Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Một số phương pháp giải các bài tập thực nghiệm môn vật lí ở bậc THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.61 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢI CÁC BÀI TẬP
THỰC NGHIỆM MÔN VẬT LÍ Ở BẬC THCS

Người thực hiện: Lê Xuân Quang
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Thị Trấn
SKKN thuộc môn: Vật lí

THANH HÓA, NĂM 2020


1
Mục lục
Nội dung

Tran
g
1. Mở đầu
2
1.1. Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3


1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
4
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
4
2.1.1. Các khái niệm đo lường trong Vật lí
4
2.1.2. Các bước tiến hành thực hiện bài đo thực
5
nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
5
kinh nghiệm
2.2.1. Thuận lợi
5
2.2.2. Khó khăn
5
2.2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng trước khi sử dụng
6
phương pháp
2.2.4. Đánh giá thực trạng
7
2.3. Giải pháp thực hiện
7
2.3.1. Nội dung của phương pháp
7
2.3.2. Các dạng bài tập thực nghiệm thường gặp
8
Dạng 1: Đo khối lượng

8
Dạng 2: Đo thể tích
10
Dạng 3: Xác định trọng lượng riêng, khối lượng
11
riêng
Dạng 4: Đo chiều dài, đường kính, diện tích
14
Dạng 5: Đo nhiệt dung riêng
16
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
17
2.4.1. Đánh giá hiệu quả của các giải pháp
17
2.4.2. Kết luận
19
3. Kết luận, kiến nghị
19
3.1. Kết luận
19
3.2. Kiến nghị
19
Tài liệu tham khảo


2
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Vật lí là một bộ môn khoa học thực nghiệm, làm thế nào
để dạy học tốt môn này ở bậc trung học cơ sở (THCS), đồng thời

bắt kịp được những đổi mới trong chương trình sách giáo khoa
(SGK) năm mới, đó là trăn trở của các giáo viên dạy học Vật lí
hiện nay. Đặc biệt khả năng đáp ứng các yêu cầu cuộc sống,
vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống thực tiễn là
những hạn chế của học sinh hiện nay. Ở bậc THPT, chương trình
thi đại học dần đưa những yêu cầu về thi thực nghiệm vào các
dạng đề thi đại học. Vì vậy, việc định hướng cho học sinh từ bậc
THCS về thí nghiệm là rất quan trọng.
Vật lí là một môn tương đối khó so với các môn học khác,
đòi hỏi phải có kiến thức cơ bản về Toán học; đồng thời là một
môn khoa học tương đối đặc thù liên quan đến hiện tượng và
các quy luật tự nhiên tương đối nhiều. Để dạy học tốt môn Vật
lí, học sinh tiếp thu tốt môn học này, đòi hỏi giáo viên phải có
óc quan sát nhất định, giáo dục cho học sinh cách thức làm thế
nào để quan sát được các hiện tượng theo quy luật, đúc kết ra
được những kết luận nhất định gắn trực tiếp với lý thuyết được
học.
Nhiều giáo viên phổ thông đang hướng học sinh nhầm lẫn
hình thức giữa Vật lí và Toán học, tức là chỉ cung cấp cho các
em các tư liệu về công thức mà không làm rõ bản chất Vật lí.
Muốn dạy tốt môn Vật lí THCS, cung cấp cho học sinh cách thức
quan sát được hiện tượng tốt nhất, giáo viên phải biết hình thức
hóa các bài toán đó bằng các thí nghiệm có sẵn.
Theo tôi được biết, hệ thống thí nghiệm của các trường
phổ thông hiện nay tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, để dùng
các thí nghiệm đó giáo dục trực quan hiệu quả cho học sinh thì
có lẽ chưa nhiều giáo viên làm được. Nên mới xảy ra tình trạng
có nơi các bộ thí nghiệm được mua về nhưng lại không dùng. Lý
do vì chúng ta cần rất nhiều thời gian để chuẩn bị cho một bài
thí nghiệm, trong khi một tiết học chỉ có 45 phút với đầy đủ từ

hỏi bài cũ, giới thiệu bài mới, từ đặt vấn đề đến giải quyết vấn
đề bài mới...
Sử dụng thí nghiệm trong dạy học Vật lí ở trường phổ
thông không chỉ là công việc bắt buộc, mà nó còn là một trong
những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng dạy học,
góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Một
trong những tác dụng của thí nghiệm Vật lí là tạo ra sự trực
quan sinh động trước mắt học sinh; có tác dụng giúp việc dạy


3
học Vật lí tránh giáo điều, hình thức; góp phần giúp học sinh
củng cố niềm tin khoa học, hình thành thế giới quan duy vật
biện chứng cho học sinh.
Tháng 7/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phát
triển Vật lí ở Việt Nam, cũng có các quỹ dành cho sự phát triển
đó, chúng ta cần xây dựng một đội ngũ đưa kiến thức thực tiễn
vào cho học sinh. Lúc đó, học sinh sẽ có cảm giác hứng thú hơn
với môn học, thay vì việc chỉ biết áp dụng các công thức tính
toán mà không giải quyết được vấn đề gốc hay hiểu bản chất
Vật lí như thế nào, sinh ra những hiện tượng luận nào.
Sử dụng các bộ thí nghiệm trong dạy và học Vật lí ở trường
THCS là hoạt động thường xuyên của mỗi giáo viên dạy Vật lí.
Song để khai thác tốt các bộ thí nghiệm này để góp phần vào
nâng cao chất lượng dạy học bộ môn thì không nhiều người làm
được và không thường xuyên làm được.
Thực tế, môn Vật lí khi xây dựng nội dung chương trình đã
có SGK, đồng thời cũng có sẵn các bộ thí nghiệm gắn liền với
chủ đề của từng bài giảng, nên giáo viên gần như không phải
chuẩn bị gì vì hầu như các trường đều có sẵn. Việc còn lại là

giáo viên có muốn dùng để giảng dạy hay không.
Dù vậy, nhưng ngoài các thí nghiệm có sẵn, giáo viên cũng
cần hướng dẫn học sinh những hiện tượng luận trong tự nhiên
để các em có thể tự làm được các thí nghiệm, xem như đó là
một phần thành quả của học sinh trong quá trình nghiên cứu
môn học.
Tôi nghĩ, để quá trình giảng dạy môn Vật lí phổ thông được
tốt hơn, chúng ta cần có thêm nhiều thời gian dành cho thực
nghiệm, ngoài việc học trên lớp, học sinh cần có thêm một
lượng giờ nhất định nào đó để hoàn thiện các bài toán về thí
nghiệm, coi thí nghiệm là một phần của môn Vật lí. Xin nhấn
mạnh lại, để giáo viên dạy tốt và học sinh tiếp thu tốt môn Vật
lí, cần phải có thực nghiệm và đưa thực nghiệm đó vào môn học
là cần thiết đối với chương trình phổ thông.
Vai trò của thực nghiệm là rất quan trong đối với dạy học
Vật lí ở nhà trường, với sự phát triển tư duy khoa học của học
sinh. Các bài tập về thực nghiệm chưa được giáo viên đầu tư
nghiên cứu, phát triển cho học sinh trong các kì thi, chuyên đề.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết tôi đã chọn “một số
phương pháp giải các bài tập thực nghiệm môn Vật lí ở bậc
THCS” làm đề tài nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu


4
Giúp học sinh nuôi dưỡng, phát triển năng lực cá nhân,
khơi dậy và phát huy sớm niềm đam mê khoa học, góp phần
nhỏ trong việc đào tạo nhân tài cho đất nước.
- Phát triển tư duy biện chứng khoa học, hình thành niềm
đam mê khoa học, giúp học sinh có nhiều kĩ năng vận dụng kiến

thức Vật lí vào cuộc sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng việc giải các bài tập thực nghiệm
của học sinh khối 6 và khối 8 trường THCS thị trấn Thường
Xuân, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa từ đó đề xuất các
giải pháp giải quyết vấn đề nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý
luận để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm phương
pháp lý luận có các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực
tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm phương
pháp nghiên cứu thực tiễn có các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;
- Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Các khái niệm đo lường trong Vật lí
a. Khối lượng (m):
- Khái niệm : là lượng chất chứa trong vật.
- Đơn vị đo : Đơn vị đo khối lượng là ki lô gam, kí hiệu kg.
- Dụng cụ đo khối lượng : Cân
b. Thể tích (V):
- Khái niệm : Thể tích, hay dung tích, của một vật là

lượng không gian mà vật ấy chiếm. Thể tích có đơn vị đo là lập
phương của khoảng cách (khoảng cách mũ 3).
- Đơn vị đo: Trong hệ đo lường quốc tế, do đơn vị đo
của khoảng cách là mét, đơn vị đo của thể tích là mét khối, ký
hiệu là m³.
- Dụng cụ đo thể tích: Bình chia độ, những dụng cụ có tác
dụng như bình chia độ.


5
c. Khối lượng riêng (D):
- Khái niệm : là khối lượng của một mét khối chất.
- Đơn vị đo khối lượng riêng : kg/m3
- Dụng cụ đo khối lượng riêng : đo khối lượng, đo thể tích
chất. Xác định khối lượng riêng của một chất theo công thức :
D là khối lượng riêng (kg/m3)
m là khối lượng của vật (kg)
V là thể tích của vật (m3)
d. Trọng lượng riêng (d) :
- Khái niệm : Trọng lượng của một mét khối chất.
- Đơn vị đo : N/m3
- Dụng cụ đo : Có thể đo gián tiếp theo công thức sau :
Trong đó :

d là trọng lượng riêng (N/m3)
m là khối lượng của vật (kg)
V là thể tích của vật (m3)
P là trọng lượng của vật (N)
e. Nhiệt dung riêng (c) :
- Khái niệm : Nhiệt dung riêng của một chất cho biết nhiệt

lượng cần truyền cho 1kg chất đó để nhiệt độ tăng thêm 1 oC
(1K).
- Đơn vị đo : J/kg.độ hoặc J/kg.K
- Dụng cụ đo : Đo một cách gián tiếp.
g. Độ dài (l)
:
- Khái niệm : là khái niệm cơ bản chỉ trình tự của
các điểm dọc theo một đường nằm trong không gian và đo
lượng (nhiều hay ít) mà điểm này nằm trước hoặc sau điểm kia.
Trong ngôn ngữ thông dụng, chiều dài là một trường hợp
của khoảng cách.
- Đơn vị đo : mét (m)
- Dụng cụ đo : Thước
2.1.2. Các bước tiến hành thực hiện bài đo thực nghiệm
a. Bước 1 : Cơ sở lí thuyết của phép đo :
- Phân tích cách thức thực hiện phép đo các đại lượng thực
nghiệm.
- Tìm mối liên hệ giữa các dụng cụ đã cho và các đại lượng
vật lí có liên quan.
- Biến đổi, tìm ra công thức tính đại lượng thực nghiệm.
b. Bước 2 : Các bước tiến hành thí nghiệm :
- Thực hiện các bước thí nhiệm để đo các đại lượng vật lí
trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến đại lượng cần đo.
Trong đó :


6
- Chú ý đến việc tiến hành thí nghiệm theo đúng cách đo,
chú ý đến cách thực hiện để đem lại hiệu quả cao, phép đo
chính xác.

- Áp dụng công thức để tính giá trị đại lượng cần đo.
c. Bước 3 : Đánh giá sai số của phép đo :
- Sai số liên quan đến dụng cụ đo.
- Sai số liên quan đến người đo.
- Sai số liên quan đến việc tính toán.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.2.1. Thuận lợi
Học sinh THCS nói chung và học sinh THCS Thị trấn nói
riêng có những thuận lợi trong quá trình giảng dạy, giúp thầy và
trò hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học được thể hiện ở những
mặt sau :
- Được sự quan tâm của nhà trường, phân công giảng dạy
đúng chuyên môn, được tham gia các lớp tập huấn chuyên môn
do Phòng và Sở GDĐT tổ chức.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình
trong công tác.
- Học sinh chấp hành khá tốt nội qui nhà trường, được
trang bị đầy đủ SGK.
- Về cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư xây dựng theo
hướng kiên cố hóa; trường, lớp khang trang, thoáng mát tạo
điều kiện tốt cho việc học tập, sinh hoạt và vui chơi giải trí.
2.2.2. Khó khăn
Tuy có nhiều thuận lợi nhưng trên địa bàn của huyện miền
núi khó khăn, điều kiện dạy và học còn gặp rất nhiều khó khăn,
nhất là đối với môn học tự nhiên như môn Vật lí. Các khó khăn
ảnh hưởng rất nhiều đến việc nâng cao chất lượng dạy và học
của nhà trường, thể hiện ở những mặt sau :
- Do nhiều lý do nên giáo viên vẫn còn dạy học theo lối
truyền thống, truyền thụ kiến thức theo lối một chiều, chưa

mạnh dạn trong việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH). Một
số giáo viên có ý thức đổi mới PPDH nhưng chỉ mang tính đối
phó khi có thao giảng, dự giờ, kiểm tra.
- Trong quá trình dạy học còn nặng về truyền thụ lý thuyết,
ít vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống, ít cho học sinh
thực hành thí nghiệm mà chủ yếu là thí nghiệm biểu diễn của
giáo viên.
- Một bộ phận học sinh có ý thức tự học còn thấp, năng lực
tiếp thu bài chưa tốt để có thể học tập tốt nội dung giáo viên


7
truyền thụ và có thể trả lời tốt các câu hỏi của giáo viên. Vẫn
còn một số học sinh thiếu tôn trọng đối với giáo viên, tỏ thái độ
không tốt khi được giáo viên nhắc nhở.
- Phương pháp học tập của học sinh chưa phù hợp với đặc
thù bộ môn, thụ động trong học tập, tái hiện một cách máy móc
dập khuôn những gì giáo viên giảng, lười suy nghĩ tìm tòi sáng
tạo.
- Còn nhiều học sinh chưa chú tâm vào việc thực hiện
nhiệm vụ của giáo viên giao trên lớp, làm bài tập ở nhà, lười suy
nghĩ, lười chép bài hoặc chép qua loa cho có lệ. Đa số học sinh
không học bài cũ, không nghiên cứu bài mới trước khi đến lớp.
- Nhiều học sinh mất căn bản về kiến thức toán học nên
khi gặp những bài toán khó có liên quan nhiều đến kiến thức
toán học thì các em lại không làm bài được. Từ đó dẫn đến chất
lượng học tập Vật lí của các em thấp.
- Một bộ phận gia đình học sinh chưa quan tâm nhiều đến
việc học tập của các em, thiếu sự phối hợp với nhà trường trong
việc giáo dục con em mình.

