HỘI ĐỒNG KHOA HỌCVIỆN TRƯỞNGCÁC VIỆN PHÓTrung tâm thông tin tư liệu, đào tạo và tư vấn phát triểnTrung tâm nghiên cứu kinh tế miền NamBan nghiên cứu phát triển hạ tầngBan nghiên cứu phát triển vùng:Ban nông nghiệp và nông thônBan công nghiệp, thương mại và dịch vụBan vùng và lãnh thổ
Ban phân tích và
dự báo kinh tế vĩ mô
Ban tổng hợpCÁC BAN NGHIÊN CỨUChiến lược PTKTXHQuy hoạch
Kế
hoạch hàng năm
Kế hoạch 5 nămChương trình dự ánDự ánThị trường
LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam phát động từ
giữa thập kỷ 80 của thế kỷ trước đến nay đã thu được kết quả to lớn và
toàn diện. Nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những bước tiến vững
chắc, nhịp độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt, an ninh xã hội được đảm bảo, tỉ lệ đói nghèo
cũng đã giảm rõ rệt,... Việt Nam đã được thế giới thừa nhận là một
trong những nước đang phát triển và thực hiện xoá đói giảm nghèo có
hiệu quả nhất. Quy mô giáo dục cũng tăng khá nhanh, năm 2000 cả
nước đã hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục Tiểu học và đang
phấn đấu thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục Trung học cơ sở vào năm
2010.
Tuy nhiên, trong quá trình đạt được những thành tựu trên thì
chúng ta còn phải đối mặt với những vấn đề xã hội như: khắc phục sự
phát triển không đều giữa các vùng, giảm dần khoảng cách giữa giàu và
nghèo, giảm tỷ lệ thất nghiệp, chống các tệ nạn xã hội, tăng cường bảo
vệ môi trường sinh thái,... Vì vậy Chất lượng giáo dục- đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực luôn là đề tài muôn thuở của dư luận xã hội cũng
như các phương tiện thông tin đại chúng. Vì: “hiền tài là nguyên khí
quốc gia”, bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển, muốn trở thành cường
quốc đều phải có nguồn nhân lực được đào tạo và đáp ứng được yêu cầu
trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Có thể nói, đầu tư phát triển
ngành giáo dục đào tạo là nhiêm vụ của toàn xã hội. Trong những năm
gần đây, Việt Nam dần hội nhập vào đời sống kinh tế toàn cầu, nhu cầu
về nguồn nhân lực chất lượng cao là rất cấp thiết, trên chặng đường
hoàn thiện đội ngũ nhân lực mới, chúng ta cũng vấp phải không ít
những khó khăn thách thức, và còn nhiều bất cập trong hệ thống giáo
dục, đòi hỏi cần có những biện pháp thiết thực và những hành động
thực tế.
Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển ngành giáo
dục- đào tạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp”. Với mục đích nghiên cứu
thực trạng, cơ cấu, và hiệu quả đầu tư phát triển ngành giáo dục- đào
tạo Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu
quả đầu tư đồng thời có những biện pháp huy động vốn đầu tư phát
triển ngành giáo dục đào tạo, làm tiền đề cho công cuộc cải tiến chất
lượng giáo dục, tạo ra một đội ngũ nhân lực mới góp phần phát triển
kinh tế- xã hội đất nước trong điều kiện hội nhập.
Chuyên đề thực tập gồm 3 phần:
Chương 1: Giới thiệu về Viện chiến lược phát triển
Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển ngành Giáo dục- Đào tạo
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tăng cường đầu tư phát triển ngành Giáo
dục- Đào tạo Việt Nam
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chuyên đề của tôi cũng không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong sự chỉ bảo của thầy giáo cùng Ban lãnh
đạo của Viện chiến lược phát triển. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ tận tình của TS. Nguyễn Hồng Minh và Ban lãnh đạo Viện đã giúp
đỡ tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này!
2
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VIỆN CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN
I. KHÁI QUÁT VỀ VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN.
1. Thông tin chung và lịch sử hình thành Viện chiến lược phát triển.
1.1. Thông tin chung
Tên tổ chức: VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
THUỘC BỘ KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ
Tên tiếng Anh: DEVELOPMENT STRATEGY INSTITUTE
OF MINISTRY OF PLANNING AND INVESTMENT
Tên viết tắt: DSJ
Trụ sở: Viện chiến lược phát triển tầng 5 và 6 toà nhà Bộ Kế
hoạch và Đầu tư 65 Văn Miếu, Đống Đa, Hà Nội.
