Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luân Cao cấp chính trị Sự cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.61 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU

Để có một xã hội như ngày nay không phải do tự nhiên mà có, là do quá trình
tính luỹ về lượng ngay từ khi loài người xuất hiện thì sản xuất thô sơ, đời sống
không ổn định, cơ sở vật chất hầu như không có gì nhưng trải qua sự nỗ lực của con
người tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó thông qua lao động, trải qua nhiều
thăng trầm của lịch sử giờ đây con người đã tạo ra được những thành công đáng kể.
Thành tựu đạt được là do quy luật phát triển do tự thân vận động của con người
trong toàn xã hội. Ngày nay công cuộc xây dựng các nước đã cố gắng rất nhiều trong
cuộc cạnh tranh chạy đua về kinh tế. Thể hiện là các chính sách, đường lối về phát
triển kinh tế ngày một toàn diện hơn, về các mặt quan hệ sản xuất, lực lượng sản
xuất, nền văn hoá và con người của xã hội đó. Công nghiệp hoá chính là con đường
và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại cũng là một
quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước, tuy nhiên tuỳ từng nước khác nhau,
do điểm xuất phát tiến lên khác nhau, mục tiêu phát triển không giống nhau nên cách
thức tiến hành cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại không giống
nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta hiện nay (nền
sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu...) công nghiệp hoá là quá trình mang tính
quy luật, tất yếu để tồn tại và phát triển nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền
sản xuất lớn hiện đại.
Trong sự nghiệp đổi mới, khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng
ta thấy cần và có thể rút ngắn thời gian bằng những bước nhảy vọt xen lẫn những
bước tuần tự. Đảng ta đã đề ra chủ trương: tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn,
ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,
từng bước phát triển kinh tế tri thức.

1


Sau hơn 30 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy


"từng bước phát triển" nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như công nghệ
thông tin, Internet, điện thoại di động... trong giai đoạn này đã phát triển khá nhanh.
Do đó, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi
bước đầu về phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta đã đề ra đường lối: "Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức" là một xu thế tất yếu.
Từ Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta xác định thực chất
của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là ''Quyết tâm thực hiện cách mạng kỹ thuật,
thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích lũy xã hội chủ nghĩa để
không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng''. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ
Đại hội Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
Công nghiệp hóa là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta,
từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết
phải trải qua công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa giúp phát triển lực
lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động.
Đây là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò của
kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị trường. Đồng thời, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện tăng
cường củng cố quốc phòng - an ninh và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế
độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác
quốc tế.
Có tiến hành công nghiệp hoá chúng ta mới: Xây dựng được cơ sở vật chấtkỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta; tiến hành tái sản xuất mở rộng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, mới tích luỹ về lượng mới để xây dựng
thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; Mới tăng cường phát triển lực lượng
giai cấp công nhân; Mới củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
2


toàn xã hội; Mới góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng con
người mới ở Việt Nam.

Như vậy công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật cuả các nước đi từ
một nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức
là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một lịch sử tất yếu để thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của mỗi Quốc gia, dân tộc.
Em xin chọn vấn đề: “Sự cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và viết bài thu hoạch.

3


NỘI DUNG
Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận điểm
quan trọng về phát triển kinh tế tri thức ''Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những
ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ
tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn
với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm
lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, từng bước phát triển
kinh tế tri thức ở nước ta''. Tới Đại hội X, việc phát triển kinh tế tri thức được thể
hiện rõ với tư cách là một yếu tố cấu thành đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước: ''Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi
thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức
là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển
mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức;
kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của
nhân loại”. Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền
vững, Đảng ta tiếp tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động
lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức,

góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
1. Một số quan niệm
Để làm rõ vấn đề trước tiên phải hiểu thế nào là công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và kinh tế trí thức:
- Công nghiệp hóa: Là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc, quá trình chuyển nền kinh tế từ nông nghiệp là chủ yếu lên công
nghiệp, biến một nước nông nghiệp truyền thống thành một nước công nghiệp.
4