2.2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng trước khi sử dụng
phương pháp
Để nghiên cứu thực trạng vấn đề nghiên cứu, tôi đã tiến
hành khảo sát trên học sinh bậc THCS ở trường THCS Thị trấn
Thường Xuân, kết quả đạt được như sau :
Kết quả học tập của học sinh đối với bài thực hành thí
nghiệm đầu năm học 2019-2020.
Kết quả
Điểm
bài
kiểm
tra
thực hành.
Kết quả
Điểm
bài
kiểm
tra
thực hành.

Khối 6 – Sĩ số : 94
Giỏi
Khá
Trung bình
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ

12

12,7
%

23

24,4
%

28

29,7
%

Khối 8 - Sĩ số : 95
Giỏi
Khá
Trung bình
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
15

15,7
%


20

21,1
%

35

36,8
%

Yếu, kém
SL
Tỉ lệ
31

32,2
%

Yếu, kém
SL
Tỉ lệ
25

26,4
%

Kết quả thống kê các kĩ năng của học sinh đạt được trong
bài thực hành thí nghiệm. Khối 6, sĩ số 94 học sinh; khối 8, sĩ số
95 học sinh.
Mức độ thực hiện


Kết quả đạt được


8
Số
lượn
các kĩ năng cơ bản
g
trong các bài thực hoàn
hành Vật lí
thàn
h rất
tốt
Kĩ năng đọc các giá
trị của thiết bị thực
27
hành
Kĩ năng bố trí các
thiết bị thí nghiệm
30
trong bài thực hành.
Kĩ năng hoàn thành
báo cáo thí nghiệm
30
thực hành
Kĩ năng giải quyết các
tình huống thực tiễn
33
đối với môn Vật lí.

Kĩ năng hợp tác và
66
làm việc nhóm

Tỉ
lệ
(%)

Số
lượn
g
chưa
hoàn
thàn
h

Tỉ
lệ
(%)

60

31,
7

60

31,
7


21,
1

59

31,
2

60

31,
7

45

23,
8

52

27,
5

62

32,
7

17,
4


40

21,
1

60

31,
7

56

29,
8

34,
9

32

17,
1

40

21,
1

51


26,
9

Tỉ
lệ
(%)

Số
lượn
g
hoàn
thàn
h

Tỉ
lệ
(%)

Số
lượng
hoàn
thành
một
phần

14,
4

42


22,
2

16

40

16

2.2.4. Đánh giá thực trạng
Bài tập thực nghiệm luôn là một vấn đề khó trong dạy học Vật lí không
phải riêng cho bậc THCS, mà nó là một vấn đề nan giải cho các cấp học, đặc
biệt hơn ở những chương trình học phát triển năng lực người học. Vốn Vật lí là
môn học khó, học sinh ngại học, giáo viên thì ngại dạy vì kèm theo rất nhiều thí
nghiệm, kĩ năng mềm và phải cập nhật liên tục. Đặc biệt hơn giáo dục miền núi
đang gặp nhiều khó khăn nhất là những trang bị cho người học trong giai đoạn
mới. Hầu hết học sinh bậc THCS không tự mình nối được một bảng điện, hay
không thể dùng các kiến thức đã được học về phục vụ cuộc sống hằng ngày. Đây
là một thực trạng rất đáng lo ngại trong giai đoạn hiện nay, khi kĩ năng đang cần
hơn và giúp con người thành công hơn là kiến thức hàn lâm. Thực trạng trên
theo tôi nguyên nhân nằm ở những vấn đề cơ bản như sau:
- Học sinh chưa được học tập theo hướng tích cực, chất
lượng các bài thực hành còn thấp, đặc biệt là học sinh khối 6
chưa có tư duy về khoa học thực nghiệm.
- Bản thân học sinh vẫn còn thiếu sáng tạo, chưa thấy rõ
vai trò của các môn học thực nghiệm trong nhà trường.
- Chương trình học còn hạn chế, thiếu tính mở, nhà trường
vẫn chỉ dựa vào sách giáo khoa để đánh giá quá trình dạy học
nên làm hạn chế tính sáng tạo của giáo viên. Qua các bài học

vẫn chưa trang bị đầy đủ các kĩ năng cho học sinh.
- Chất lượng, số lượng thiết bị thiếu thốn, xuống cấp do
nhiều năm đầu tư và thiếu sự đầu tư, bổ sung thường xuyên.
2.3. Giải pháp thực hiện


9
2.3.1. Nội dung của phương pháp
Phương pháp đo các bài thực nghiệm được phân loại, sắp
xếp theo trật tự logic nhất định. Các đại lượng đo trực tiếp được
sắp xếp cho học sinh làm quen, thực hành trước khi tiến hành
đo các đại lượng gián tiếp. Mỗi dụng cụ có cách sử dụng khác
nhau, được sản xuất theo từng thời kì lịch sử nên việc cập nhật
cách sử dụng là rất quan trọng đối với giáo viên. Hơn nữa các
bài thực hành cần có phòng chức năng, cần sự chuẩn bị trước
về dụng cụ nên các nhà trường cần được bổ sung đầy đủ các bộ
phụ trách thí nghiệm. Theo chương trình Vật lí bậc THCS có thể
phân loại, sắp xếp chúng thành các dạng cơ bản như sau:
2.3.2. Các dạng bài tập thực nghiệm thường gặp
Dạng 1: Đo khối lượng
Có thể dùng các phương pháp sau:
l1
l2
- Dùng cân.
O
- Dùng lực kế.
- Hoặc dùng điều kiện cân bằng của
đòn bẩy.
* Cách đo khối lượng bằng đòn bẩy
- Biến đổi phương, chiều và độ lớn của lực.

- Đòn bẩy cân bằng khi các lực tỉ lệ nghịch với cánh tay
đòn.
Trong đó: là cánh tay đòn của P và F (cánh tay đòn là khoảng
cách từ điểm tựa đến phương của lực)
* Cách đo khối lượng bằng lực kế
- Lực đàn hồi xuất hiện khi lò xo biến dạng.
- Độ lớn của lực đàn hồi tỉ lệ với độ biến dạng của lò xo.
- Cách đo khối lượng bằng lò xo:
+ Treo vật vào lực kế đặt trong không khí, lực kế chỉ: P
(trọng lượng)
+ Nhúng vật vào chất lỏng có lực đẩy acsimet: F A
+ Độ lớn của lực đàn hồi là:
Biết được hai đại lượng ta có thể xác định được khối lượng
của vật.
* Bài tập minh hoạ
Bài tập 1: Đo khối lượng khối gỗ. Dụng cụ gồm: Giá thí nghiệm;
Đòn bẩy, có chia chiều dài theo milimet; Lực kế có giới hạn đo
nhỏ hơn trọng lượng của khối gỗ.
Giải:
Bước 1: Cơ sở lí thuyết:


10
- Phân tích: Khối lượng có thể đo trực tiếp bằng cân hoặc
lực kế, nhưng do dụng cụ không có cân. Mặt khác, lực kế có giới
hạn đo nhỏ hơn trọng lượng của khối gỗ, không thể đo khối
lượng một cách trực tiếp.
- Dụng cụ đo có đòn bẩy, vậy có thể dùng đòn bẩy để đo
khối lượng một cách gián tiếp.
l1

l2
Bước 2: Các bước tiến hành:
O
- Móc khối gỗ vào một đầu đòn bẩy,
móc lực kế vào đầu còn lại, sao cho cánh
tay đòn phía lực kế dài hơn bên phía trọng
Hình 1
lực (hình 1)
- Thanh cân bằng nằm ngang khi:
- Khối lượng của vật là:
- Dựa trên điều kiện cân bằng, ta phải xê dịch vị trí của
khối gỗ sao cho cách vị trí trọng tâm O xa hơn so với lực kế.
- Chú ý: Dù thanh có khối lượng hay không thì phép đo
vẫn đúng khi ta đặt điểm tựa là trọng tâm O của thanh.
Bước 3: Đánh giá sai số:
- Sai số do người quan sát không nhìn vuông góc với vạch
chia của đòn bẩy, vạch chia của lực kế.
- Sai số do không chọn điểm tựa là trọng tâm của thanh,
trọng lượng của thanh sẽ ảnh hưởng đến độ chính xác của phép
đo.
Bài tập 2: Đo khối lượng cây thước. Dụng cụ: Quả cân, cái nêm
để tạo điểm tựa và thước cần đo khối lượng.
Giải:
Bước 1: Cơ sở lí thuyết:
- Phân tích: Khối lượng có thể đo trực tiếp bằng cân hoặc
lực kế, nhưng do dụng cụ không có cân, không có lực kế, không
thể đo khối lượng một cách trực tiếp.
- Dụng cụ đo không có đòn bẩy, nhưng thước cần đo khối
lượng có thể dùng làm đòn bẩy, vậy có thể dùng đòn bẩy để đo
khối lượng một cách gián tiếp.

Bước 2: Các bước tiến hành:
l1
l2
- Đặt thước trên nêm, xê dịch thước sao
O
G
.
cho thước nằm thăng bằng, đánh dấu vị trí
Hình 2
trọng tâm của thước tại G (điểm đặt trọng
lực của thước).
- Đặt 1 quả cân lên một đầu thước, xê dịch thước để xác
định vị trí điểm tựa O sao cho thước nằm ngang thăng bằng.


11
- Dùng thước đo khoảng cách từ O đến quả cân là l1, đo
khoảng cách từ O đến G là l2 (hình 2).
- Thanh cân bằng nằm ngang khi:
Trong đó: lần lượt là khối lượng của thước và của quả cân.
Bước 3: Đánh giá sai số:
- Sai số do người quan sát không nhìn vuông góc với vạch
chia của đòn bẩy, vạch chia của lực kế.
- Do khi đo khoảng cách từ các điểm tựa, không đo từ tâm
của quả cân đến các vị trí đánh dấu.
* Bài tập vận dụng
Bài 1: Đo khối lượng của chiếc bút bi (gần đúng). Cho các dụng
cụ:
- Cân thăng bằng và quả cân 10 g.
- Bao diêm đầy chứa các que diêm có khối lượng rất gần

bằng nhau.
Bài 2: Em hãy xác định trọng lượng của một vật nhưng chỉ có
một lực kế lò xo có giới hạn nhỏ hơn nhiều so với trọng lượng
của vật. Hãy suy nghĩ xem cần có thêm dụng cụ đơn giản nào
để có thể dùng với lực kế xác định trọng lượng của một vật nói
trên.
Bài 3: Xác định khối lượng trung bình của một hạt thóc. Với
dụng cụ gồm: một ống nghiệm chia độ, một bình hình trụ đựng
nước, một nắm thóc.
Bài 4: Một lọ thuỷ tinh chứa đầy thuỷ ngân, được nút chặt bằng nút thuỷ tinh.
Hãy nêu phương án xác định khối lượng thuỷ ngân trong lọ mà không mở nút ra.
Biết khối lượng riêng của thuỷ ngân và thuỷ tinh lần lượt là D 1 và D2. Cho các
dụng cụ: cân, bình chia độ và nước.
Bài 5: Hãy tìm phương án xác định khối lượng của một thanh sắt nhỏ. Dụng cụ:
Đèn cồn; Bình đun; Cốc; Chậu nước; Nhiệt kế; Bình có chia độ; Nhiệt lượng kế
bằng đồng có khối lượng đã biết (có thể dùng bảng nhiệt dung riêng của các chất
ở các sách giáo khoa Vật lí).
Dạng 2: Đo thể tích
* Phương pháp:
- Dùng bình chia độ.
- Dùng bình tràn.
- Dùng một số dụng cụ kết hợp khác.
* Bài tập minh hoạ:
Bài tập 1: Cho các dụng cụ gồm: Cân, hộp quả cân, cốc nước
có khối lượng riêng D đã biết, một cốc cần xác định thể tích.
Hãy trình bày cách tiến hành xác định thể tích bên trong của
cốc.


12

Giải:
Bước 1: Cơ sở lí thuyết:
- Phân tích: Thể tích bên trong của cốc chính là thể tích
của nước chứa đầy trong cốc, thay vì đo thể tích bên trong của
cốc ta tiến hành đo thể tích của nước chứa đầy trong cốc.
- Nhận xét: Dụng cụ cho bao gồm: cân, quả cân, vì vậy
việc đo thể tích trực tiếp là không thể thực hiện được. Ta phải đo
thông qua phương pháp gián tiếp.
- Thể tích của cốc nước đầy:
(*)
Trong đó: m2, m1 lần lượt là khối của cốc chứa nước đầy và
khối lượng của cốc không chứa nước.
Bước 2: Các bước tiến hành:
- Dùng cân và hộp quả cân xác định khối lượng cốc là m 1.
- Đặt cốc thẳng đứng, đổ đầy nước vào cốc, dùng cân xác
định xác định khối lượng của cốc chứa đầy nước là m 2.
- Thay khối lượng riêng của nước là D, khối lượng m 1 và m2
vừa xác định vào công thức (*), ta xác định được thể tích bên
trong của cốc theo công thức (*).
Bước 3: Đánh giá sai số:
- Để chính xác ta phải đặt cốc thẳng đứng, rót nước vừa
tràn cốc.
- Cần chú ý điều chỉnh cân cho thật thăng bằng để đảm
bảo độ chính xác cao của thí nghiệm.
Bài tập 2: Trình bày cơ sở lí thuyết và cách tiến hành thí
nghiệm xác định thể tích của chiếc đục. Cho dụng cụ gồm: 1
thước gỗ thẳng, cứng loại 500 mm, 1 quả cân tuỳ chọn trong
hộp quả cân, một chiếc đục thép, 1 sợi dây, 1 bình nước.
Giải:
Bước 1: Cơ sở lí thuyết:

- Điều kiện cân bằng của đòn bẩy:
.
- Lực đẩy Acsimet:
- Điều kiện cân bằng khi có lực đẩy Acsimet:

Bước 2: Các bước tiến hành:
- Đặt thước gỗ trên bàn sao cho nửa thước nhô ra ngoài
bàn. Đặt quả cân có trọng lượng P 0 lên đầu thước trên mặt bàn
và dịch về phía trọng tâm thước đến khi thấy thước bắt đầu hơi


13
nghiêng. Đo l0 và l, biết m0 ta tính được khối lượng m của chiếc
đục thép bằng công thức:
- Giữ nguyên P0 và l0. Nhúng ngập chiếc đục vào nước chứa
trong bình hình trụ, điều chỉnh vị trí theo chiếc đục sao cho
thước bắt đầu chớm nghiêng được.
- Xác định hợp lực của trọng lực P của chiếc đục và lực đẩy
Acsimet:
F = P - FA.
- Điểm đặt ở cách trục quay một khoảng l’.
- Áp dụng công thức: để xác định thể tích của đục.
Bước 3: Đánh giá sai số:
- Việc xác định vị trí cân bằng của thước và vị trí thước bắt
đầu nghiêng là rất quan trọng trong việc xác định độ chính xác
của thí nghiệm. Vì vậy cần thực hiện thận trọng và từ từ.
- Chú ý trong việc đo chiều dài của cánh tay đòn để thí
nghiệm chính xác.
* Bài tập vận dụng:
Bài 1: Hãy đo thể tích của quả cân với các dụng cụ sau: Lực kế,

quả cân, cốc nước có khối lượng riêng Dn.
Bài 2: Xác định thể tích và bán kính của viên bi. Cho dụng cụ
gồm: Bình chia độ, dầu hoả, một số viên bi xe đạp cần xác định
thể tích và bán kính. Biết thể tích V của vật hình cầu và bán
kính R của nó liên hệ với nhau theo công thức .
Dạng 3: Xác định trọng lượng riêng, khối lượng riêng
* Phương pháp:
Bước 1: Xác định thể tích.
- Dùng bình chia độ hoặc ống nghiệm có chia thể tích để
xác định.
- Hoặc dùng ống nghiệm kết hợp với thước đo chiều dài để
xác định.
Bước 2: Xác định trọng lượng
- Dựa vào lực kế.
- Hoặc dựa vào điều kiện cân bằng và lực đẩy Ác si mét.
Bước 3: Vận dụng công thức tính khối lượng riêng và trọng
lượng riêng
- Khối lượng riêng:
- Trọng lượng riêng :
* Bài tập minh hoạ:
Bài tập 1: Trình bày phương án thí nghiệm xác định khối lượng riêng của
một mẫu kim loại được đặt bên trong một cục sáp của hai cục sáp cho trước, biết


14
khối lượng sáp trong hai cục sáp là như nhau. Không được lấy mẫu kim loại ra
khỏi cục sáp. Được phép dùng: cân và bộ quả cân, giá đỡ, dây treo, cốc đựng
nước không có độ chia, nước trong cốc đã biết khối lượng riêng.
Giải:
Bước 1: Cơ sở lí thuyết:

- Xác định khối lượng mẫu kim loại: Cân khối lượng của mỗi cục
sáp được các giá trị là: m1, m2. Khối lượng kim loại là:
m = m2 – m1 (giả sử m2 > m1)
- Xác định thể tích kim loại:
+ Dùng dây treo buộc cục sáp có khối lượng m 1 trên một đòn
cân, phía bên kia đặt các quả cân, đồng thời để cục sáp ngập
trong cốc nước. Thêm các quả cân sao cho cân thăng bằng, khi
đó trọng lượng các quả cân là P1. Ta có:
+ Làm tương tự với cục sáp thứ hai. Trọng lượng các quả cân là
P2. Ta có:
- Thể tích các mẫu sáp:
và (Trong đó là khối lượng riêng của nước)
- Thể tích của mẫu kim loại là:
V = V2 – V1
- Khối lượng riêng của kim loại là:
(*)
Bước 2: Các bước tiến hành:
- Dùng cân để xác định khối lượng m1, m2.
- Dùng cân kết hợp với điều kiện cân bằng của vật xác
định thể tích mẫu sáp từ đó xác định thể tích mẫu kim loại.
- Xác định khối lượng riêng của mẫu kim loại theo công
thức (*).
Bước 3: Đánh giá sai số:
- Bài tập này đo qua nhiều bước trung gian, chú ý các đại
lượng đo để giảm thiểu sai số.
- Chú ý phải nhúng chìm sáp vào nước để kết quả thí
nghiệm chính xác.
Bài tập 2: Xác định khối lượng riêng của dầu và dung dịch đồng sunfat bằng
một số phương pháp. Phương pháp nào cho kết quả chính xác nhất? Khối lượng
riêng của nước bằng 1000 kg/m3.

- Dụng cụ và vật liệu: Ống đo, cốc nước, dầu, dung dịch đồng sunfat, ống
nhỏ giọt, ống thủy tinh thẳng và hình chữ U, thước đo.
Giải:
Bước 1: Cơ sở lí thuyết:


15
Cách 1: Rót dầu và nước vào bình thông nhau như hình vẽ, ta có phương trình
cân bằng áp suất tại 2 điểm A, B:
PA = PB  d1h1 = d2h2  d2 = d1h1/h2
Phương pháp này thích hợp cho chất lỏng không trộn được vào nhau. Như vậy
không so sánh được khối lượng riêng của nước và
đồng sunfat. Để xác định khối lượng riêng của đồng
sunfat ta rót dầu và dung dịch đồng sunfat vào bình h1
thông nhau.
A B
Cách 2: Khảo sát điều kiện cân bằng của đòn bẩy. Vật h2
đo có thể là cái thước đặt trên bút chì.
Trên thước, một đầu đặt một cốc nhỏ, đầu kia cũng đặt một cốc nhỏ
nhưng chứa một lượng nước đã biết m1. Do thanh cân bằng ta có:
m.10.l1 = (m + m1).10.l2 
Lập cân bằng các cốc có thể tích V của nước và dầu bằng nhau:
(m + d1V).10.l’1 = (m + d2V).10.l’2
 d2 =
Cách 3: Phương pháp trên nhưng không cần đo khối
lượng các cốc, nếu ta lập cân bằng các cốc chứa chất
lỏng trên đòn cân có cách tay đòn bằng nhau. Muốn
l1
thể ta rót những lượng chất lỏng khác nhau xác định
l2

bởi độ cao h1, h2:
d1.S.h110 = d2.S.h2.10  d2 = d1h1/h2.
Bước 2: Các bước tiến hành:
- Cách 1: Áp dụng điều kiện cân bằng của bình thông nhau, dùng cho chất
lỏng không hoà vào nhau. Đo chiều cao các cột chất lỏng ở hai nhánh của bình.
- Cách 2: Dựa và điều kiện cân bằng của đòn bẩy. Đo chiều dài l1, l2 bằng
thước.
- Cách 3: Cũng dựa vào điều kiện cân bằng của đòn bẩy nhưng ở một cách
khai thác mới. Cho chiều dài cánh tay đòn giống nhau và chiều cao cột chất lỏng
h1, h2.
Bước 3: Đánh giá sai số:
- Có thể nâng cao độ chính xác nếu đầu tiên ta xác định khối lượng của
đồng sunfat đối với khối lượng riêng của nước và sau đó xác định khối lượng
riêng của dầu đối với khối lượng riêng của đồng sunfat.
- Chú ý để chất lỏng không bị hoà lẫn vào nhau, kết quả sẽ không chính
xác. Tốt hơn nên thực hiện theo cách 2, cách 3.
* Bài tập vận dụng:
Bài 1: Trình bày phương án thí nghiệm xác định khối lượng riêng D x của một
vật rắn (không thấm nước, không tan trong nước và không tác dụng hoá học với
nước). Cho các dụng cụ và vật liệu sau:
- Vật rắn nhỏ cần xác định khối lượng riêng;
- Một lực kế (có giới hạn đo phù hợp);