Tel: 04.844.8431848
Fax: 844-8452209
1.2. Lịch sử hình thành
Viện chiến lược phát triển ngày nay được thành lập trên cơ sở tiền
thân hai Vụ của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
đó là Vụ Tổng hợp kế hoạch Kinh tế Quốc dân dài hạn và Vụ kế hoạch phân
vùng kinh tế. Hai Vụ này được thành lập theo Quyết định số 47- CP ngày
09/03/1964 của Hội đồng chính phủ. Quá trình hình thành và phát triển hai
Vụ nêu trên thành Viện chiến lược phát triển thể hiện như sau:
- Năm 1974: Thành lập Viện phân vùng và quy hoạch.
- Năm 1983: Thành lập Viện nghiên cứu kế hoạch dài hạn
- Năm 1986: Đổi tên Viện phân vùng và quy hoạch thành Viện Phân bố
lực lượng sản xuất.
- Năm 1988: Sáp nhập Viện nghiên cứu kế hoạch dài hạn và Viện phân
bố lực lượng sản xuất thành Viện Kế hoạch dài hạn và Phân bố lực
lượng sản xuất thuộc Uỷ ban kế hoạch Nhà nước.
- Năm 1994: Đổi tên Viện Kế hoạch dài hạn và Phân bố lực lượng sản
xuất thành Viện chiến lược phát triển (có vị trí tương đương tổng cục
loại I).
2. Chức năng nhiệm vụ của Viện chiến lược phát triển.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Chủ nhiệm Uỷ ban phân vùng
kinh tế Trung ương trước đây và của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiện
nay, cùng với sự phấn đấu liên tục của nhiều thế hệ lãnh đạo, cán bộ nghiên
cứu khoa học và nhân viên phục vụ, Viện chiến lược phát triển đã hoàn
thành tốt các nhiệm vụ được giao với chức năng và nhiệm vụ chủ yếu sau:
Viện có chức năng nghiên cứu khoa học và tổng hợp, tham mưu về
lĩnh vực chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước và các
vùng lãnh thổ, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5
năm và hàng năm.
Tổ chức nghiên cứu và soạn thảo chiến lược, quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước, quy hoạch đầu tư, quy hoạch phát triển
các vùng. Tham gia xây dựng quy hoạch các ngành, tỉnh, thành phố, các
chương trình phát triển, các dự án lớn của Nhà nước và thẩm định các quy
hoạch, dự án; tham gia xây dựng định hướng kế hoạch 5 năm. Nghiên cứu
lập báo cáo Tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất của Việt Nam, tổng hợp
4
phân tích đánh giá hiện trạng tài nguyên thiên nhiên, dân số, lao động, cơ
cấu kinh tế.... Đồng thời Viện cũng tổ chức nhiều cuộc sinh hoạt khoa học về
các lĩnh vực kinh tế- xã hội với sự tham gia của nhiều chuyên gia trong và
ngoài nước, cử nhiều lượt cán bộ tham gia giảng dạy, báo cáo khoa học tại
tại các trường đại học, các Viện nghiên cứu, các cơ quan Trung ương và địa
phương để thông tin và trao đổi các kết quả nghiên cứu đã đạt được.
Trực tiếp chủ trì một số dự án quy hoạch và dự án hợp tác quốc tế phù
hợp với chức năng của Viện. Tổ chức việc phân tích và nghiên cứu dự báo
phát triển kinh tế- xã hội trong nước và quốc tế phục vụ cho nghiên cứu và
quản lý kinh tế. Nghiên cứu lý luận và phương pháp luận và phương pháp
xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ phù hợp
với chức năng của Viện, nổi bật là:
- Chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước 70A, nghiên cứu
cơ sở khoa học của định hướng phát triển công nghiệp, nông nghiệp, giao
thông, đô thị, dân số, lao động, việc làm và phân bố dân cư, phát triển vùng.
- Tham gia soạn thảo Văn kiện các Đại hội của Đảng và một số hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng.
- Nghiên cứu xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và
tham gia triển khai thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu chiến lược này.
