Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 thực hành về từ loại tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.86 KB, 19 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Trong hệ thống giáo dục, mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ, cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho
cuộc sống, học tập và sinh hoạt sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao. Ở Tiểu học
môn Tiếng Việt có vị trí đặc biệt quan trọng. Học tốt Tiếng Việt, học sinh sẽ có
cơ sở để tiếp thu và học tốt các môn học khác. Nắm vững kiến thức Tiếng Việt
và được luyện tập thành thạo các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, các em sẽ có suy
nghĩ mạch lạc, diễn đạt trong sáng; có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ
viết của dân tộc. Tiếng Việt là môn học chính, là cơ sở để hình thành vốn ngôn
ngữ chuẩn, làm nền tảng cho các bậc học về sau. Ở Tiểu học, học sinh được học
những kiến thức cơ bản về từ, từ loại, câu, …qua đó giúp học sinh có những
hiểu biết ban đầu của những kiến thức mới. Trong đó, phần từ loại được trải đều
trong nội dung các bài học từ lớp 2 cho đến lớp 5. 
Việc cung cấp cho học sinh Tiểu học những kiến thức sơ giản về từ ngữ rất
quan trọng bởi đây là điểm khởi đầu về nhận thức của các em đối với vốn từ
Tiếng Việt. Để giúp các em nắm được các kiến thức về từ trong Tiếng Việt, vận
dụng nó để đặt câu, viết văn và ứng dụng trong giao tiếp hằng ngày, cao hơn nữa
là bồi dưỡng cho các em trở thành những học sinh có năng khiếu về Tiếng Việt,
người giáo viên phải có những định hướng, những giải pháp để nâng cao hiệu
quả dạy học môn Tiếng Việt
Kiến thức về từ loại trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học cung cấp
gồm: danh từ, động từ, tính từ, đại từ và quan hệ từ. Từ những kiến thức về từ
loại, giúp cho học sinh biết cách dùng từ, đặt câu có ý nghĩa, vận dụng trong viết
chính tả, làm bài tập tiếng Việt, … Không những thế, những kiến thức về từ loại
sẽ giúp học sinh phát triển được vốn từ, kĩ năng nhận diện, sử dụng thành thạo
trong viết văn, … Nhưng thực tế cho thấy, những kiến thức về từ loại là rất
phong phú và đa dạng, học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận diện
từ loại, phân loại từ loại, vận dụng từ loại trong dùng từ, đặt câu, .... Nếu không
nắm vững những kiến thức cơ bản làm nền tảng thì học sinh hay dễ nhầm lẫn,
mắc phải những lỗi sai cơ bản. Và nếu không được củng cố kiến thức ngay từ


đầu thì học sinh Tiểu học sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển ngôn ngữ
viết của mình. Vì thế, đối với giáo viên, việc dạy về từ loại cho học sinh là một
nhiệm vụ rất quan trọng, đang được nhiều người quan tâm đến. Giáo viên nắm
vững những kiến thức và truyền đạt một cách dễ hiểu cho học sinh, kích thích
tính nhanh nhạy của học sinh, phát triển sự sáng tạo, giúp học sinh tiếp thu bài
nhanh hơn.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của từ loại trong chương trình Tiểu học, là
giáo viên đứng lớp đã 20 năm, qua mét thời gian giảng dạy, tôi thấy học sinh
của mình rất cố gắng học tập tất cả các môn học đặc biệt là môn Tiếng Việt.
Nhưng trong thực tế, khi học đến từ loại Tiếng Việt thì nhiều em còn lúng túng.
Với suy nghĩ: "Làm thế nào để học sinh nắm chắc kiến thức này và tự tin trong
học tập?" nên tôi đã quyết định chọn đề tài: "Các giải pháp hướng dẫn học
sinh lớp 5 thực hành tốt từ loại Tiếng Việt trong chương trình tiểu học".
1


1.2. Mục đích nghiên cứu.
Xuất phát từ những vấn đề trên và qua nghiên cứu, tìm hiểu trong nhiều
năm dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5 tôi đã chọn đề tài "Các
giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 thực hành tốt từ loại Tiếng Việt trong
chương trình tiểu học" nhằm mục đích:
- Các phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 thực hành các bài tập về từ
loại Tiếng Việt
- Nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc sử dụng từ loại Tiếng Việt trong
học tập và giao tiếp.
- Góp phân nâng cao chất lượng giáo dục tô thắm thêm truyền thống nhà
trường.
Chỉ tiêu: Cuối năm học 100% học sinh Hoàn thành các bài tập về từ loại
theo yêu cầu. Trong đó 80% học sinh Hoàn thành tốt.
1.3. Đối tượng nghiên cứu

- Là các giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 thực hành tốt từ loại Tiếng Việt
trong chương trình tiểu học”. Cụ thể trong đề tài này, đối tượng nghiên cứu là
các dạng bài tập về từ loại (danh từ, động từ, tính từ) trong chương trình sách
Tiếng Việt ở Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cở sở lí thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
Ở trong Trường Tiểu học, môn Tiếng Việt giữ vai trò đặc biệt quan trọng,
nó góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở Tiểu học
theo đặc trưng bộ môn của mình. Việc dạy Tiếng Việt trong nhà trường nhằm tạo
cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt văn hoá và hiện đại để suy nghĩ, giao
tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng Việt, nhà trường rèn luyện cho các em
năng lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục các em những tư tưởng lành
mạnh, trong sáng, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học bao gồm các phân môn: Học vần (lớp 1), tập
đọc, chính tả, tập viết, luyện từ và câu, tập làm văn, kể chuyện. Mỗi phân môn
đều có nhiệm vụ riêng song mục đích cuối cùng của chúng ta là cung cấp cho
học sinh những kiến thức phổ thông về ngôn ngữ. Trên cơ sở đó rèn luyện kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết nhằm giúp học sinh vận dụng các từ đã học vào phân
môn tập làm văn vốn rất hạn chế bởi việc hiểu nghĩa từ loại chưa chính xác.
Mặt khác, từ loại là sự phân loại vốn từ của một ngôn ngữ cụ thể thành
những loại, những lớp hạng dựa vào những đặc trưng ngữ pháp. Sự quy loại một
lớp từ nào đó vào một từ loại nhất định được xác định bởi những đặc trưng về
ngữ nghĩa, về hoạt động ngữ pháp của nó (về hình thái học hoặc về cú pháp học,
hoặc về cả tình thái học và cú pháp học) trong việc thực hiện một chức vụ cú
pháp nhất định. Như vậy, bất kì hệ thống ngôn ngữ của một dân tộc nào, của một