16
- Một cốc nước (biết khối lượng riêng của nước là Dn);
- Một quả nặng bằng kim loại; Dây buộc.
Bài 2: Cho các dụng cụ gồm:
+ Một ống thủy tinh hình chữ U; một thước có độ chia nhỏ nhất đến mm.
+ Một lọ nước, một lọ dầu; cho biết khối lượng riêng của nước.

Hãy trình bày và giải thích một phương án thí nghiệm để xác định khối
lượng riêng của dầu?
Bài 3: Một miếng cao su hình nón bán kính R có bề dày đồng nhất bằng h, nếu
thả vào nước thì chìm. Cho một ống nhựa rỗng hình trụ thành mỏng, bán kính r
(r < R); một bình nước và một thước đo chiều dài. Hãy trình bày một phương án
thí nghiệm để xác định khối lượng riêng của miếng cao su nói trên.
Bài 4: Hãy xác định khối lượng riêng của một viên sỏi. Cho các dụng cụ sau :
lực kế, sợi dây (khối lượng dây không đáng kể), bình có nước. Biết viên sỏi bỏ
lọt và ngập trong bình nước, trọng lượng riêng của nước là d0.
Bài 5: Một thanh gỗ thẳng dài có thể quay quanh trong một trục lắp cố định ở
một giá thí nghiệm, một thước chia tới milimet, một bình hình trụ lớn đựng nước
(đã biết khối lượng riêng của nước), một bình hình trụ lớn đựng dầu hoả, một lọ
nhỏ rỗng, một lọ chứa đầy cát có nút đậy kín bằng cao su, hai sợi dây. Hãy trình
bày một phương án thí nghiệm xác định khối lượng riêng của dầu hoả.
Bài 6: Trình bày cơ sở lí thuyết và cách tiến hành thí nghiệm đo khối lượng
riêng của cát khô (với độ chính xác cao nhất có thể). Cho dụng cụ gồm: Tấm gỗ
phẳng kích thước 60mm x 500mm x 5mm; 2 vỏ lon bia giống nhau bỏ nắp; 1
bình chia độ; 1 chai nước; 1 cốc đựng cát khô.
Bài 7: Cho các dụng cụ sau: Một bình lớn đựng nước có trọng lượng riêng d n,
thước milimet, một tờ giấy, một ống nghiệm thường được sử dụng trong các thí
nghiệm hóa học, cốc đựng nước đường cần đo khối lượng riêng.
a) Lập phương án đo khối lượng riêng của nước đường với các dụng cụ
trên.
b) Viết biểu thức khối lượng riêng của nước đường theo các số liệu đo
được.
Dạng 4: Đo chiều dài, đường kính, diện tích
* Phương pháp:
Đo chiều dài:
- Dụng cụ đo: Thước.
- Giới hạn đo (GHĐ) là độ dài lớn nhất ghi trên thước.

- Độ chia nhỏ nhất (ĐCNN) là độ dài của hai vạch chia liên
tiếp trên thước.
Đo diện tích:
- Trường hợp 1: Vật có hình dạng đặc biệt.
Vật có hình dạng như tam giác vuông, hình vuông, hình
chữ nhật: Dùng công thức tính diện tích:
+ Hình chữ nhật: S = a.b (a: Chiều dài, b: Chiều rộng).
+ Hình vuông: S = a2 (a: Chiều dài cạnh của hình vuông).


17
+ Hình tam giác vuông: S = (a, b: cạnh của hình vuông).
- Trường hợp 2: Đo diện tích hình phẳng dùng giấy kẻ ô
vuông.
+ Đặt vật muốn đo lên giấy kẻ ô vuông, mỗi ô vuông có
diện tích 1 cm2. Dùng bút chì kẻ đường viền trên bề mặt kẻ ô
vuông.
+ Diện tích của vật bằng tổng số ô vuông.
- Trường hợp 3: Xác định diện tích bằng cân. Vật có khối
lượng phân bố đều, có bề dày không đổi.
Trong đó: S0 là diện tích miếng bìa lớn hơn vật; m 0: khối
lượng mảnh bìa; m là khối lượng của vật có diện tích S.
* Bài tập minh hoạ:
Bài tập 1: Đo diện tích của chiếc lá. Dụng cụ: cân, kéo, tờ giấy
bìa có diện tích đã biết.
Giải:
Bước 1: Cơ sở lí thuyết:
- Xác định khối lượng của miếng bìa sau khi cắt bằng diện
tích chiếc lá, có khối lượng m.
- Xác định khối lượng mảnh bìa bằng cân, có khối lượng

m0.
- Áp dụng công thức: ta xác định được diện tích chiếc lá.
Bước 2: Các bước tiến hành:
- Đặt miếng bìa ban đầu lên cân, chỉ khối lượng m0.
- Đặt chiếc lá vào miếng bìa, vạch dấu và cắt miếng bìa
theo chiếc là, sao cho chúng có thể tích bằng nhau. Sau đó, đặt
miếng bìa vừa cắt lên cân, cân chỉ khối lượng m.
- Ta có diện tích của chiếc là bằng diện tích tấm bìa vừa
cắt.
.
Bước 3: Đánh giá sai số:
- Thí nghiệm chính xác hay không phụ thuộc vào việc cắt
miếng bìa. Do chiếc lá có khối lượng bé nên không thể đo trực
tiếp, hơn nữa ta nên chọn chất liệu miếng bìa dễ cắt và có diện
tích ban đầu thuận lợi cho tính toán.
- Sai số còn do chọn cân.
* Bài tập vận dụng:
Bài 1: Xác định đường kính sợi chỉ. Cho dụng cụ: 1 bút chì, 1 sợi
chỉ, 1 thước chia tới milimet.
Bài 2: Cho các dụng cụ sau:
- Hai khối trụ đồng chất hình dạng bên ngoài giống hệt nhau, có khối
lượng riêng nhỏ hơn khối lượng riêng của nước. Một khối đặc, một khối rỗng ở