Công nghiệp hóa còn được hiểu là quá trình nâng cao tỷ trọng của công
nghiệp trong toàn bộ các ngành, kinh tế của một vùng hay một nền kinh tế, quá trình
chuyển nền kinh tế dựa chủ yếu vào nông nghiệp lên nền kinh tế dựa chủ yếu vào
công nghiệp.
- Hiện đại hóa: Theo ý nghĩa về kinh tế - xã hội, hiện đại hóa là quá trình
chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho
nền kinh tế và đời sống xã hội mang tính chất và trình độ của xã hội ngày nay.
- Công nghiệp hóa - hiện đại hóa: Là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ,
phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
- Kinh tế trí thức: Là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển, tạo ra của cải, nâng cao
chất lượng cuộc sống.
2. Sự cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là
sự lựa chọn tối ưu để rút ngắn khoảng cách tụt hậu: Do là nước đi sau, nên tất yếu

Việt Nam phải lựa chọn con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn. Trong
bối cảnh hiện nay, con đường đó phải là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức. Để thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh
và bền vững phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vì
kinh tế tri thức đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại ngày nay.
Trong nền kinh tế tri thức, việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức giữ vai
trò quyết định đối với phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc
sống. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức là kết quả tất yếu của quá trình
5


phát triển lực lượng sản xuất xã hội, nó được thúc đẩy bởi sự phát triển mạnh mẽ của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là sự phát triển nhanh mang tính
đột phá của công nghệ thông tin.
- Đặc điểm của nền kinh tế tri thức:
+ Tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp: Trong nền kinh tế ngày nay, tri thức
không chỉ tham gia vào quá trình quản lý, điều hành sản xuất, mà còn trực tiếp là
một nguồn lực, yếu tố đầu vào của sản xuất cùng với nguồn lực khác (vốn, nhân lực,
tài nguyên thiên nhiên…) tạo nên quá trình sản xuất. Trí thức là nguồn vốn vô hình
to lớn, sáng tạo là động lực phát triển.
+ Nền kinh tế dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học và công
nghệ: Chủ yếu là các nghiên cứu, sáng tạo ra các công nghệ mới, sản phẩm mới; cơ
cấu sản xuất dựa càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học và công
nghệ, đặc biệt là công nghệ chất lượng cao; các quyết sách kinh tế được tri thức hóa.
+ Cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng ngày càng coi trọng lao động
trí tuệ: Trong nền kinh trế tri thức, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm số
lao động trực tiếp làm ra sản phẩm, tăng số lượng lao động xử lý thông tin, làm dịch
vụ…Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập
trở thành vấn đề thường xuyên đối với mọi người.
+ Quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng: Trong nền kinh tế tri

thức nguồn lực trí tuệ và năng lực đổi mới là hai nhân tố then chốt để đánh giá khả
năng cạnh tranh, tiềm năng phát triển và sự thịnh vượng của một Quốc gia.
+ Nền kinh tế toàn cầu hóa: Nền kinh tế tri thức chỉ được hình thành và phát
triển khi lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển ở trình độ cao, phân công lao động
mang tính quốc tế và theo đó là hệ thống sản xuất mang tính kết nối giữa các doanh
nghiệp quốc gia trong một chuỗi giá trị sản phẩm.

6


Có thể nói, trong điều kiện mới gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát
triển kinh tế tri thức là xu thế lựa chọn tối ưu của các nước đang phát triển, trong đó
có Việt Nam.
3. Nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức khi
kết thức thời kỳ hóa độ ở nước ta là: “ Xây dựng nền tảng cơ bản nền tảng kinh tế
của chủ nghĩa xã hội”. Mục tiêu đó được hiểu là xây dựng được một hệ thống cơ sở
vật chất – kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, với một cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất
tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Để từng bước thực hiện được mục tiêu trên Đại hội lần thứ VIII tiếp tục được
khẳng định qua các kỳ Đại hội sau đó. Cương lỉnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “từ nay đến
giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Để thực hiện mục tiêu tổng quát trên, trong mỗi giai đoạn phát triển của nền
kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức cần phải
thực hiện được những mục tiêu cụ thể nhất định. Mục tiêu cụ thể trong giai đoạn