- Chủ trì phối hợp cùng các đơn vị trong Bộ Kế hoạch và Đầu tư và
với các nghành Trung ương triển khai lập dự án quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế- xã hội đến năm 2010 cho 8 vùng kinh tế lớn, 3 vùng kinh tế
trọng điểm, quy hoạch kinh tế biển. Chủ trì xây dựng quy hoạch phát triển
công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1996- 2010, quy hoạch các khu công
nghiệp, đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực nghiên cứu chiến lược, chính sách. quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu chiến lược, chính sách ,
quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Chủ trì tổ chức nghiên cứu chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội của Lào và Campuchia thời kỳ 1991-2000. Giúp
Uỷ ban kế hoạch Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào xây dựng quy
hoạch tỉnh Khăm Muội, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước Lào
đên năm 2020, và xây dựng chiến lược hợp tác giữa hai nước Việt Nam- Lào
đến năm 2010. Để đáp ứng các nhiệm vụ được giao trong giai đoạn phát
triển mới và nhằm học tập kinh nghiệm của các nước về nghiên cứu chiến
lược và quy hoạch phát triển, Viện chiến lược phát triển đã mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế với nhiều cơ quan và Viện nghiên cứu của các nước ASEAN,
Đông Bắc Á, châu Âu, Bắc Mỹ, Liên Hợp Quốc và nhiều tổ chức quốc tế
khác. Viện đã chủ trì tổ chức thực hiện 14 dự án nghiên cứu do nước ngoài
tài trợ.
6
3. Cơ cấu tổ chức của Viện Chiến lược phát triển.
Bảng 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của viện chiến lược phát triểnB
Tæ chøc, tiÒm lùc
Viện có hội đồng khoa học và 10 ban nghiên cứu: Văn phòng viện; tổng hợp; dự báo; ban nghiên cứu và phát
triển các ngành sản xuất; ban nghiên cứu và phát triển các ngành dịch vụ; nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực
và các vấn đề xã hội; nghiên cứu phát triển vùng; nghiên cứu phát triển hạ tầng; trung tâm nghiên cứu kinh tế miền
Nam; trung tâm thông tin, tư liệu, đào tạo và tư vấn phát triển.
Hiện nay Viện có 02 phó giáo sư,25 tiến sỹ, 10 thạc sỹ và 60 cử nhân.
Nhiệm vụ chủ yếu của các Ban và văn phòng viện như sau:
Hội đồng khoa học:
Hội đồng khoa học là tổ chức tư vấn giúp Viện trưởng xây dựng các chương trình khoa học, tổ chức công tác
nghiên cứu khoa học và đánh giá kết quả nghiên cưú khoa học của Viện.
Ban Tổng hợp:
Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng các báo cáo về chiến lược, quy hoạch phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước. Nghiên cứu dự báo kinh tế.
Văn phòng Viện:
Đảm bảo các điều kiện vất chất và tài chính cho Viện hoạt động. Thực hiện các công tác hành chính văn thư,
lưu trữ , tổ chức cán bộ và đào tạo. Xử lý thông tin đầu vào, đầu ra và quản lý tư liệu chung của Viện. Theo dõi,
quản lý hoạt động khoa học và các hoạt động hợp tác quốc tế.
Ban dự báo:
Phân tích tổng hợp, dự báo về biến động kinh tế, công nghệ, môi trường, liên kết quốc tế của thế giới và các
biến động kinh tế- xã hội, trong nước phục vụ nghiên cứu chiến lược, quy hoạch. Dự báo các khả năng phát triển,
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của nền kinh tế Việt Nam.
Ban nghiên cứu phát triển các nghành sản xuất:
Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các nghành công
nghiệp, xây dựng và nông, lâm, ngư nghiệp trên phạm vi cả nước và các vùng lãnh thổ. Đầu mối tổng hợp, tham
mưu những vấn đề liên quan về quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch các nghành sản xuất.
Ban nghiên cứu phát triển các ngành dịch vụ.
Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành dịch
vụ của cả nước và trên các vùng lãnh thổ. Đầu mối tổng hợp, tham mưu về các vấn đề liên quan về quản lý Nhà
nước đối với công tác quy hoạch các ngành dịch vụ.
Ban nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội.
Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển con người,
nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội trên phạm vi cả nước và trên các vùng lãnh thổ; xây dựng các giải pháp đảm
bảo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển con người, nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội. Đầu mối tổng hợp,
tham mưu các vấn đề liên quan về quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch phát triển con người, nguồn nhân
lực và các vấn đề xã hội.
Ban nghiên cứu phát triển vùng:
Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng các đề án chiến lược, quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế- xã hội, quy hoạch sử dụng đất các vùng lãnh thổ (trong đó có các vùng kinh tế- xã hội, các vùng kinh
tế trọng điểm, các vùng khó khăn, vùng ven biển và hải đảo). Đầu mối tổng hợp, tham mưu các vấn đề liên quan về
quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch vùng, lãnh thổ, tỉnh.
Ban nghiên cứu phát triển hạ tầng:
Nghiên cứu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển hạ tầng của cả
nước và trên các vùng lãnh thổ. Đầu mối tham mưu các vấn đề quản lý Nhà nước liên quan đến lĩnh vực hạ tầng.