cộng đồng người nào (cho dù ngôn ngữ ở trình độ phát triển hay còn ở trạng thái
2


thô sơ, đã có hệ thống ngôn ngữ chữ viết hay chưa …) đã có vốn từ vựng, có
ngữ pháp riêng thì đều có từ loại. Từ loại là một phổ niệm của mọi ngôn ngữ,
không phụ thuộc vào phương thức biểu hiện của nó.
+ Về danh từ.
Ở lớp 2, lớp 3 danh từ được gọi là từ chỉ sự vật (người, con vật, đồ vật, cây
cối). Các dạng bài tập chủ yếu: tìm từ chỉ sự vật; cách sử dụng danh từ trong câu
theo mô hình : Ai (cái gì, con gì) là gì? Ai (cái gì, con gì) làm gì? Ai (cái gì, con
gì) thế nào?
Lên lớp 4 học danh từ thông qua các khái niệm và các bài tập. Nội dung về
danh từ ở lớp 4 gồm: khái niệm danh từ, các tiểu loại danh từ, danh từ chung,
danh từ riêng, viết hoa tên riêng.
+ Về động từ
Ở lớp 2, lớp 3 học về từ loại động từ thông qua các bài tập tìm “từ chỉ hoạt
động, trạng thái’’; sử dụng câu theo mô hình: Ai làm gì? Ai thế nào?
Lên lớp 4 khái niệm động từ và luyện tập sử dụng động từ. Để bổ sung ý
nghĩa về thời gian cho động từ, ta có thể dùng các từ: đã, đang, sẽ, vừa, mới; Để
bổ sung ý nghĩa về sự sai khiến cho động từ ta có thể dùng các từ: hãy, đừng,
chớ, đi, thôi.
+ Về tính từ
Ở lớp 2, lớp 3 tính từ được đưa vào dưới dạng bài tập: tìm từ chỉ tính chất
qua kiểu câu: Ai (con gì, cái gì) thế nào?
Lên lớp 5 học sinh được củng cố về danh từ, động từ, tính từ thông qua các
tiết ôn tập và học thêm phần đại từ, quan hệ từ.
2.2. Thực trạng về việc dạy học từ loại Tiếng Việt trong trường Tiểu học
2.2.1. Thuận lợi
* Về giáo viên:

Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi là ngôi trường có truyền thống “Dạy tốt
- học tốt”, có đội ngũ cán bộ quản lý giàu năng lực, có tập thể BGH đoàn kết
đồng lòng, đội ngũ giáo viên nhiệt tình công tác, trình độ chuyên môn vững
vàng, có nhiều GV- HS giỏi cấp Quốc gia, cấp Tỉnh, cấp Thành phố. Nhà trường
luôn tạo điều kiện cho công tác của giáo viên, đầy đủ SGK, sách hướng dẫn và
được học về sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Đội ngũ giáo viên yêu
nghề, có năng lực sư phạm. Phân môn luyện từ và câu của lớp 5 đặc biệt phần từ
loại trong chương trình Tiểu học được phân bố đều trong nội dung học từ lớp 2
đến lớp 5. Từ loại được đem vào nội dung học cho học sinh từ mức độ đơn giản
đến phức tạp hơn, nội dung được trải đều trong chương trình, không quá chú
trọng quá cụ thể vào một lớp học nào, tạo điều kiện cho giáo viên lựa chọn các
phương pháp và hình thức dạy học phù hợp giúp học sinh tiếp thu kiến thức dễ
dàng hơn.
*Về học sinh.
- Học sinh đã quen với cách học mới từ lớp 1, 2, 3, 4 nên các em đã biết
cách lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng
môn học nói riêng và môn Tiếng việt nói chung.
- Các em học sinh đều được học 9 buổi/tuần và được sự quan tâm dạy dỗ
3


nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo. Từ đó giúp các em có khả năng sử dụng
thành thạo các bài tập thực hành về từ loại và áp dụng linh hoạt vào các phân
môn khác.
2.2.2. Khó khăn.
Trong những năm giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh còn gặp nhiều khó khăn
trong việc nhận diện từ loại, phân loại từ loại, vận dụng từ loại trong dùng từ,
đặt câu. Hơn thế nữa, học sinh lại mắc phải những lỗi mà đáng ra các em không
mắc phải.

Năm học 2019-2020, tôi được phân công dạy lớp 5A trường Tiểu học
Nguyễn Văn Trỗi. Lớp tôi có 40 học sinh trong đó có: 14 em nam, 26 em nữ.
Hầu hết các em đều mạnh dạn, ngoan ngoãn, vâng lời thầy cô. Tuy nhiên, các
bài tập trong chương trình Tiếng Việt 5 hoặc những bài tập trong tiết Luyện tập
thực hành bản thân tôi đưa ra còn nhiều em gặp không ít khó khăn. Có những
em khó đạt mức hoàn thành hoặc có những em đạt mức hoàn thành nhưng thiếu
chiều sâu, nhiều em nhớ nhanh nhưng cũng nhanh quên, vốn hiểu biết của các
em không được mở rộng. Để nắm cụ thể về thực trạng của các em trong lớp về
việc học từ loại, với mong muốn học sinh của mình học tốt hơn, hiệu quả giờ
dạy đạt cao hơn. Bản thân tôi đã khảo sát chất lượng và xem mức độ tiếp thu
phần này của các em như thế nào với đề bài như sau:
Đề bài: (Thời gian 40 phút)
Câu1: Xác định chủ ngữ, vị ngữ của các câu sau:
a. Chích bông là một con chim bé xinh đẹp trong thế giới loài chim .
b. Cô mùa xuân xinh tươi đang lướt nhẹ trên cánh đồng .
c. Màu vàng trên lưng chú lấp lánh
Câu2: Tìm danh từ, tính từ, động từ trong đoạn văn sau:
Ngày xưa, dế Trống và dế Mái đều gáy to và khoẻ như nhau.
Câu 3: Hãy xác định từ loại của các từ được gạch chân trong các câu sau:
a. Con mèo con đuổi bắt con con chuột con con.
b. Cuộc đời của học sinh đầy những kỉ niệm đẹp.
c. Bạn Hà kỉ niệm tôi chiếc bút này khi chia tay nhau .
Câu 4: Hãy viết một đoạn văn ngắn từ 4-5 câu có nội dung tự chọn và xác định
từ loại có trong đoạn văn đó.
Đáp án đề khảo sát:
Câu 1:
Chủ ngữ
Vị ngữ
a. Chích bông
là một con chim bé xinh đẹp trong thế giới loài chim

