ tiêu này để đánh giá mức
độ phát triển của tài chính toàn diện như


Ravikumar (2012), Gortsos (2016), Sarma
Mandira (2012).
Mức độ sử dụng sản phẩm tiền gửi có sự
gia tăng mạnh trong giai đoạn 2012- 2018.
Cụ thể năm 2018, cứ mỗi 100.000 người
trưởng thành tại Việt Nam có 1.090,48
tài khoản tiền gửi, tăng 76,6% so với năm
2012. Như vậy trong giai đoạn nghiên
cứu số tài khoản tiền gửi trung bình mỗi
năm tăng khoảng 11%, lớn hơn rất nhiều
so với mức tăng trung bình 1% của số
người trưởng thành tại Việt Nam. Tốc
độ tăng trưởng tài khoản tiền gửi trung
bình tại Việt Nam lớn hơn rất nhiều so
với các nước trong khu vực như Malaysia
(0,04%), Thái Lan (1,51%) và Indonesia
(7,81%). Điều này có thể lý giải do mức
độ phát triển tài chính toàn diện tại các
nước cao hơn, đa số người dân có tài
khoản tiền gửi nên tỷ lệ tăng trưởng tài
khoản tiền gửi không nhiều. Ngược lại
Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu
của phát triển tài chính toàn diện nên tỷ
lệ tăng này cao hơn. Nhận định này cũng

Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

37



Vai trò của ngân hàng trong phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

rất logic theo số liệu về tỷ lệ người trưởng
thành có tài khoản tại ngân hàng năm
2017 tại Việt Nam là 31%, thấp hơn so với
tại Indonesia (49%), Thái Lan (82%) và
Malaysia (85%) (WB, 2017).
Lượng thẻ trong lưu thông cũng tăng
mạnh, đến năm 2018 tại Việt Nam có 153
triệu thẻ, tăng gần gấp 3 lần so với 54,2
triệu thẻ của năm 2012. Bên cạnh đó,
theo NHNN (2019), tính đến hết tháng
12/2018, Việt Nam có 18.587 ATM,
243.123 máy POST/EDC. Như vậy có thể
khẳng định mức độ sử dụng hai sản phẩm
thẻ và tiền gửi tại Việt Nam có xu hướng
tăng trưởng nhanh trong giai đoạn nghiên
cứu từ 2012-2018.
4. Một số khuyến nghị
Hệ thống ngân hàng luôn đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế, và là yếu
tố quyết định thành công hay thất bại của
hệ thống tài chính, thể hiện sức khỏe của
nền kinh tế. Nhiều nghiên cứu đưa ra rằng
các quốc gia có hệ thống ngân hàng vững
mạnh hơn sẽ phát triển hơn các quốc gia
khác. Điều này có thể thấy ngân hàng
đóng góp rất lớn trong việc phát triển quốc
gia nói chung và phát triển tài chính toàn

diện nói riêng. Theo Quyết định 1726/QĐTTg năm 2016 phê duyệt Đề án nâng cao
khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho

nền kinh tế, một số chỉ tiêu đặt ra trong
mối tương quan với thực trạng hiện tại
như sau (Bảng 3).
Từ Bảng 3 có thể nhận thấy khoảng cách
tương đối xa giữa hiện tại và mục tiêu đến
năm 2020 theo Quyết định 1726/QĐ-TTg.
Từ thực trạng như vậy cũng như nhận thức
được sự quan trọng của các ngân hàng
trong việc phát triển tài chính toàn diện,
bài viết đề xuất một số khuyến nghị với
Ngân hàng Nhà nước và các NHTM Việt
Nam như sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh
chóng ban hành chiến lược mang tầm quốc
gia về phát triển tài chính toàn diện. Bên
cạnh đó bản thân các ngân hàng cần tự xây
dựng Chiến lược tài chính toàn diện thông
qua phát triển mô hình kinh doanh với lợi
thế cạnh tranh trên thị trường.
Thứ hai, các ngân hàng cần thiết hợp nhất
chiến lược tài chính toàn diện với chiến lược
kinh doanh của chính ngân hàng. Ngân hàng
cần xem xét tài chính toàn diện như là một
cơ hội kinh doanh lớn và hoàn thiện mô hình
kinh doanh, qua đó cần xác định đối tượng
nào sẽ là đối tượng mục tiêu của ngân hàng
mình, từ đó cung ứng các sản phẩm phù hợp

với đối tượng mục tiêu đó.
Thứ ba, các ngân hàng phải ứng dụng giải

Bảng 3. Một số chỉ tiêu về tài chính toàn diện theo Quyết định 1726/QĐ-TTg
Chỉ tiêu