2016-2020 là: “ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại”
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là một quá
trình “lồng ghép”, phải thực hiện cùng lúc ba tiến trình: 1) Đẩy mạnh công nghiệp
hóa; 2) Hiện đại hóa đất nước; 3) Phát triển kinh tế tri thức. Phạm vi tiến hành không
chỉ đơn thuần là các ngành kinh tế quốc dân, mà còn là các lĩnh vực của đời sống xã
7


hội, tức là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để chuyển lên một nền kinh tế cao
hơn. Do vậy, việc xác định nội dung đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức phải nhằm vào thực hiện cho được các mục tiêu, nhiệm
vụ trên.
- Chủ động lựa chọn và phát triển hệ thống công nghệ tiên tiến, hiện đại dựa
vào tri thức và thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), nâng dần
trình độ văn minh của xã hội Việt Nam.
+ Quan điểm lựa chọn: Phải coi trọng vai trò nền tảng và động lực của công
nghệ; phải kết hợp giữa giải quyết mục tiêu cấp bách và mục tiêu cơ bản lâu dài
trong toàn bộ quá trình lựa chọn và phát triển công nghệ; phải tuân thủ cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước trong lựa chọn và phát triển công nghệ; lựa chọn
và phát triển công nghệ là công việc của toàn xã hội dưới sự dẫn dắt của Nhà nước.
+ Nguyên tắc lựa chọn: Phải thiết thực, hiệu quả. Đại hội XII của Đảng yêu
cầu: “Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới,
công nghệ hiện đại”.
+ Định hướng lựa chọn và phát triển công nghệ: Định hướng về nội dung; về
phương thức thực hiện.
- Xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại theo hướng tăng
nhanh các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
+ Cơ cấu kinh tế, xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Xây dựng và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý hiện đại là một nội dung của đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Một cơ cấu
kinh tế gọi là hợp lý khi đáp ứng các yêu cầu: Tính khách quan; tính thị trường; tính
hiện đại; tính hiệu quả kinh tế - xã hội.
+ Nội dung xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân: Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…).
8


- Từng bước hình thành và phát triển tài nguyên trí lực: Chính là tiềm năng về
sức mạnh trí tuệ để con người có thể thực hiện, hoàn thành một công việc nhất định.
4. Điều kiện và giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
4.1. Điều kiện đảm bảo đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là
một quá trình phát triển không phải một sớm một chiều, mà là trải qua thời gian khá
nhiều năm. Việc ổn định chính trị, kinh tế, xã hội cho quá trình này là rất cần thiết và
đây chính là điều kiện tiên quyết để phát triển:
- Ổn định về chính trị: Được thể hiện ở tính nhất quán, tính đồng bộ và ổn
định lâu dài của đường lối, phải có tầm nhìn dài hạn, phải xây dựng cơ sở khoa học
cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chính sách công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh. Để ổn định chính trị cần phải tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước và thật
sự phát huy quyền làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân.
- Ổn định về kinh tế: Là sự ổn định về môi trường sản xuất, kinh doanh của
nền kinh tế, được thể hiện ở sự ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó trước hết là sự ổn
định thị trường, ổn định tài chính, tiền tệ, giá cả, việc làm, thu nhập. Điều kiện để
duy trì sự ổn định này là Nhà nước phải duy trì được cân bằng tổng cung - tổng cầu,
phải kiểm soát được lạm phát, xây dựng và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh.

- Ổn định về xã hội: Là sự cân bằng xã hội, trong đó mọi người hợp lại với
nhau cùng hướng đến một xã hội an toàn, đồng thuận và phát triển, sự ổn định xã hội
khi đã được duy trì thường xuyên, lâu bền nó là nhân tố quan trọng kích thích tiến bộ
xã hội. Ổn định về xã hội là một điều kiện tiên quyết cho sự ổn định chính trị và phát
triển kinh tế, xã hội nói chung, cho thực hiện các mục tiêu chiến lược và kế hoạch
phát triển của Đảng và Nhà nước nói riêng. Chỉ có ổn định xã hội thì người dân, các
9