b. Cô mùa xuân xinh tươi đang lướt nhẹ trên cánh đồng
c. Màu vàng trên lưng chú lấp lánh
Câu2:
Danh từ
Động từ
Tính từ
Ngày xưa, dế trống, dế Mái
Gáy
To, khoẻ
Câu 3: Học sinh xác định đúng các từ loại gạch chân như sau :
a. Con mèo con đuổi bắt con con chuột con con .
DT
DT DT
TT
4


b.Cuộc đời của học sinh đầy những kỉ niệm đẹp .
DT
c.Bạn Hà kỉ niệm tôi chiếc bút này khi chia tay nhau .
ĐT
Câu 4: Học sinh viết được đoạn văn theo yêu cầu và xác định đúng từ loại có
trong đoạn văn.
– Đoạn văn đúng bố cục: Có câu mở đoạn, kết đoạn và trình bày theo một
nội dung tự chọn.
– Đoạn văn đảm bảo số câu theo yêu cầu, có xác định được từ loại có
trong đoạn văn đó.
– Trình bày rõ ràng, sạch đẹp, tránh sai lỗi chính tả.
Với yêu cầu đề bài như vậy, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 5A (do
tôi làm chủ nhiệm) để làm cơ sở đối chứng. Sau khi chấm bài, tôi nhận thấy các

em làm được như sau:
Câu 1: Rất ít em xác định đúng cả ba câu. Nhiểu em chỉ xác định đúng ý a,
b còn ý c các em đều xác định bộ phận chủ ngữ là màu vàng, vị ngữ là; trên lưng
chú lấp lánh
Câu2: Các em xác định được danh từ là: dế Trống, dế Mái. Động từ là:
Gáy. Tính từ là: to, khoẻ. Và không có học sinh nào xác định được từ ngày xưa
là danh từ
Câu 3: Các em đều xác định đúng từ con thứ nhất là danh từ, còn hai từ
con tiếp theo phần lớn các em cho là tính từ .Còn từ kỉ niệm các em đều cho
là động từ
Câu 4: Hầu hết học sinh đều viết được đoạn văn đúng với yêu cầu nhưng
viết câu chưa đúng cấu trúc ngữ pháp, chấm câu chưa hợp lí, liên kết các câu
còn chưa chặt chẽ, diễn đạt còn chưa hay và xác định từ loại còn chưa chính xác.
Bảng kết quả làm bài của học sinh đạt được như sau:
Thời gian
kiểm tra
Đầu học kỳ I
(tháng 9/2010)

Lớp
5A

Tống
số học
sinh
40

Hoàn thành
tốt
SL

%
18

45

Kết quả
Hoàn thành
SL

%

12

30

Chưa hoàn
thành
SL
%
10

25

Qua kết quả làm bài khảo sát, tôi nhận thấy đa số các em đều làm chưa tốt.
Số em hoàn thành tốt còn ít, số em hoàn thành và chưa hoàn thành còn nhiều.
Bản thân tôi suy nghĩ và rút ra được: Các em làm được kết quả như vậy là do
những nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Học sinh chưa nắm vững cách xác định chủ ngữ và vị ngữ, các
em chưa nắm rõ: “chủ ngữ do từ ngữ hay thường do loại từ nào tạo thành? Vị
ngữ do từ ngữ hoặc do từ loại nào tạo thành?” nên đã xác định sai.

Thứ hai: Học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ loại và khả năng kết hợp
từ của từ loại nên đã xác định chưa đầy đủ.
Thứ ba: Học sinh thường chưa cẩn thận khi làm bài, làm bài xác định chưa
5


rõ yêu cầu, đưa từ nhiều khi còn chưa phù hợp với văn cảnh.
Thứ tư: Do không phân định đúng ranh giới của từ mà học sinh xác định từ
loại sai.
Thứ năm: Nhiều em không nắm được khái niệm “từ loại” nên không hiểu
đúng yêu cầu của bài tập.
Thứ sáu: Khi xác định từ loại học sinh còn gặp khó khăn trong những
trường hợp mà nghĩa của từ hoặc dấu hiệu hình thức không rõ ràng.
Thứ bảy: Thời gian luyện tập, số tiết luyện tập về từ loại Tiếng Việt còn
chưa được nhiều.
Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học từ loại trong môn Tiếng Việt, đồng
thời xuất phát từ những thực trạng trên tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Các
dạng bài tập hướng dẫn học sinh thực hành từ loại Tiếng Việt trong chương
trình Tiểu học”.
2.3. Các giải pháp thực hiện
Để hướng dẫn học sinh lớp 5 thực hành tốt các dạng bài tập về từ loại Tiếng
Việt trong chương trình Tiểu học, tôi đã áp dụng các giải pháp phân ra từng loại
bài tập để học sinh thực hành như sau:
Giải pháp 1. Rèn kĩ năng thực hành các dạng bài tập khắc sâu lý thuyết về
từ loại.
* Về danh từ: Để giúp học sinh nhận diện và khắc sâu kiến thức về danh
từ, tôi đã thực hiện như sau:
- Giáo viên cho học sinh củng cố về khái niệm danh từ để hiểu danh từ là từ
chỉ người, vật, hiện tượng, khái niệm...
Ví dụ:

+ Chỉ người: Cô giáo. học sinh, anh , chị....
+ Chỉ vật: Nhà, bàn, ghế, cây,cỏ, sông, biển, Thanh Hóa...
+ Chỉ hiện tượng: Gió, bão, nắng, mưa,hoà bình...
- HS hiểu về khái niệm, giáo viên giúp học sinh nắm vững khả năng kết
hợp của danh từ bằng cách cung cấp cho học sinh các cách (các mẹo) nhận biết
danh từ như sau:
- Cách 1: Thêm vào trước nó một từ chỉ số lượng (một, hai, vài, những,
các...) xem có được không, nếu được thì đó là một danh từ. Ví dụ: Hai học sinh
- Cách 2: Thêm vào sau nó một từ chỉ trỏ (này, ấy, kia, đó...) xem có được
không nếu được thì đó là một danh từ. Ví dụ: Học sinh ấy
* Để phân biệt danh từ chung với danh từ riêng, danh từ cụ thể, danh từ
trừu tượng tôi tiến hành hướng dẫn học sinh hiểu:
- Danh từ có nhiều loại:
+ Danh từ chung: là tên gọi chung của một loại sự vật.
VD: Học sinh, công nhân, thành phố...
+ Danh từ riêng: là tên gọi riêng của một loại sự vật.
VD: Nguyễn Văn Trỗi, núi Hàm Rồng, sông Mã....
Ngoài ra, tôi còn giúp học sinh cách phân biệt danh từ cụ thể với danh từ
trừu tượng
+ Danh từ cụ thể: chỉ những sự vật mà ta có thể nhận ra được bằng giác
quan (nhìn, nghe, ngửi, thấy, đếm được...)
6


VD: Nhà, tủ, ghế, bàn , sách,vở, gió ,mưa…..
+ Danh từ trừu tượng: chỉ những sự vật mà ta nhận ra được bằng suy nghĩ
chứ không phải bằng các giác quan.
VD: Niềm vui, đạo đức, thái độ,tình bạn, nỗi buồn ,..
* Để giúp học sinh nắm vững chức vụ ngữ pháp của danh từ: Học sinh cần
hiểu trong câu, danh từ (đứng một mình hoặc kèm theo các từ phụ thuộc) có thể

làm nhiều chức vụ khác nhau: Nó có thể làm chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ...
*Về động từ: Cách tiến hành tương tự như danh từ
- Giáo viên giúp học sinh hiểu động từ là từ chỉ hoạt động hay trạng thái
của người, sự vật.
VD: Ngủ, chạy...
Để giúp học sinh nhận diện và khắc sâu kiến thức về động từ, tôi đã giúp
học sinh nắm vững được khả năng kết hợp của động từ:
+ Trước động từ: Các thành tố phụ chỉ thời gian (đã, đang, sẽ, sắp, ...); chỉ
mệnh lệnh (hãy); chỉ sự phủ định (không, chẳng, chưa..)
Ví dụ: Chỉ vài hôm, lộc non đã tràn đầy trên bàn tay mùa đông của cây
bàng. Dáng mọc của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể đêm qua có ai đã
thả ngàn vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời, xanh biếc chi chít đầy cành...
(Bàng thay lá - Hoàng Phủ Ngọc Tường )
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
(Hàn Mặc Tử )
Ngoài ra còn có các tính từ đứng trước động từ
Ví dụ :
Những cánh hoa đỏ đang rung nhè nhẹ trước gió
TT
ĐT
+ Sau động từ: Là các danh từ, các phụ từ chỉ sự tiếp diễn, kết thúc (xong,
rồi, mãi, ...), tính từ
Ví dụ :
+ Anh nhìn trăng và nghĩ tới ngày mai…
ĐT DT
ĐT
+ Đằng đông, phía trên dải đê chạy dài rạch ngang tầm mắt
ĐT TT
- Nắm vững khả năng đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp của động từ.

Động từ có thể đảm nhiệm nhiều chức vụ ngữ pháp khác nhau trong câu:
làm vị ngữ, chủ ngữ, định ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ.Trong đó chức năng làm vị
ngữ của động từ là phổ biến và tiêu biểu nhất.
Ví dụ :
+ Học tập là nhiệm vụ của học sinh. (ĐT làm chủ ngữ)
+ Chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. (ĐT
làm vị ngữ)
+ Chúng em hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập. (ĐT làm định ngữ)
+ Bạn Lan rất thích xem phim. (ĐT làm bổ ngữ)
+ Nhớ lời cha mẹ dặn, chúng em không đi chơi xa. (ĐT làm trạng ngữ)
- Giúp học sinh hiểu về các loại động từ: Động từ có hai loại:
7


+ Động từ chỉ trạng thái, hoạt động do người hay sự vật thực hiện, không
ảnh hưởng tới người hay sự vật khác gọi là động từ nội động.
VD: Em bé ngủ.
+ Động từ chỉ hoạt động của người hay sự vật thực hiện có ảnh hưởng đến
người hay sự vật khác gọi là động từ ngoại động
VD: Bác nông dân đang gặt lúa.
- Giúp học sinh hiểu rõ các động từ đặc biệt.: có, là, bị, được...
+ Động từ "bị" và "được" chỉ trạng thái tiếp thu
+ Động từ "có" chỉ trạng thái tồn tại hoặc sở hữu
+ Động từ "là" chỉ được dùng trong câu giới thiệu, nhận xét, đánh giá.
* Về tính từ: Là từ chỉ tính chất của người, loài vật, đồ vật, cây cối như:
màu sắc, hình thể, khối lượng, kích thước, dung lượng, phẩm chất...
Ví dụ : - Xanh, đỏ, xanh biếc, đỏ thắm (chỉ màu sắc)
- Vuông, tròn, thon (chỉ hình thể)
- To, nhỏ, dài, ngắn...(chỉ kích thước)
- Nặng, nhẹ, nhiều, ít...(chỉ khối lượng, dung lượng)

- Tốt, xấu, thông minh…(chỉ phẩm chất)
Để giúp học sinh nhận diện và khắc sâu kiến thức về tính từ, tôi đã đưa ra
cách tìm hiểu khả năng kết hợp của tính từ
- Trước tính từ :
+ Là các phụ từ tình thái : còn (rất ), đã, không, đều, …
Ví dụ :
Vẫn còn rất sớm
Đã gan dạ
Cả hai cái áo đều mới
+ Phụ từ chỉ mức độ : hơi, khá, rất, cực kì, tương đối, …
Ví dụ :
Hơi xấu, rất đẹp, bài hát cực kì hay, …
Cô ấy vẫn còn đang rất trẻ
- Sau tính từ.
Có thể là thực từ hoặc hư từ, có thể thuộc những từ loại khác.
Ví dụ :
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.
Rộng thênh thang tám mét.
- Giúp học sinh hiểu khả năng đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp của tính từ
+ Làm vị ngữ
Ví dụ :
- Hoa cà /tim tím
Hoa mướp /vàng vàng.
- Ngôi nhà này/ đẹp.
+ Làm chủ ngữ: có quan hệ từ “là’’ đứng sau
Ví dụ :
Ngoan nhất nhà / là bé Lan.
- Về phân loại tính từ
8