Mục tiêu đến năm 2020
theo Quyết định 1726/
Thực tế năm
QĐ-TTg
2018

Số máy ATM trên mỗi 100.000 người trưởng thành

khoảng 40

25,41

Số lượng ATM

khoảng 30.000

18.587

Số lượng POS

khoảng 300.000

243.123


Tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản tại ngân hàng 70%

31% (năm 2017)
Nguồn: NHNN, 2019

38

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020


NGUYỄN THÙY DƯƠNG - NGUYỄN THỊ THU TRANG

pháp ngân hàng lõi (core banking solution)
cho tất cả các chi nhánh và thực hiện các
giải pháp tích hợp cho toàn hệ thống ngân
hàng. Việc tích hợp hệ thống trên nền tảng
công nghệ hiện đại như vậy có thể hỗ trợ
cho ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của khách hàng, từ đó gia tăng khả năng
tiếp cận và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Thứ tư, các ngân hàng cần thiết phát triển
sản phẩm cho các khách hàng có thu nhập

thấp và các đối tượng không có khả năng
tiếp cận dịch vụ tài chính như sản phẩm
bảo hiểm, quỹ tương hỗ, tài khoản tiết
kiệm, thấu chi, sản phẩm kiều hối.
Thứ năm, các ngân hàng cần tập trung
nỗ lực thực hiện các chương trình truyền
thông hỗ trợ giúp cho nâng cao hiểu biết

dịch vụ tài chính của ngân hàng tới các đối
tượng khách hàng khác nhau, đặc biệt đối
tượng khác hàng có thu nhập thấp ■

Tài liệu tham khảo
1. Abbey, C. O., E. Odonkor, and D. Boateng (2014), “A Beneficiary Assessment of Ghana’s Cash Transfer Programme
(LEAP) in May 2014”, Accra: African Development Program Ghana.
2. Beck, Thorsten, Demirguc-Kunt, Asli and Maria S. Martinez Peria (2007), “Reaching out: Access to and use of banking
services across countries,” Journal of Financial Economics, Elsevier, Vol. 85, pp. 234-266.
3. Chakravarty, Satya & Pal, Rupayan. (2010), “Measuring Financial Inclusion : An Axiomatic Approach”. Indira Gandhi
Institute of Development Research, Mumbai.
4. European Commission (2008), “Financial services provision and prevention of financial exclusion”.
5. Gortsos (2016), “Financial Inclusion: An overview of its various dimensions and the initiatives to enhance its current level”,
ECEFIL, Working Paper Series No 15.
6. Hannig, A., and S. Jansen (2010), “Financial Inclusion and Financial Stability: Current Policy Issues”,ADBI Working
Paper 259, Tokyo: Asian Development Bank Institute.
7. Hastak, A.C. and Gaikwad, A. (2015), “Issues relating to financial inclusion and banking sector in India”, The Business &
Management Review, pp. 194-200.
8. International Monetary Fund, (2017), “Financial access survey ( FAS)”.
9. Kiatchai Sophastienphong and Anoma Kulathunga, (2009) “Getting Finance in South Asia, (2009): Indicators and Analysis
of the Commercial Banking Sector”, World Bank, Washington DC
10. Khan, H. R. (2011), “Financial Inclusion and Financial Stability: Are They Two Sides of the Same Coin?”, Address by Shri
H. R. Khan, Deputy Governor of the Reserve Bank of India, at BANCON 2011, organized by the Indian Bankers Association and
Indian Overseas Bank, Chennai, India, 4 November.
11. Liên Hiệp quốc (2006) , “Building Inclusive Financial Sectors for Development”, ISBN: 92-1-204251-1
12. Md. Ezazul Islam, Salim Al Mamun (2011), “Financial Inclusion: The Role of Bangladesh Bank”, Research Department
Bangladesh Bank Head Office, DhakaWorking Paper Series: WP1101.
13. Neha Garg (2015), “Role of Banks in Financial Inclusion”, International Journal of Management and Social Sciences
Research (IJMSSR) ISSN: 2319-4421 Volume 4, No. 6, June 2015.
14. Nurkse R (2010),“Financial Inclusion “Wideningthe Bottom of the Pyramid”.

15. Peter J.Morgan Victor Pontines (2014), “Financial Stability andFinancial Inclusion”, Asian Development Bank Institute,
ADBI working paper series.
16. Quyết định 1726/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về “phê duyệt đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng
cho nền kinh tế”, kí ngày 05 tháng 09 năm 2016, hiệu lực ngày 05 tháng 09 năm 2016
17. Raihanath.MP,K.P.Pavithran (2014), “Role Of Commercial Banks InThe Financial Inclusion Programme”,Journal of Business Management & Social Sciences Research (JBM&SSR) ISSN No: 2319-5614 Volume 3, No.5, May 2014.
18. Ravikumar (2012), “Assessing role of banking sector in financial inclusion process in India”.
19. Sarma Mandira (2012), “Index of Financial Inclusion- A measure of financial sector inclusiveness”, Berlin Working Papers
on Money, Finance, Trade and Development, Working Paper No. 07/2012.Tamilarasu (2014), “Role of banking sectors on
financial inclusion development in India- an analysis”, GALAXY International Interdisciplinary Research Journal, Vol.2 (2),pp39-45.
20. United Nations (2006), “Building inclusive financial sectors for development”. New York: The United Nations Department
of Public Information.
21. Viện Chiến lược (2017), “Sơ lược về tài chính toàn diện”.
22. World Bank (2014), “Global Findex Database”.
23. World Bank (2017), “The Global Findex Database Measuring Financial Inclusion and the Fintech Revolution”

Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

39



×