Tham gia thẩm định quy hoạch các ngành liên quan.
Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam:
Đầu mối nghiên cứu và đề xuất về chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội vùng ở Nam Bộ;
tổ chức hoạt động tư vấn về lĩnh vực chiến lược và quy hoạch phát triển cho các tỉnh ở Nam Bộ. Theo dõi việc thực
hiện quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội các tỉnh và vùng ở Nam Bộ.
Trung tâm thông tin tư liệu, đào tạo và tư vấn phát triển:
Thu thập, phân tích, xử lý, lưu trữ thông tin, kết quả nghiên cứu của các ban nghiên cứu của Viện, và các kết
quả nghiên cứu khoa học có liên quan của các tổ chức bên ngoài. Tổ chức đào tạo cán bộ nghiên cứu chiến lược và
quy hoạch, tư vấn trong công tác lập chiến lược và quy hoạch trong chương trình hợp tác quốc tế với Lào và
Campuchia.
II. NHỮNG KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA VIỆN CHIẾN LƯỢC TRONG THỜI GIAN
QUA
1.Các thành tựu đạt được
1.1.Giai đoạn 1964- 1988
a)Về mặt nghiên cứu phân vùng kinh tế, phân bố lực lượng sản xuất.
- 1964- 1975: Trong tình hình đất nước bị chia cắt, có chiến tranh, nhiệm vụ kinh tế lớn lúc này là tiến hành
cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới, từng bước xây dựng cơ sở vật chất của chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm hậu phương lớn chi viện kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam. Viện cùng
với các nghành, các Viện và một số trường đại học, được chuyên gia Liên Xô hướng dẫn triển khai giới thiệu về
phân vùng kinh tế, miền Bắc được chia thành 4 vùng nông nghiệp lớn gồm 46 tiểu vùng, năm 1969 đã trình
Thường vụ Chính phủ xem xét kết quả nghiên cứu này. Các dự án phân vùng kinh tế kể trên là bước thử nghiệm
đầu tiên nhằm đưa ra một sơ đồ tổ chức sản xuất trên lãnh thổ ở phạm vi một số nghành kinh tế chủ yếu. Đồng thời
tích luỹ một số kinh nghiệm ban đầu về công tác điều tra cơ bản, phân vùng quy hoạch, đào tạo được một lớp cán
bộ đầu tiên về công tác nay ở Trung ương và địa phương.
- Năm 1970 bắt đầu triển khai quy hoạch phát triển kinh tế ở 30 huyện. Việc làm quy hoạch các vùng nhỏ,
các huyện điểm đã phục vụ việc lập kế hoạch kinh tế quốc dân và kế hoạch nhành ở Trung ương và địa phương.
Việc tiến hành quy hoạch các huyện điểm và các vùng kinh tế mới để làm cơ sở cho việc tổ chức lại sản xuất ở đơn
vị cơ sở đã cho chúng ta một số kinh nghiệm bước đầu để sau này thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về
xây dựng huyện.
- Năm 1976 triển khai công tác phân vùng quy hoạch kinh tế trên phạm vi cả nước, theo một quan điểm tổng
hợp chung- kết hợp ngành và lãnh thổ, đã có những tiến bộ mới trong công tác phân vùng quy hoạch., đánh dấu
bằng việc hoàn thành xây dựng một số dự án phân vùng nông, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến và dự án phân
bố một số ngành công nghiệp.
- Đi đôi với phân vùng nông, lâm nghiệp, công tác phân bố công nghiệp cũng được triển khai đồng đều hơn
và có thêm nhiều tiến bộ về mặt nhận thức cũng như cách làm. Từ chỗ chủ yếu tìm địa điểm cho từng nhà máy,
công trình riêng lẻ, đã bắt đầu nghiên cứu bố trí một hệ thống các nhà máy có tính chất liên ngành thành các khu,
cụm công nghiệp. Nhiều ngành công nghiệp đã nghiên cứu quy hoạch như các ngành điện, than, cơ khí, luyện kim,
hoá chất, giao thông vận tải, vật liệu xây dựng... Quy hoạch các thành phố cũng được triển khai nghiên cứu song
song với việc bố trí công nghiệp. Nhìn chung quy hoạch ngành đã có tác dụng nhất định phục vụ cho công tác kế
hoạch hoá của ngành. Các phương án quy hoạch đã đề cập một cách tổng hợp các yếu tố kinh tế, kỹ thuật của
ngành, đã đi vào nghiên cứu các khu cụm công nghiệp theo quan điểm tổng hợp. Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc
phòng cũng được coi trọng trong quá trình nghiên cứu bố trí công nghiệp.