chủ doanh nghiệp mới yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh và mới thu hút được các
chủ doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam hợp tác đầu tư.
Như vậy, bảo đảm ổn định chính trị, kinh tế, xã hội xét về thực chất đó là bảo
đảm sự ổn định môi trường đầu tư. Một nền kinh tế không thể phát triển được nếu
môi trường đẩu tư ở tình trạng bất ổn. Đại hội XI của Đảng yêu cầu: “Phải đặc biệt
coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo
vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất
nước phát triển nhanh và bền vững”.
4.2. Giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy năng lực
sáng tạo tri thức ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức
của thế giới toàn cầu hóa. Trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế
tri thức lên ngay trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
nhằm đẩy mạnh hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng có
lợi. Qua hội nhập và hợp tác cùng với việc gửi đi nâng cao trình độ ở nước ngoài,
các chuyên gia Việt Nam từng bước trưởng thành, có thể chủ động trong ứng dụng
các công nghệ cao và tiến tới sáng tạo tri thức mới rất cần thiết cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở trình độ cao.
Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, nông nghiệp phải gắn kết với phát
triển ứng dụng tri thức sáng tạo mới, cụ thể là: phải chuyển giao tri thức về công

nghệ sinh học, tri thức về giống cây, con chất lượng và năng suất cao, về canh tác và
chăn nuôi hiện đại cho nông dân; đồng thời, phải cung cấp tri thức về tổ chức sản
xuất gắn với thị trường và về xây dựng nông thôn mới và đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin - truyền thông trong mọi hoạt động hiện đại hóa nông nghiệp.
Trong công nghiệp và xây dựng thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ gắn kết
thuận lợi với phát triển kinh tế tri thức vì công nghiệp trong kinh tế thị trường là rất
10


hiện đại dựa vào các công nghệ cao. Trước hết công việc thiết kế của công nghiệp và
xây dựng ở mọi cấp phải chuyển nhanh từ thiết kế thủ công sang thiết kế dùng máy
tính sẽ rất chính xác và nhanh chóng, tranh thủ khai thác các phần mềm thiết kế và
thư viện các thiết kế sẵn có. Ngành chế tạo cũng phải chuyển nhanh sang sử dụng
máy thông minh có "nhúng" máy điện toán tự động hóa hoàn toàn hoặc rôbốt, hoặc
các dây chuyền máy tự động hóa toàn phần.
Việc tiếp thu nắm vững công nghệ cao trong công nghiệp và xây dựng sẽ là
điểm tựa để chúng ta có thể sáng tạo thêm nhiều tri thức mới trong lĩnh vực này.
Chúng ta bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ trong hiện đại hóa nền
công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng.
Dịch vụ là một lĩnh vực rất lớn của kinh tế tri thức, có khi chiếm đến trên 70%
GDP, bởi vậy gắn kết với phát triển kinh tế tri thức sẽ có thuận lợi đẩy mạnh hiện đại
hóa nhanh dịch vụ ở nước ta. Các ngành dịch vụ quan trọng như thương mại, tài
chính, ngân hàng, du lịch, y tế, giáo dục, pháp luật... bắt buộc phải nhanh chóng
chuyển sang ứng dụng công nghệ thông tin, mạng Internet, viễn thông toàn cầu...
Về mặt xã hội có nhiều loại dịch vụ quan trọng cần hiện đại hóa theo hướng
kinh tế tri thức. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như nước ta, có định
hướng xã hội chủ nghĩa, thì cần tập trung vào dịch vụ hành chính điện tử (hoặc chính
phủ điện tử). Đây là một cuộc cách mạng thực sự hướng tới chủ nghĩa xã hội, vì nó,
nếu được xây dựng đúng đắn và đầy đủ, sẽ khách quan bảo đảm được công khai,
minh bạch, không tham nhũng, công bằng, dân chủ, văn minh. Khi đó sẽ có một nền

hành chính điện tử được hiện đại hóa nhanh dẫn tới rút ngắn được thời kỳ quá độ.
Về giải pháp cụ thể:
- Ổn định kinh tế vĩ mô: Xây dựng chính sách kinh tế của Nhà nước phải nhất
quán, không chồng chéo, không được mâu thuẫn, loại trừ nhau và phải duy trì ổn
định lâu dài. Phải kiểm soát được lạm phát; duy trì sự phối hợp nhịp nhàng và đồng
bộ chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và khả năng sử dụng các công cụ của chính
11