18
giữa (kín hai đầu), lỗ rỗng hình trụ có trục trùng với trục của khối, chiều dài mỗi
lỗ bằng chiều dài của khối.
- Một thước đo thẳng.
- Một bình nước có khối lượng riêng là D.
Hãy trình bày và giải thích một phương án thực nghiệm để xác định:

a) Khối lượng riêng của chất cấu tạo nên các khối trên.
b) Bán kính lỗ rỗng của trụ rỗng.
Bài 3: Xác định đường kính của một sợi dây đồng. Cho dụng cụ: 1 bút chì, 1 sợi
chỉ, 1 thước chia tới milimét.
Bài 4: Xác định đường kính, chu vi quả bóng bàn. Cho dụng cụ: 1 sợi chỉ, 1
thước chia tới milimét, 1 băng giấy, 2 hộp diêm.
Bài 5: Xác định đường kính của một cây bút chì. Cho dụng cụ: 1 bút chì, 1 sợi
chỉ, 1 thước chia tới milimét.
Bài 6: Xác định diện tích nước Việt Nam trên bản đồ Việt Nam có ghi tỉ lệ xích
so sánh kết quả đạt được với diện tích ghi trên sách địa lí. Giải thích về sự sai
lệch giữa hai số liệu trên? Cho dụng cụ: Thước có chia tới milimét, một cái kéo,
một bản đồ Việt Nam in trên tờ giấy có ghi rõ tỉ lệ xích.
Dạng 5: Đo nhiệt dung riêng
* Phương pháp:
- Dùng nhiệt kế, nhiệt lượng kế xác định nhiệt độ lúc đầu
và lúc cân bằng nhiệt.
- Vận dụng phương trình cân bằng nhiệt .
- Xác định nhiệt dung riêng bằng phương trình cân bằng
nhiệt.
* Bài tập minh hoạ:
Bài tập 1: Xác định nhiệt dung riêng của dầu hỏa bằng các dụng cụ sau: cân
(không có quả cân); nhiệt kế, nhiệt lượng kế (biết ruột nhiệt lượng kế có nhiệt
dung riêng là ck); nước (biết nhiệt dung riêng cn), dầu hỏa; bếp điện; hai cốc đun
giống nhau.
Giải:
Bước 1: Cơ sở lí thuyết:
- Đặt cốc rỗng và ruột nhiệt lượng kế lên đĩa cân A, đặt cốc rỗng còn lại
lên đĩa cân B, rót nước vào cốc ở đĩa cân B cho đến khi cân bằng.
mk = mn.
- Bỏ ruột nhiệt lượng kế xuống, rót dầu vào cốc rỗng bên đĩa A cho đến

khi cân thăng bằng, lúc đó:
md + mcốc = mn + mcốc => md = mn = mk.
- Lắp ruột nhiệt lượng kế vào vỏ nhiệt lượng kế, rót dầu từ cốc vào nhiệt
lượng kế, đo được nhiệt độ của dầu, nhiệt lượng kế và nước, đó chính là nhiệt độ
phòng t0.
- Đặt cốc đun có nước lên bếp điện, đun nóng nước. Tắt bếp, khuấy đều
nước, nhiệt độ bắt đầu giảm chậm. Khi nước trong cốc đến nhiệt độ t n đã chọn,


19
đổ nước vào nhiệt lượng kế có chứa dầu. Đậy nắp, khuấy đều, đo nhiệt độ cuối
cùng của hỗn hợp là t.
- Từ phương trình cân bằng nhiệt:
Qtỏa = Qthu md cx + mk ck).(t - t0) = mncn.(tn - t)
Hay (cx + ck).( t - t0 ) = cn(tn – t)
� cx 

cn (tn  t )
 ck
t  t0
(*), với các giá trị đo được và đã cho như trên ta xác

định được cx.
Bước 2: Các bước tiến hành:
- Đo khối lượng của nhiệt lượng kế, của dầu và của cốc bằng nhau, bằng
cách đặt lên cân để cân thăng bằng.
- Dùng nhiệt kế đo nhiệt độ của nước, dầu và nhiệt độ cân bằng.
- Sử dụng phương trình cân bằng nhiệt để tính nhiệt dung riêng theo công
thức (*).
Bước 3: Đánh giá sai số:

- Cần chú ý khi độ nhiệt độ của dầu và nước, phải khuấy đều để nhiệt độ
chính xác.
- Có hao phí ra môi trường vì vậy cần thực hiện nhiều lần và lấy giá trị
trung bình.
* Bài tập vận dụng:
Bài 1: Xác định nhiệt dung riêng ck của chất làm nhiệt lượng kế đó. Dụng cụ :
nhiệt lượng kế, nhiệt kế, nước (đã biết nhiệt dung riêng c n), bình đun, bếp điện,
cân và bộ quả cân.
Bài 2: Dụng cụ: 1 chai dầu cần xác định nhiệt dung riêng của dầu, 1 bình nước
(biết nhiệt dung riêng của nước), 2 cốc thủy tinh giống nhau, 1 cân Rô – bec –
van không có hộp quả cân, cát khô, nhiệt lượng kế (biết nhiệt dung riêng của
chất làm cốc trong nhiệt lượng kế), nhiệt kế, nguồn nhiệt.
Bài 3: Trình bày cách tiến hành thí nghiệm xác định nhiệt dung
riêng của chất rắn. Cho dụng cụ: Vật rắn bằng chất cần xác
định nhiệt dung riêng, nước (đã biết nhiệt dung riêng), nhiệt
lượng kế, nhiệt kế, cân và bộ quả cân, bình đun, dây buộc, bếp
điện.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Đánh giá hiệu quả của các giải pháp
Đây là một tài liệu được biên soạn lại từ nhiều nguồn tài
liệu khác nhau, được hệ thống lại cho phù hợp logic người học,
từ đó dễ dàng tiếp thu và tự học. Hơn nữa, giáo viên cũng có
thể làm tài liệu hỗ trợ trong dạy học, ôn tập, luyện thi và ra đề
thi cũng như tạo những bài tập thực nghiệm theo các chủ đề
cho học sinh thực hiện. Những kiểu bài thực nghiệm đơn giản,
dễ thực hiện với các dụng cụ sẵn có trong gia đình, có thể tạo ra


20
được những hoạt động thực nghiệm phong phú cho học sinh

phát triển kĩ năng.
Bằng những giờ học trên lớp và các nhiệm vụ học tập về
nhà tôi nhận thấy ở những học sinh được giao nhiệm vụ học tập
có nhiều biểu hiện tích cực về kĩ năng và điểm số như sau:
Kết quả học tập của học sinh đối với bài thực hành thí
nghiệm cuối học kì I năm học 2019-2020.
Kết quả
Điểm
bài
kiểm
tra
thực hành.
Kết quả
Điểm
bài
kiểm
tra
thực hành.