- 1978-1988: Xây dựng “Tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất trên phạm vi cả nước thời kỳ 1986- 2000”.
Lần đầu tiên ở Việt Nam, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước chủ trì triển khai nghiên cứu quy hoạch một cách hệ thống,
toàn diện từ Trung ương đến địa phương. Tất cả các ngành, các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã xây
dựng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất giai đoạn 1986- 2000.
Về mặt tổ chức cán bộ, đã xây dựng được một hệ thống từ Trung ương đến địa phương chuyên nghiên cứu
về phân vùng quy hoạch..
b) Về mặt nghiên cứu kế hoạch dài hạn
- Năm 1964: Ngay sau khi thành lập Vụ tổng hợp kế hoạch kinh tế quốc dân dài hạn, đã triển khai mạnh mẽ
công tác điều tra cơ bản, dự báo dân số và nguồn lao động, xây dựng cơ bản trọng điểm. Triển khai hàng loạt
nghiên cứu về triển vọng dài hạn và khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh.
- Năm 1976- 1982: Trên cơ sở tiến hành các điều tra cơ bản, dự báo các nguồn lực và nghiên cứu quy hoạch
phát triển các nghành, vùng kinh tế, đã chủ trì tổ chức xây dựng kế hoạch 5 năm 1976- 1980, phục vụ quá trình
khôi phục và phát triển đất nước trong điều kiện cả nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội, đã được Chính phủ
trình lên đại hội lần thứ IV của Đảng. Tiếp theo đó chủ trì xây dựng kế hoach 5 năm 1981- 1985, được trình lên Đại
hội lần thứ V của Đảng.
- Năm 1983- 1988: Viện nghiên cứu kế hoạch dài hạn đã triển khai hàng loạt các nghiên cứu đánh giá các
nguồn lực phát triển.
1.2. Giai đoạn 1988 đến nay.
Do yêu cầu cải tiến bộ máy của Chính phủ và thực tế đòi hỏi kết hợp việc nghiên cứu kế hoạch dài hạn với
nghiên cứu phân bố lực lượng sản xuất nên hai nhiệm vụ này đã được thu về một mối do một Viện đảm nhận- đó là
Viện Kế hoạch dài hạn và Phân bố lực lượng sản xuất thuộc Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, nay là Viện Chiến lược
phát triển thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trong thời gian này, tập trung nghiên cứu để đáp ứng việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội dài hạn
trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết của
Nhà nước. Đồng thời Viện cũng tổ chức nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1991- 2000. Viện
đã có những đóng góp tích cực đối với việc xây dựng chiến luợc và cũng nhận được nhiều bài học bổ ích: Quan
niệm về chiến lược, nội dung và phương pháp xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Viện cũng tham gia
soạn thảo các văn kiện của các Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và một số Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng.
Triển khai nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội cả theo chiều rộng và chiều sâu trên phạm vi cả
nước, công tác quy hoạch được tiến hành tương đối bài bản.
- Đối với nông nghiệp: Viện đã tham gia cùng Bộ chuyên ngành nghiên cứu: Chiến lược phát triển nông
nghiệp đến năm 2000; “Định hướng và quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghịêp, nông thôn Việt Nam
đến năm 2000”, trên cơ sở chiến lược nông nghiệp, đã nghiên cứu quy hoạch về một số chuyên ngành lớn như
Tổng quan về sản xuất lương thực, thực phẩm, cao su, chè, cà phê, dâu tằm, mía đường, cây ăn quả và chăn nuôi...
và phục vụ việc xây dựng kế hoạch 5 năm (1996-2000).
- Đối với lâm nghiệp : Viện tham gia xây dựng báo cáo tổng quan phát triển lâm nghiệp và chương trình
trồng 5ha rừng đến năm 2010.
- Đối với thuỷ sản: Tham gia cùng Bộ thuỷ sản xây dựng chiến lược phát triển ngành thuỷ sản thời kỳ 1996-
2010 và chiến lược xuất khẩu thuỷ sản thời kỳ 1996-2000 và đến năm 2010.
- Đối với công nghiệp và kết cấu hạ tầng: Viện đã tham gia cùng Bộ Công nghiệp xây dựng quy hoạch 9
ngành sản phẩm đến năm 2000 và 2010. Đồng thời đã chủ trì xây dựng quy hoạch phát triển công nghiệp và kết
cấu hạ tầng của cả nước thời kỳ 1996- 2010 và quy hoạch này đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt (năm 1996).