Tính từ được phân chia thành hai nhóm chính: Tính từ đánh giá được về
mức độ và tính từ không đánh giá được về mức độ.
+ Tính từ đánh giá được về mức độ:
Ví dụ: Tường rất trắng, trời xanh quá !
TT
TT
+ Tính từ không đánh giá được về mức độ:
Ví dụ: Khăn quàng đỏ thắm, căn nhà rộng rãi .
TT
TT
* Về đại từ: Để giúp học sinh nhận diện và khắc sâu kiến thức về đại từ,
trước tiên, tôi phải cho học sinh thấy được người ta dùng đại từ để làm gì ?
- Đại từ dùng để thay thế cho danh từ, động từ hoặc tính từ trong câu.
Ví dụ: Cú chẳng có tổ, nó ph¶i sống trong những hốc cây tăm tối,
- Trong giao tiếp người ta có thể dùng đại từ để xưng hô. Đó là đại từ chỉ
ngôi. Các đại từ chỉ ngôi thường dùng là:
+ Ngôi thứ nhất: tôi, chúng tôi, tao, chúng tao
+ Ngôi thứ hai: mày, chúng mày…
+ Ngôi thứ ba: nó, chúng nó …
- Danh từ chỉ người cùng thường được dùng trong xưng hô như đại từ
chỉ ngôi.
VD: anh, chị, ông, bà
- Nắm vững khả năng đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp của đại từ: Đại từ
xưng hô có thể đảm nhiệm những chức vụ ngữ pháp khác nhau trong câu.
+ Làm chủ ngữ
Ví dụ:
Tôi học bài.
Tôi và anh là hai người bạn.

+ Làm vị ngữ
Ví dụ:
Người được nhắc đến là tôi.
+ Làm bổ ngữ
Ví dụ:
Mọi người rất yêu quý tôi.
+ Làm định ngữ
Ví dụ:
Bố mẹ tôi rất tự hào.
+ Làm trạng ngữ: Với tôi, mẹ là người phụ nữ tuyệt vời nhất .
ĐT
Giải pháp 2: Rèn kĩ năng vận dụng thực hành các dạng bài tập về từ loại.
* Đối với bài tập khắc sâu khái niệm “từ loại” tôi đưa ra một số bài nhằm
củng cố khái niệm:
Ví dụ: Cho các từ sau: núi đồi, rực rỡ, chen chúc, vườn, dịu dàng, ngọt,
thành phố, ăn, đánh đập. Hãy xếp những từ trên thành các nhóm theo hai cách:
a, Dựa vào cấu tạo (từ đơn, từ ghép, từ láy)
b, Dựa vào từ loại (danh từ, động từ, tính từ)
- Ở bài tập này học sinh phải củng cố về kiến thức thế nào là chia từ theo
9


cấu tạo và thế nào là chia từ theo từ loại. Các em sẽ dễ dàng làm được.
- Nếu xếp theo cấu tạo từ, ta sẽ xếp như sau:
+ Từ đơn: vườn, ăn, ngọt
+ Từ ghép: núi đồi, thành phố, đánh đập
+ Từ láy: rực rỡ, dịu dàng, chen chúc
- Nếu xếp theo từ loại, ta sẽ xếp như sau:
+ Danh từ: núi đồi, thành phố, vườn
+ Động từ: chen chúc, đánh đập, ăn

+ Tính từ: rực rỡ, dịu dàng, ngọt.
* Đối với bài tập xác định từ loại cho từ, tôi cho học sinh làm hai kiểu bài
tập như sau:
Kiểu 1: Cho sẵn các từ, yêu cầu học sinh xác định từ loại của các từ đó.
VD: Xác định từ loại của các từ sau: niềm vui, vui tươi, vui chơi, tình yêu,
yêu thương, đáng yêu.
Để xác định từ loại của những từ này, ta xét ý nghĩa (chỉ đối tượng, chỉ
hành động hay chỉ tính chất) cũng như thử các khả năng kết hợp của chúng. Có
thể nói:
- những niềm vui
- rất yêu thương
- hãy vui chơi
- tình yêu ấy
- hãy yêu thương
- rất đáng yêu
Sau đó học sinh trình bày:
Danh từ
Niềm vui
Tình yêu

Động từ
Vui chơi
Yêu thương

Tính từ
Vui tươi
Đáng yêu

Kiểu 2: Xác định từ loại trong đoạn thơ văn có sẵn:
VD: Xác định động từ, danh từ, tính từ trong hai câu thơ của Bác Hồ:

“ Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”
- Ở bài tập này, học sinh cần phải xác định ranh giới các từ rồi xét ý nghĩa
và các khả năng kết hợp của từ rồi xếp.
“ Cảnh / rừng / Việt Bắc / thật là / hay
Vượn / hót / chim / kêu / suốt cả ngày”
- Danh từ : cảnh, rừng, Việt Bắc, vượn, chim, ngày.
- Động từ: hót, kêu.
- Tính từ : hay.
Giải pháp 3: Rèn kĩ năng vận dụng thực hành các dạng bài tập nhằm phát
triển năng lực học sinh.
* Đối với dạng bài: “Xác định từ loại trong các từ khó phân định ranh giới”.
VD: Tìm tính từ trong khổ thơ sau:
Việt Nam đẹp khắp trăm miền,
Bốn mùa một sắc trời riêng đất này.
Xóm làng, đồng ruộng, rừng cây,
Non cao gió dựng, sông đầy nắng chang
Xum xuê xoài biếc, cam vàng
10