Giỏi
SL
Tỉ lệ
22

Khối 6 – Sĩ số : 94
Khá
Trung bình
SL
Tỉ lệ
SL

Tỉ lệ

23,4
%

37

39,3
%

20

Yếu, kém
SL
Tỉ lệ

21,2
%

15

Khối 8 - Sĩ số : 95
Giỏi
Khá
Trung bình
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL

Tỉ lệ
25

26,3
%

30

31,5
%

21

16,1
%

Yếu, kém
SL
Tỉ lệ

22,1
%

19

20,1
%

Sau khi nghiên cứu và áp dụng các phương pháp giáo dục
tích cực, kết hợp với việc sử dụng các bài thực nghiệm đơn giản

làm nhiệm vụ học tập cho học sinh. Kết quả thống kê các kĩ
năng của học sinh đạt được trong bài thực hành thí nghiệm.
Khối 6, sĩ số 94 học sinh; khối 8, sĩ số 95 học sinh như sau:
Kết quả đạt được
Mức độ thực hiện
các kĩ năng cơ bản
trong các bài thực
hành Vật lí
Kĩ năng đọc các giá trị
của thiết bị thực hành
Kĩ năng bố trí các
thiết bị thí nghiệm
trong bài thực hành.
Kĩ năng hoàn thành
báo cáo thí nghiệm
thực hành
Kĩ năng giải quyết các
tình huống thực tiễn
đối với môn Vật lí.
Kĩ năng hợp tác và
làm việc nhóm

Số
lượn
g
hoàn
thàn
h rất
tốt


Tỉ
lệ
(%)

Số
lượn
g
chưa
hoàn
thàn
h

Tỉ
lệ
(%)

41

21,
6

34

18,
2

34,
3

40


21,
1

33

17,
7

63

33,
3

45

23,
8

36

19,
1

26,
4

60

31,

7

40

21,
1

29

20,
8

31,
7

60

31,
7

50

26,
4

19

10,
2


Tỉ
lệ
(%)

Số
lượn
g
hoàn
thàn
h

Tỉ
lệ
(%)

Số
lượng
hoàn
thành
một
phần

47

24,
8

67

35,

4

51

26,
9

65

45

23,
8

50
60


21
Từ bảng kết quả khảo sát, ta thấy rằng học sinh đã có
nhiều thay đổi như:
- Phát triển kĩ năng lập luận, kĩ năng chuyển đổi và áp
dụng các công thức đạt chính xác cao. Đồng thời phát triển
được nhiều nhóm kĩ năng mà các em còn thiếu.
- Chất lượng học tập bộ môn của học sinh được nâng lên,
học sinh có sự thích thú hơn khi tự trả lời và thực hiện được các
bài tập cơ bản và nâng cao.
- Tỉ lệ học sinh tự lực trả lời câu hỏi và làm bài tập ở nhà
tăng lên.
- Giúp học sinh hiểu rõ, sâu hơn các vấn đề. Nắm vững

chắc kiến thức đã biết và vận dụng chúng để giải quyết các vấn
đề mới nhằm phát hiện ra kiến thức mới để bổ sung và hoàn
thiện thêm kiến thức của mình vươn lên học giỏi bộ môn.
2.4.2. Kết luận
Trong giai đoạn hiện nay khi mà giáo dục Việt Nam đang
trong thời kì chuẩn bị cho sự thay đổi toàn diện thì việc đón đầu
xu hướng học tập mới là rất quan trọng. Ở bậc học THCS hiện
nay việc chưa coi trọng các hoạt động trải nghiệm đang làm cho
các thế hệ học sinh thiếu những kĩ năng vàng trong cuộc sống.
Việc thay đổi dạy và học trong khi điều kiện kinh tế, xã hội còn
nhiều khó khăn là một việc làm không hề đơn giản, nó đòi hỏi
sự sáng tạo của người thầy là rất lớn.
Với mong muốn vừa tạo ra trong những lớp mình giảng dạy
một cách học mới phù hợp với thực tiễn, có thể dùng làm tài
liệu cho giáo viên ở một số đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ
dạy học, bồi dưỡng nhân tài cho địa phương. Sự thành công ban
đầu ở các lớp tôi giảng dạy có thể làm cơ sở để các đơn vị có
điều kiện phù hợp có thể áp dụng để mỗi giờ dạy Vật lí trở
thành một giờ học khoa học bổ ích. Sự hình thành các kĩ năng
mềm trong làm các bài tập thực nghiệm sẽ giúp các em tự tin
hơn trong cuộc sống hằng ngày, để những ước mơ nhỏ của các
em được chấp cánh thành các kĩ sư tương lai của đất nước.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Để góp phần định hướng sự phát triển năng lực của học
sinh. Trong những năm học qua tôi đã vận dụng đề tài này vào
việc dạy học Vật lí đối với đối tượng học sinh của trường. Tuy kết
quả đạt được chưa cao, song cũng giúp đại đa số học sinh cải
thiện khá tốt kết quả môn Vật lí.



22
Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng đề tài này tôi rút ra
được một số bài học kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy như
sau:
- Phải nắm vững chương trình giáo dục phổ thông môn Vật
lí ở cấp THCS.
- GV phải có kĩ năng xác định mục tiêu dạy học đa dạng
hoá của từng bài, từng đơn vị kiến thức.
- Giáo viên cần khai thác tốt thế mạnh của môn Vật lí bằng
những nhiệm vụ học tập thực nghiệm, sáng tạo trong việc tổ
chức các buổi thực hành để mỗi học sinh được tự mình hoàn
thành các nhiệm vụ nghiên cứu nhỏ. Hình thành thế giới quan
khoa học cho học sinh, tạo được khung của bài thực hành để từ
đó học sinh có thể rèn luyện được các kĩ năng thực hành. Tạo ra
những nhiệm vụ học tập sinh động thông qua các nhiệm vụ
thực hành đơn giản ở nhà, khơi dậy niềm đam mê khoa học.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo
- Thường xuyên mở các hội nghị chuyên đề về phương
pháp giảng dạy môn Vật lý để các giáo viên được giao lưu, học
tập kinh nghiệm lẫn nhau.
- Đầu tư đồ dùng thí nghiệm cần có sự chính xác cao.
3.2.2. Đối với Phòng giáo dục huyện Thường Xuân
- Kiểm tra thường xuyên việc đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng trang bị các kĩ năng, dạy học gắn liền với thực tiễn,
dạy học trải nghiệm sáng tạo.
- Tích cực tham mưu cho lãnh đạo địa phương từng bước
chuẩn hoá trường học theo chuẩn Quốc gia, từ đó trang bị đầy
đủ các phòng học chức năng nói chung và phòng học cho môn

Vật lí nói riêng.
3.2.3. Đối với các trường THCS
- Cần chú ý đầu tư nhiều hơn cho việc trang bị các thiết bị
thí nghiệm theo từng kì, từng tháng, từng năm. Song song với
quá trình đầu tư trang thiết bị cần nới lỏng các qui tắc cứng
nhắc trong thiết kế bài giảng theo sách giáo khoa, tạo điều kiện
để giáo viên sáng tạo hơn trong dạy học.
- Tăng cường đón đầu xu hướng dạy học theo năng lực
người học, chuẩn bị tốt nhất cho việc thay đổi toàn diện giáo
dục của các nhà trường.


23
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 22 tháng 03
năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.

Lê Xuân Quang


Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2000), Chương trình Trung học cơ sở,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Điều lệ trường trung học cơ

sở, trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Tài liệu giáo khoa nâng cao
Vật lí 7, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2016.
5. Trịnh Minh Hiệp (2017), Chiến thắng kì thi 9 vào 10 chuyên
Vật lí tập 1, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Trịnh Minh Hiệp (2017), Chiến thắng kì thi 9 vào 10 chuyên
Vật lí tập 2, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Luật giáo dục (2009), NXB Tư pháp Hà Nội.
8. Vũ Thanh Khiết (2002), 121 bài tập Vật lí nâng cao, NXB tổng
hợp Đồng Nai.
9. Phan Hoàng Văn (2009), 500 bài tập Vật lí nâng cao, NXB đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.


×