Các dự án quy hoạch công nghiệp đã làm rõ được tiềm năng, thế mạnh, khó khăn và phương hướng phát triển và đề
xuất trọng điểm ưu tiên đầu tư...; đã đưa ra được những định hướng chung cho phát triển và kết cấu hạ tầng, là cơ
sở cho việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội nói chung và quy hoạch chi tiết cho các ngành,
các địa phương, tạo thêm căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch 5 năm.
- Về dân số, lao động và xã hội: Viện đã phối hợp cùng với các ngành chức năng triển khai nghiên cứu dự
báo dân số - lao động trong cả nước, các vùng, các tỉnh, định hướng chung cho phát triển các nguồn nhân lực, giải
quyết việc làm, xoá đói gảim nghèo, công bằng xã hội,...tạo cơ sở cho việc xây dựng các chương trình mục tiêu
quốc gia, quy hoạch tổng thể phát triển các kinh tế xã hội các vùng, các tỉnh.
- Phối hợp cùng với các đơn vị trong Bộ Kế hoạch và Đầu tư và vơí cá ngành Trung ương triển khai lập dự
án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2010 cho 8 vùng kinh tế lớn, 3 vùng kinh tế trọng điểm,
quy hoạch kinh tế biển, và hướng dẫn, hỗ trợ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai xây dựng dự án
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hộicủa các địa phương, phục vụ Đại hội Đảng bộ các tỉnh kỳ Đại hội VIII.
Cùng với quá trình hình thành và phát triển, thành quả công tác của Viện ngày càng được nâng cao và đem
lại tác dụng ngày một tốt hơn. Hiện nay Viện đang tiếp tục được tăng cường về chức năng và tổ chức- cán bộ để có
thể làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình, đóng góp tích cựu và có hiệu quả hơn vào công tác xây dựng chiến lược và
công tác quy hoạch phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
2. Vai trò của Viện chiến lược trong hoạt động đầu tư nói chung.
Trước hết ta cần hiểu thế nào là chiến lược và quy hoạch:
Chiến lược được hiểu là hướng và cách giải quyết nhiệm vụ đặt ra mang tính toàn cục, tổng thể và trong một
thời gian dài, thường là 10 năm đến 20 năm.
Đặc trưng của chiến lược là: Thứ nhất, phải đưa ra một tầm nhìn dài hạn từ 10 năm trở lên để làm cơ sở cho
công tác hoạch định. Thứ hai, chiến lược phải mang tính khách quan, khoa học chứ không thể chỉ dựa vào mong
muốn chủ quan của người lập.
Quy hoạch là cụ thể hoá chiến lược về không gian và thời gian. Nó là bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế- xã
hội.
Các cấp của quy hoạch: quy hoạch vùng là cấp cao nhất, tiếp đến là quy hoạch phát triển nghành và cuối
cùng là quy hoạch sử dụng không gian
(Gồm cả quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị).
Ta có sơ đồ các loại hình kế hoạch sau:
Sơ đồ2: Mối quan hệ giữa các loại hình kế hoạch.
Viện chiến lược phát triển là cơ quan trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nhiệm vụ chủ yếu của Viện là
nghiên cứu khoa học và tổng hợp, tổ chức xây dựng và tham mưu về lĩnh vực chiến lược và quy hoạch phát triển
kinh tế- xã hội cả nước và các vùng lãnh thổ. Trong hoạt động quản lý đầu tư của Nhà nước ở tầm vĩ mô, công tác
lập chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kế hoạch hoá hoạt
động đầu tư. Nó đi trước một bước, làm tiền đề để công tác kế hoạch hoá hoạt động đầu tư có định hướng, mục tiêu
rõ ràng, phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội đã được duyệt. Đồng thời cũng hỗ trợ cho
việc đề xuất các giải pháp tốt nhất để đạt được mục tiêu đó với hiệu quả cao nhất. Là công cụ đắc lực để Nhà nước
quản lý hoạt động đầu tư ở tầm vĩ mô.
Đối với nền kinh tế cũng như hoạt động đầu tư, công tác kế hoạch hoá là hết sức cần thiết. Lập kế hoạch là
quyết định trước xem trong tương lai phải làm gì và làm như thế nào, làm bằng công cụ gì, khi nào làm và ai làm?
Mặc dù chúng ta ít khi tiên đoán chính xác được tương lai và những yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát có thể phá vỡ
những kế hoạch tốt nhất. Nhưng nếu như không có kế hoạch, các sự kiện sẽ diễn ra một các ngẫu nhiên và chúng ta
sẽ mất đi khả năng hành động một cách chủ động.