sách tiền tệ. Kiểm soát đầu tư công, kiểm soát tình trạng “bong bóng” trên thị trường
bất động sản. Đề ra các giải pháp: Cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích
khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sức
cạnh tranh; đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2011-2020. Bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống nhân dân, phát triển
văn hóa, thực hiện dân chủ tiến bộ, công bằng xã hội; chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, phòng chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính hiện đại, công nghiệp,
năng động, phục vụ tốt người dân và doanh nghiệp. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương,
phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc
độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối
ngoại, hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
- Xây dựng hệ thống thể chế kinh tế thị trường dựa trên tiến bộ của khoa học,
công nghệ và tri thức: Sớm hoàn thiện thể chế về sở hữu theo hướng thể chế hóa đầy
đủ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân được quy định trong Hiến
pháp 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục
hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt,
bảo đảm, hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản. Hoàn thiện
thể chế về phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp theo hướng
nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt

hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu
tố thị trường và các loại thị trường tạo sự đồng bộ, bảo đảm vận hành thông suốt các
thị trường. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền
vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, ứng,
phó với biến đổi khí hậu. Hoàn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế.

12


- Thúc đẩy phát triển nguồn tài nguyên trí lực: Thực hiện có kết quả các giải
pháp xác định trong Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 và
Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Tạo chuyển biến căn
bản mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo đáp ứng ngày càng tốt hơn
công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân; đổi mới
mạnh mẽ và động bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng
phát triển phẩm chất, năng lực của người học; đổi mới chương trình, nội dung theo
hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp mọi lứa tuổi. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả nghiên cứu vả ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục
và khoa học quản lý.
- Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ: Tập trung thực hiện đồng bộ 3
nhiệm vụ chủ yếu (1) Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế
quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ; (2) Tăng cường tiềm lực khoa học
và công nghệ quốc gia; (3) Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, gắn nhiệm vụ phát triển
khoa học và công nghệ với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
Chú trọng phát triển thị trường khoa học và công nghệ gắn với thực thi pháp luật về
sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu ứng dụng và phát
triển công nghệ, khuyến khích sáng tạo khoa học và công nghệ.
- Tạo lập, sử dụng hiệu quả nguồn lực vốn, tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ
môi trường: Xây dựng một hệ thống thuế đồng bộ, bền vững, đảm bảo nhu cầu chi

tiêu cần thiết, hợp lý của ngân sách nhà nước để khuyến khích cạnh tranh, tích tụ
vốn cho sản xuất, kinh doanh. Sửa đổi, bổ sung, ban hành chính sách thu ngân sách
nhà nước liên quan đến hoạt động thăm dò, khai thác và sử dụng tài nguyên đảm bảo
thống nhất, phù hợp nhằm góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý,
tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với thị
trường tài chính để góp phần huy động có hiệu quả nguồn vốn cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn vốn.

13


- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế: Chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh
lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội
lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định
thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết; hoàn thiện thể chế tận dụng cơ hội và
phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp
thương mại, đầu tư quốc tế; hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với
luật pháp quốc tế.
- Bảo đảm gắn kết chắt chẽ giữa tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân: Đổi mới tư duy lý luận nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối
với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chiến lược công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và xác định tiêu thức một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại để có lộ trình và tập trung sức lực tổ chức thực hiện.
Phát huy vai trò của Nhà nước trong việc thể chế hóa đường lối công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của Đảng; xây dựng môi trường chính trị, kinh tế, xã hội ổn định, tạo sự
thông thoáng và tiết kiệm cho mỗi tổ chức, cá nhân trên quan điểm Nhà nước kiến

tạo phát triển và tôn trọng dân chủ, tập trung nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội, tăng cường đồng thuận xã
hội trên cơ sở phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
để mọi người dân nhận thức rõ tầm quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà
nêu cao tính tự cường và trách nhiệm công dân trước yêu cầu phát triển đất nước.

14


KẾT LUẬN
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng nhằm phấn đấu
sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Muốn đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng không còn con đường nào khác hơn con đường phát triển mạnh
kinh tế tri thức, chăm lo phát triển văn hóa và con người, đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế tạo ra thế và lực để chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Những điểm mới trong tư duy của Đảng về chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa
được nêu ra trong Đại hội Đảng lần thứ XII, một mặt là sự tiếp nối những quan
điểm, tư tưởng nhất quán của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các kỳ
đại hội trước, mặt khác là sự bổ sung, phát triển cụ thể hóa hơn để triển khai có hiệu
quả những nhiệm vụ cụ thể trong tình hình mới. Đại hội lần thứ XII khẳng định
quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua khó khăn, thách thức...
thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.

15




×