Dừa nghiêng, cau thẳng, hàng hàng nắng soi.
- Ở bài tập này học sinh xác định các tính từ: đẹp, cao, đầy, xum xuê,
nghiêng, thẳng một cách dễ dàng. Khi xét đến: “trời riêng”, “xoài biếc”, “nắng
chang” các em lúng túng không biết đây là một từ hay hai từ nên nhiều em xác
định từ loại sai. Vậy giáo viên phải củng cố và khắc sâu kiến thức này: chỉ cho
các em biết đây là hai từ đơn và các tính từ là “riêng” “biếc” “chang”.
* Đối với dạng bài: “Xác định từ loại trong những trường hợp dấu
hiệu hình thức từ loại không rõ”.
VD: Xác định từ loại của các từ trong các thành ngữ sau:

Đi ngược, về xuôi
Nước chảy, đá mòn
Các từ loại học sinh xác định nhanh và rõ ràng chính xác là “đi, về” động
từ, “nước, đá” là danh từ. Nhưng các từ “ngược”, “xuôi”, “ mòn” các em lúng
túng và hay xếp các từ này vào loại tính từ. Vậy giáo viên phải phân tích ý nghĩa
của từ và hướng dẫn học sinh xếp từ “ngược” “xuôi” là chỉ vùng núi và vùng
đồng bằng nên xếp các từ này là danh từ. Còn từ “mòn” là động từ chứ không
phải là tính từ.
Lưu ý: ở dạng này học sinh có thể cho thêm một số ví dụ để xác định từ loại.
* Đối với dạng bài: “Xác định từ loại trong các trường hợp chuyển từ
loại theo một kiểu cấu tạo nào đó”.
Ví dụ 1: Xác định từ loại của các từ sau:
- vui, buồn, đau khổ, đẹp
- niềm vui, nỗi buồn, cái đẹp, sự đau khổ
Ở bài tập này, học sinh phải nắm được các từ “vui, buồn, đau khổ” là các
động từ chỉ trạng thái. Còn từ “đẹp” là tính từ.
Phải nắm được quy tắc cấu tạo từ: sự, cuộc, nỗi, niềm đi kèm với động từ
hoặc tính từ thì tạo thành một danh từ mới. Đó là các danh từ trừu tượng “niềm
vui”, “nỗi buồn”, “sự đau khổ”, “cái đẹp”
Ví dụ 2: “Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín quyện với hương bưởi,
béo cái béo của trứng gà, ngọt cái ngọt của mật ong già hạn”
a)
Hãy tìm các tính từ có trong câu văn.
b)
Nhận xét các từ loại: cái béo, mùi thơm
Ở bài tập này học sinh cần vận dụng kiến thức về quy tắc cấu tạo từ và ý
nghĩa của từ để xác định từ loại và tìm được các tính từ trong bài là: “thơm”,
“béo”, “ngọt”, “già”
Nhờ có sự kết hợp từ: cái béo, mùi thơm… là các danh từ.
* Đối với dạng bài: “Xác định từ loại tuỳ trong văn cảnh mà từ loại

cũng có thể thay đổi”.
Ví dụ : Xác định từ loại của từ “ danh dự” trong câu văn sau:
“Ngay thềm lăng, mười tám cây vạn tuế tượng trưng cho một đoàn quân danh dự
đứng trang nghiêm”
- Ở bài tập này học sinh phải dựa vào ý nghĩa của từ trong văn cảnh.
- Từ “danh dự” vốn là danh từ
- Trong câu văn: Từ được sử dụng để chỉ đặc điểm nên ta xếp từ “ danh
dự” vào từ loại là tính từ.
11


* Đối với dạng bài: “Xác định từ loại khi thay thế danh từ bằng đại từ
chỉ ngôi”.
Ví dụ: Thay thế danh từ bằng đại từ chỉ ngôi thích hợp để câu văn không bị lặp.
a) Một con quạ khát nước, con quạ tìm thấy một cái lọ.
b) Tấm đi qua cầu, Tấm vô ý đánh rơi chiếc giày xuống nước.
* Học sinh phải có nhận xét danh từ được lặp lại.
- ở câu a là “ con quạ”.
- ở câu b là Tấm.
Việc lặp từ làm cho câu văn không hay vậy ta có thể thay các danh từ bị lặp
lại đó bằng các đại từ thích hợp:
Từ “con quạ” có thể thay bằng đại từ “nó”.
Từ “Tấm” có thể thay bằng từ “nàng”.
* Đối với dạng bài: “Xác định chức vụ ngữ pháp của một từ loại khi nó
đứng ở những vị trí khác nhau".
VD: Xác định từ loại của từ thật thà và chỉ rõ nó giữ chức vụ ngữ pháp
trong câu.
a) Bạn Lan rất thật thà
b) Tính thật thà của bạn Lan khiến ai cũng mến.
c) Bạn Lan ăn nói thật thà dễ nghe.

d) Thật thà là phẩm chất đẹp đẽ của bạn Lan.
* Ở bài tập này, học sinh dựa vào ý nghĩa của từ để xác định “thật thà” là
tính từ.
- Ở câu a: từ giữ chức vụ vị ngữ
- Ở câu b: từ giữ chức vụ định ngữ
- Ở câu c: từ giữ chức vụ bổ ngữ
- Ở câu d: từ giữ chức vụ chủ ngữ
* Đối với dạng bài: “Hướng dẫn học sinh biết vận dụng từ loại để đặt câu”.
Ví dụ : Đặt một câu có tính từ làm vị ngữ và một câu có tính từ làm định ngữ.
- Ở bài tập này học sinh phải nắm vững kiến thức về từ loại và kiến thức
đặt câu và có thể đặt như sau
- Anh bộ đội rất dũng cảm.
- Bạn Lan có chiếc cặp mới.
VN
ĐN
* Đối với dạng bài: “Tổ chức các trò chơi để củng cố kiến thức từ loại”.
* Trò chơi thứ nhất: “ Ai nhanh, ai đúng”
- Chuẩn bị: Các băng giấy có ghi sẵn từ.
Hai bảng phụ có kẻ sẵn 3 cột : Danh từ, Động từ . Tính từ.
- Cách tiến hành: Chọn hai đội chơi, mỗi đội có 5 em, xếp hai hàng.
Đặt tên cho hai đội. Mỗi em sẽ nhặt một băng giấy và gắn vào cột từ loại.
Đội nào nhanh chính xác sẽ thắng. Các em khác cổ vũ cho hai đội chơi.
- Mục đích của trò chơi: củng cố kiến thứ từ loại, rèn tư duy nhanh.
* Trò chơi thứ hai:
VD1: “ Điền danh từ”
- Chuẩn bị hai bảng phụ có chép sẵn và các băng giấy có ghi các danh từ
cần điền: con diều, con sóng, con tàu, con thuyền, con mắt.
Các dòng thơ được chép sẵn trên bảng phụ:
12



……… cưỡi sóng ra khơi.
……… chao lượn ngang trời hè vui.
……… dừng lại sân ga.
Đầy vơi………… hiền hoà dòng sông
……… của sổ tâm hồn.
- Cách tiến hành:
Chọn 5 em một đội và có 2 đội thi. Nếu đội nào gắn các danh từ đúng và nhanh
sẽ thắng.
* Mục đích: Luyện điền nhanh danh từ dựa vào ý nghĩa của câu thơ.
VD2: “ Điền động từ”
Chuẩn bị
- Các động từ được ghi sẵn vào các băng giấy: vỗ, tha, nhuộm, đánh thức,
dậy, rải.
- Ghi vào 2 bảng phụ hoặc 2 tờ giấy to đoạn thơ:
“ Tiếng chim ……. lá cành
Tiếng chim …… chồi xanh … cùng
Tiếng chim …… cánh bầy ong
Tiếng chim …… nắng … đồng vàng thơm”
Cách tiến hành: Chọn 2 đội chơi, mỗi đội có 4 học sinh. Mỗi học sinh điền
một dòng thơ cho đúng. Sau đó mỗi đội cử một bạn đọc diễn cảm đoạn thơ, biết
nhấn mạnh vào các động từ vừa điền. Tính điểm mỗi đội có 2 phần:
- Điền nhanh, đúng.
- Đọc thơ hay.
* Mục đích của trò chơi: Luyện tập sử dụng động từ đúng chỗ nhằm hoàn
thiện nội dung đoạn thơ gợi tả tiếng chim buổi sớm và cảm nhận được cách
dùng từ sinh động trong đoạn thơ hay.
VD3: “ Điền tính từ”
Chuẩn bị:
- Ghi các tính từ chỉ màu trắng ra các băng giấy: trắng phau, trắng bệch,

trắng xoá, trắng hồng, trắng nõn, trắng bạc.
- Viết các câu có chỗ trống trên bảng phụ.
Giáo viên gắn các từ nhưng sai ý nghĩa vào chỗ trống (2 bảng gắn các từ
khác nhau)
Tuyết rơi trắng phau một màu
Vườn chim chiều xế trắng xóa cánh cò
Da trắng bệch người ốm o
Bé khoẻ đôi má non tơ trắng bệch
Sợi len trắng hồng như bông
Làn mây trắng nõn bồng bềnh trời xanh.
Cách tiến hành: Chọn 2 đội chơi, mỗi đội có 6 em. Mỗi em lên sửa lại một
câu. Nếu còn thời gian các em vẫn liên tiếp lên sửa lại cho đến khi hết giờ.
Đáp án:
Tuyết rơi trắng xoá một màu
Vườn chim chiều xế trắng phau cánh cò
Da trắng bệch người ốm o
Bé khoẻ đôi má non tơ trắng hồng
13


Sơn len trắng nõn như bông
Làn mây trắng bệch bồng bềnh trời xanh.
- Mục đích: Luyện cách dùng tính từ chỉ màu trắng với các sắc độ khác
nhau có tác dụng gợi tả. Làm giàu vốn từ chỉ màu trắng thường dùng trong các
đoạn văn miêu tả
2.4. Hiệu quả của sáng kiến có so sánh đối chứng
Sau một thời gian áp dụng kinh nghiệm, bằng việc cung cấp kiến thức cơ
bản về từ loại và học sinh được thực hành các dạng bài tập về xác định và sử
dụng từ loại đối với học sinh lớp 5A, tôi nhận thấy:
1. Học sinh đã nắm vững về khái niệm từ loại.

2. Phân biệt các từ loại cơ bản: danh từ, động từ, tính từ nhanh, chính xác,
ít bị nhầm lẫn.
3. Biết sử dụng các từ loại trong câu văn đúng chỗ.
4. Tự tin, hào hứng khi học đến phần này.
5. Kết quả môn Tiếng Việt được nâng cao, đặc biệt các em nhạy bén trong
việc tìm từ mới qua từ cho sẵn. Kết quả kiểm tra đối chứng thể hiện như sau:
Thời gian
kiểm tra

Lớp

Tống
số học
sinh

Hoàn thành
tốt
SL
%

Kết quả
Hoàn thành
SL

%

Chưa hoàn
thành
SL
%


Đầu học kỳ I
(tháng 9/2019)

5A

40

18

45

12

30

10

Giữa học kỳ II
(tháng 3/2020)

5A

40

28

70

12


30

0

25

Với kết quả đạt được như vậy, có thể khẳng định rằng kinh nghiệm: "Các
giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 thực hành tốt từ loại Tiếng Việt trong
chương trình tiểu học"được tôi áp dụng với học sinh lớp 5A Trường Tiểu học
Nguyễn Văn Trỗi đã thành công và đem lại kết quả tốt đẹp
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu và quá trình thực tế tổ chức Dạy học cho học sinh
lớp 5A tôi thấy rằng, để dạy tốt môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện
từ và câu nói riêng đặc biệt là phần từ loại đòi hỏi giáo viên phải có vốn từ rộng,
tích luỹ vốn sống, kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn thì mới dạy tốt phần
này, đáp ứng yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy. Ngoài ra, nó đòi hỏi giáo
viên phải có đức tính kiên trì, thực hiện thường xuyên, tế nhị và yêu nghề để có
thể tìm hiểu sâu sắc từng đối tượng học sinh, và thương yêu các em với một tình
cảm chân thành. Cần có cách rèn luyện nhẹ nhàng, chừng mực với từng đối
tượng, thể hiện sự quan tâm với các em, qua đó tạo cho các em tin tưởng tuyệt
đối với giáo viên. Hơn thế nữa Giáo viên cần phải:
+ Nghiên cứu bài thật kỹ trước khi dạy.
+ Giáo viên phải nắm vững chương trình, kiến thức, nội dung cần dạy cho
học sinh.
14


+ Giáo viên cần biết lựa chọn những phương pháp dạy học, các hình thức

tổ chức dạy học linh hoạt cho phù hợp với nội dung của bài dạy và chủ điểm của
bài học đó để hấp dẫn học sinh nhằm đạt kết quả cao trong giờ học mà học sinh
không nhàm chán.
+ Đồ dùng dạy học cần chuẩn bị đa dạng phong phú càng nhiều vật thật
càng tốt.
+ Giáo viên chịu khó sưu tầm hoặc sáng tác các bài thơ, câu đố vui liên
quan đến bài học để làm phong phú và sinh động thêm bài học.
+ Giáo viên cần có những hình thức động viên kịp thời đối với những học
sinh có tiến bộ.
+ Bài giảng phải phát huy tối đa tính tích cực, chủ động của học sinh trong
học tập.
+ Giáo viên phải là người khơi dậy niềm say mê hứng thú với phân môn
Luyện từ và câu nói riêng, môn Tiếng Việt nói chung, luôn phối hợp với gia đình
để tạo điều kiện tốt nhất cho các em tham gia học tập. Hơn thế nữa, lớp 5 là lớp
cuối cấp của bậc Tiểu học. Vì vậy các em cần có kiến thức vững chắc về từ loại
Tiếng Việt để có thể học tốt ở trung học cơ sở. Là một giáo viên Tiểu học, tôi đã
lưu ý nghiên cứu nội dung và phương pháp truyền thụ, có một hệ thống các bài
tập giúp học sinh thực hành để củng cố kiến thức này. Đặc biệt luôn phải lấy học
sinh làm trung tâm, khuyến khích các em tìm tòi và tự rút ra những kết luận cho
mình. Có như vậy, các em mới nhớ kỹ, nhớ lâu những kiến thức mới khám phá.
Đặc biệt, tôi rất chú ý thời điểm và thời lượng tung ra các dạng bài tập phù hợp
đồng thời đưa hình thức trò chơi học tập vào đúng lúc. Vì vậy nên bước đầu có
những kết quả cụ thể trong chất lượng học tập môn Tiếng Việt của học sinh.
3.2. Kiến nghị
Để việc thực hiện dạy học ở môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện
từ và câu nói riêng đặc biệt là phần dạy từ loại được hiệu quả cần có thêm sự hỗ
trợ sau:
Đối với Phòng giáo dục: Lãnh đạo Phòng GD & ĐT cần tổ chức tập huấn
và xây dựng các giờ dạy mẫu về từ loại để giáo viên học hỏi kinh nghiệm, nâng
cao chất lượng giảng dạy, giúp học sinh tiếp thu bài tốt hơn.

Đối với nhà trường: Nhà trường cần tổ chức các giờ dạy mẫu, các buổi
sinh hoạt chuyên đề về từ loại để giáo viên học hỏi và nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn.
Đối với giáo viên: Giáo viên phải có lòng yêu nghề, tâm huyết với công
việc giảng dạy của mình. Phải suy nghĩ tìm tòi và sáng tạo phương pháp dạy học
mới tạo được sự thân thiện và sự hứng thú tích cực của học sinh. Phải thường
xuyên thay đổi không khí lớp học bằng cách tổ chức các trò chơi học tập
Đối với phụ huynh học sinh: Cần phải trang bị đầy đủ đồ dùng học tập
cho con em mình, thường xuyên nhắc nhở các cháu học thuộc ghi nhớ và hoàn
thành các bài tập trên lớp cũng như ở nhà. Ngoài ra, còn cho các cháu đọc thêm
các tài liệu tham khảo, làm thêm các bài tập ngoài sách .
Trên đây là một số vấn đề tôi đã suy nghĩ, học hỏi và thể hiện trong quá
trình giảng dạy, đặc biệt là từ loại. Tôi rất mong được sự nhận xét, góp ý của các
đồng chí, đồng nghiệp để giúp đỡ tôi hoàn thành tốt hơn nữa trọng trách của
15


người giáo viên trong “Sự nghiệp trồng người”.
XÁC NHẬN CỦA BGH
NHÀ TRƯỜNG

Thanh Hoá, ngày 25 tháng 5 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Doãn Thị Huyền

16



MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng về việc dạy Tiếng Việt ở trường Tiểu học
2.3. Các giái pháp và tổ chức thực hiện
2.4. Hiệu quả của sáng kiến có so sánh đối chứng
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận
3.2. Đề xuất

Trang
1
2
2
2
2
3
6
14
14
15

17



SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIẢI PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 5
THỰC HÀNH VỀ TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT

Người thực hiện: Doãn Thị Huyền
Chức vụ : Giáo viên
Chức vụ: Trường TH Nguyễn Văn Trỗi
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2020
18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhóm tài liệu của Dự án Oxfam, Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn PEDC.
2. Trò chơi học tập cấp tiểu học - Nhà Xuất bản Đại học sư phạm
3. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm - Nhà Xuất bản Đại học sư phạm
4. Hoàng Trung Thông, Đỗ Xuân Thảo (Chủ biên), “Rèn kĩ năng thực hành
Tiếng Việt”, Nhà xuất bản Giáo dục.
5. Lê Phương Nga “Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”, Nhà xuất bản
ĐHQG Hà Nội
6. Trần Mạnh Hưởng, Nguyễn Thị Hạnh, Lê Phương Nga, “Trò chơi học tập

Tiếng Việt” Nhà xuất bản Thanh niên (2004)
7. Nguyễn Minh Thuyết “Hỏi đáp về dạy Tiếng Việt 5”, Nhà xuất bản Giáo dục
8. SGK, Sách thiết kế bài dạy Tiếng Việt 5, Nhà xuất bản Giáo dục.
9. Phương Anh, “Vui chơi và sự phát triển của trẻ”, Báo Khoa học & Đời sống
(2006)
10. Bạch Văn Quế, “Giáo dục bằng trò chơi”, Nhà xuất bản Thanh niên (2002).
11. Tạp chí giáo dục Tiểu học 12. Tạp trì văn học tuổi trẻ
.

19



×