Viện có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng, đề xuất, phối hợp cùng các ban nghành khác trong lập chiến lược,
quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội,tham gia góp ý kiến trong xây dựng kế hoạch 5 năm để trình Quốc hội và Thủ
tướng Chính phủ thông qua. Đây là cơ sở để xây dựng các chương trình dự án lớn, có ý nghĩa quyết định đối với
phát triển kinh tế- xã hội của cả nước. Bên cạnh đó, các dự án lớn phải được hình thành từ kế hoạch 5 năm, các dự
án nhỏ được hình thành từ chương trình dự án. Tất cả các dự án được xây dựng phải dựa vào quy hoạch, không
được trái với quy hoạch. Kế hoạch hàng năm hình thành từ kế hoạch 5 năm và nó có nhiệm vụ phân bổ nguồn lực
cho các chương trình và cho các dự án.
Những đóng góp trong nghiên cứu của Viện đối với hoạt động đầu tư từ năm 1988 đến nay:
Viện đã gặt hái được một số thành công nhất định trong nghiên cứu xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế- xã
hội trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý và
điều tiết của Nhà nước. Bên cạnh đó Viện cũng nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 1991-
2000. Triển khai nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả theo chiều rộng và chiều sâu. Đây là cơ sở,
định hướng cho các dự án đầu tư tuân theo chiến lược quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, đầu tư có trọng điểm,
tránh tình trạng đầu tư dàn trải, gây lãng phí nguồn lực quốc gia. Bên cạnh đó, Viện còn phối hợp với các Bộ
chuyên ngành trong nghiên cứu chiến lược phát triển các ngành kinh tế như: Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản,
công nghiệp và kết cấu hạ tầng, dịch vụ. Góp phần nâng cao định hướng cho các dự án đầu tư của từng ngành kinh
tế. Qua việc tạo cơ sở tốt cho việc xây dựng các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội nói chung và quy
hoạch chi tiết cho các ngành, các địa phương, tạo thêm căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch 5 năm.
Viện cũng đã phối hợp cùng các ngành chức năng triển khai nhiều dự án quy hoạch phát triển phát triển kết
cấu hạ tầng trong các năm 1994, 1995 và năm 1996. Trong đó nổi bật là các nghành: giao thông vận tải, bưu chính
viễn thông, điện, cấp nước đô thị và hạ tầng đô thị, trong đó có xác định danh mục các dự án đầu tư trong 5 năm,
và quy hoạch phát triển khu công nghiệp.
Danh sách các dự án trình Bộ và Chính phủ:
- Chủ trì xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1996- 2010
(năm 1996).
- Chủ trì nghiên cứu quy hoạch kinh tế biển (1996- 1997).
- Chủ trì nghiên cứu quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (1996-
1997).
- Tham gia xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam ( chủ
yếu là công nghiệp, kết cấu hạ tầng và đô thị) (năm 1996).
- Làm đầu mối giúp Bộ tổ chức nghiên cứu chiến lược và định hướng quy hoạch phát triển nghành công
nghiệp điện tử và công nghệ thông tin đến năm 2010 (năm 1997)
- Tham gia chuẩn bị báo cáo về các công trình trọng điểm trình Quốc hội (năm 1997).
- Tham gia chuẩn bị báo cáo về đề án điều chỉnh cơ cấu đầu tư (năm 1997)
- Xây dựng bước đầu định hướng phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam đến năm 2020 (năm 1996) để báo
cáo Bộ, cố vấn Đỗ Mười và tiểu ban chuinr bị văn kiện đại hội IX của Đảng.
- Tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước đến năm 2010 (đang tiến hành).
3. Những mặt cần tiếp tục hoàn thiện.
Bên cạnh những mặt tích cực trong lĩnh vực chiến lược quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế- xã hội nói
chung và những đóng góp tích cực đối với hoạt động đầu tư và quản lý đầu tư trên cả nước nói riêng, vẫn còn một
số hạn chế cần được quan tâm đó là:
- Chất lượng công tác quy hoạch chưa cao, phản ánh rõ nét là sự mất cân đối giữa nhu cầu phát triển và khả
năng phát triển.
- Tình trạng quy hoạch treo còn diễn ra tương đối phổ biến, dẫn đến ra quyết định đầu tư sai lầm hay đầu tư
dàn trải, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Công tác quy hoạch đôi khi chưa đi trước một bước để làm cơ sở cho hoạt
động đầu tư, dẫn tới đầu tư không mang lại hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư.
- Vấn đề thị trường chưa được nghiên cứu đầy đủ trong công tác quy hoạch, các địa phương chưa được tiếp
cận đầy đủ, thống nhất phương pháp và cách tính các chỉ tiêu.
- Cơ sở vật chất, hạ tầng của Viện vẫn còn nhiều hạn chế, gây trở ngại trong công tác nghiên cứu và dự báo.
Đặc biệt, chất lượng của công tác dự báo chưa cao, chưa có sự độc lập trong công tác dự báo với các cơ quan khác.
4. Hướng hoạt động chính.
Trong thời gian tới Viện chiến lược tiếp tục duy trì và tập trung vào những hoạt động sau:
- Duy trì các mối quan hệ đã được thiết lập trong thời gian qua.
- Mở rộng các mối liên kết với các Viện chiến lược phát triển có cùng chức năng trong nước cũng như trên
thế giới
- Tăng cường trao đổi hợp tác giữa các bộ phận, Ban trong Viện với nhau.
- Hợp tác quốc tế để trao đổi kinh nghiệm thông qua các dự án, trao đổi các bộ, hỗ trợ đào tạo.
- Tăng cường tổ chức các buổi hội thảo giữa các Bộ, Ngành trong cả nước để đưa ra các biện pháp giải quyết
các vấn đề có tính chất tổng hợp.
- Xây dựng hệ thống dữ liệu được cập nhật thường xuyên phục vụ cho công tác dự báo.
- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong tất cả các quá trình xử lý, phân tích thông tin.
III. KHÁI QUÁT VỀ BAN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH DỊCH VỤ
1.Chức năng nhiệm vụ
- Nghiên cứu tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành dịch
vụ của cả nước và trên các vùng lãnh thổ.
- Làm đầu mối tổng hợp, tham mưu các vấn đề liên quan về quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch
các ngành dịch vụ trên cả nước. Tham gia thẩm định các dự án quy hoạch các ngành dịch vụ.
- Tham gia đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm của các ngành dịch vụ.
- Nghiên cứu lý luận, phương pháp luận và phương pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các
ngành dịch vụ.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Viện trưởng giao.
2. Cơ cấu tổ chức
* Lãnh đạo ban.
- Trưởng ban: Chỉ đạo chung, nghiên cứu lý luận, phương pháp luận xây dựng chiến lược và quy hoạch phát
triển các ngành dịch vụ.
* Nhóm nghiên cứu:
- Nghiên cứu phục vụ xây dựng chiến lược phát triển các ngành dịch vụ
- Nghiên cứu phục vụ xây dựng quy hoạch phát triển các ngành dịch vụ của các vùng kinh tế, tham mưu tư
vấn xây dựng quy hoạch phát triển các ngành dịch vụ cho các tỉnh thành trong cả nước.
Các lĩnh vực dịch vụ Ban phụ trách nghiên cứu:
+ Khoa học công nghệ
+ Giáo dục
+ Giao thông vận tải
+ Bưu chính viễn thông
+ Thương mại
+ Tài chính ngân hàng
+ Du lịch
+ Và một số ngành dịch vụ khác
Trong các ngành dịch vụ mà ban nghiên cứu phát triển các ngành dịch vụ phụ trách nghiên cứu thì giáo dục-
đào tạo là một trong những ngành dịch vụ quan trọng, then chốt đối với sự phát triển của một Quốc gia. Giáo dục-
đào tạo vừa là động lực thúc đẩy vừa là một điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội,
xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính vì giáo dục đào tạo có một tầm quan trọng như vậy nên đầu tư phát triển giáo
dục đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH
GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VIỆT NAM.
1.Những thành tựu đạt được.
1.1. Về quy mô.
Cho đến nay, hệ thống giáo dục mới ở Việt Nam từ mầm non đến đại học về cơ bản được xác lập, mạng lưới
trường học phát triển rộng khắp từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi; đã xây dựng được hệ
thống các trường dân tộc nội trú với điều kiện tương đối tốt để đào tạo con em các dân tộc ít người. Hệ thống các
trường ngoài công lập được hình thành đã góp phần đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân.
Tính đến 12/2006 cả nước đã có 36 tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục tiểu học, 32 tỉnh thành phố đạt phổ
cập giáo dục THCS, số giáo viên bình quân tính trên một lớp đảm bảo đủ theo quy định (Đến năm 2006, đội ngũ
nhà giáo Việt Nam gồm nhà giáo trực tiếp giảng dạy và nhà giáo làm công tác quản lý giáo dục đã lên đến gần
980.000 người, trong đó GV phổ thông: 770.000 người, GV mầm non: 160.000 người, Giảng viên ĐH có gần: