Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Sử dụng kỹ thuật tranh biện nhằm phát triển năng lực phản biện cho học sinh lớp 11 trong dạy học đọc hiểu văn bản chiếu cầu hiền( ngô thì nhậm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.98 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG KỸ THUẬT TRANH BIỆN NHẰM
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC PHẢN BIỆN CHO HỌC SINH LỚP
11 TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN “CHIẾU CẦU
HIỀN” (NGÔ THÌ NHẬM)

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hiền
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2020


MỤC LỤC
Tra
ng
1. Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5.Những điểm mới của SKKN
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1.Cơ sở lí luận của SKKN
2.1.1 Vài nét về năng lực phản biện
2.1.2 Vài nét về tổ chức hoạt độngtranh biện


2.1.3.Vài nét về đặc trưng thể loại của văn bản “Chiếu cầu hiền”
( Ngô Thì Nhậm)
2.2.Thực trạng dạy học văn bản nghị luận và văn bản
“Chiếu cầu hiền” trước khi áp dụng SKKN
2.3.Tổ chức dạy học văn bản “Chiếu cầu hiền”( Ngô Thì Nhậm)
Theo hình thức tranh biện
2.3.1. Quy trình tổ chức họt động tranh biện trong dạy học
2.3.2. Tổ chức dạy học văn bản “Chiếu cầu hiền”( Ngô Thì Nhậm)
2.3.3 Thực nghiệm sư phạm
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nhiệp và nhà trường
2.4.1 Đánh giá việc tổ chức dạy học thực nghiệm
2.4.2. Đánh giá qua kết quả học tập của học sinh
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

1
1
1
1

2
2
2
4
5
5
5
7

9
13
13
13
13
14


1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Thế giới đang bước vào thời đại 4.0, trong đó giáo dục đóng vai trò là động
lực thúc đẩy cuộc cách mạng này đạt được mục tiêu của nó. Vì vậy,tư duy giáo
dục hiện nay cũng phải thay đổi. Giáo dục không chỉ có sứ mệnh cung cấp kiến
thức, rèn luyện kỹ năng, mà quan trọng là phát triển tư duy và sự sáng tạo cho
người học. Chính vì thế, việc rèn luyện tư duy phản biện và tích cực hóa hoạt
động học sinh , được xem là yêu cầu quan trọng trong tiến trình đổi mới PPDH
theo hướng phát triển năng lực hiện nay.
Tranh biện (Debate) là một trong những hoạt động lâu đời nhất của nền văn
minh. Ngày nay, tranh biện được dùng như một PPDH tích cực, được người trẻ
đón nhận đầy hứng thú. Sử dụng tranh biện trong dạy học là bước đi đúng đắn
để nhằm đạt được mục tiêu phát triển toàn diện các năng lực của HS. Môn Ngữ
văn là một trong những bộ môn chính chương trình giáo dục phổ thông
(CTGDPT) hiện nay, với nhiệm vụ hình thành và phát triển các năng lực cốt lõi
cho người học. Hoạt động tranh biện sẽ là phương pháp lí tưởng trong việc rèn
luyện kỹ Nói – Nghe cho HS.
Văn bản Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm) là một trong những văn bản nghị
luận hay, giàu giá trị được đưa vào CT và SGK hiện hành. Ở văn bản này, tôi
nhận thấy có rất nhiều lợi thế để rèn luyện các năng lực cốt lõi mà môn Ngữ văn
hướng đến. Tuy nhiên, với đặc trưng là văn bản nghị luận trung đại, nên Chiếu
cầu hiền khá khô khan, khó hấp dẫn, vì thế GV và HS thường “cho qua” hoặc

dạy học “đối phó” hoặc không khai thác được giá trị ngầm về PPDH của văn bản.
Từ thực tế đó tôi quyết định lựa chọn đề tài: Sử dụng kỹ thuật tranh biện nhằm
phát triển năng lực phản biện cho học sinh lớp 11 trong dạy học đọc hiểu văn
bản “Chiếu cầu hiền” (Ngô Thì Nhậm). Qua đề tài này tôi muốn xây dựng
phương án dạy học văn bản Chiếu cầu hiền bằng hoạt động tranh biện, từ đó
hướng tới rèn luyện, phát triển các năng lực cốt lõi của người học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đề xuất cách thức tổ chức hoạt động tranh biện qua dạy học văn bản Chiếu
cầu hiền theo hướng phát triển năng lực HS. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn,
người viết muốn rút ra một số kinh nghiệm trong dạy học đọc hiểu văn bẳn
Chiếu cầu hiền nói riêng và dạy học đọc hiểu văn bản nói chung.
- Đề xuất cách thức tiến hành hoạt động tranh biện qua dạy học đọc hiểu văn
bản Chiếu cầu hiền
- Thực nghiệm sư phạm.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Hoạt động tranh biện trong dạy học đọc hiểu văn bản
- Văn bản Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm) ở CT Ngữ văn 11 – tập 1 (cơ bản)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: phân tích, tổng hợp lí luận
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: khảo sát, thống kê, thực nghiệm sư
phạm...
1.5. Những điểm mới của SKKN
3


Đề tài có sự nghiên cứu về lí luận về hoạt động tranh biện trong dạy học; cách
thức tổ chức dạy học văn bản Chiếu cầu hiền theo hướng phát triển năng lực
phản biện. Vì vậy, đề tài sẽ là một trong những tài liệu tham khảo tốt cho GV
trong việc tìm tòi đổi mới PPDH.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1 Vài nét về năng lực phản biện
Năng lực phản biện là một khái niệm có nguồn gốc xuất phát từ thuật ngữ tư
duy phản biện. Nó được hiểu là một loại hình tư duy biện chứng gồm phân tích
và đánh giá những thông tin đã có theo các cách nhìn khác nhau, qua đó nhằm
làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Năng lực phản biện là
năng lực phát hiện những điểm bất cập/ bất hợp lý, bất khả thi, bất khả dụng và
cất lên tiếng nói cảnh báo có ý nghĩa trên cơ sở lật trở vấn đề, quan sát đối tượng
từ nhiều phía, nhất là phía nghịch, mặt trái.
Có thể thấy, giữa tư duy phản biện và năng lực phản biện có mối quan hệ biện
chứng. Tư duy phản biện là nền tảng, là cơ sở để hình thành năng lực phản biện.
Dựa trên khả năng tư duy độc lập, khả năng phán đoán, suy nghĩ, lật lại vấn đề
sau khi đã có cái nhìn đa chiều về vấn đề, người học huy động vốn tri thức, kinh
nghiệm và kỹ năng lập luận, biện bác của mình để khẳng định, đồng tình hoặc
bác bỏ những suy nghĩ, quan điểm, ý kiến và biện luận của người khác, nhằm
làm sáng tỏ vấn đề dưới một góc nhìn khác. Ngược lại, trong quá trình huy động
tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng và thái độ để phản biện, tranh luận, đối thoại vấn
đề thì khả năng nhận thức, phán đoán, tư duy độc lập, phản biện của con người
càng được nâng cao và phát triển.
CTGDPT tổng thể và CT môn Ngữ văn đã xác định các năng lực cần hình
thành và phát triển cho HS đó là: năng lực tự học và tự chủ, năng lực giải quyết
vấn đề và sáng tạo, năng lực giao tiếp và hợp tác; đối với bộ môn Ngữ văn còn
có năng lực chuyên biệt là năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học . Khi phân
tích các thành tố hợp thành năng lực chung và năng lực chuyên biệt, chúng tôi
nhận thấy cho sự giao thoa với thành tố hợp thành của tư duy phản biện và năng
lực phản biện. Vì thế việc phát triển năng lực phản biện cho HS là một trong
những phương pháp để hình thành và phát triển năng lực cần thiết của người
học.
2.1.2. Vài nét về tổ chức hoạt động tranh biện
a) Khái niệm

“Tranh biện được hiểu là quá trình tư duy và biểu đạt tư duy từ thu thập,
phân tích xử lý thông tin đến xây dựng, hệ thống sắp xếp các lập luận để ra
quyết định… Tranh biện giúp giải quyết vấn đề, bằng cách chỉ ra những xung
đột/ mâu thuẫn giữa các luận điểm do người học sử dụng tư duy phản biện để
phản đối trực tiếp trên luận điểm của đối phương”[15;73]
Có thể nói tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi những người
tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn bằng hệ thống
các lập luận logic. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất giúp mọi người cùng đi
4


đến một nhận thức chung. Chính vì thế, tranh biện được coi là tinh hoa của năng
lực sử dụng ngôn ngữ, là cách thức phát triển trí tuệ, là hòn đá mài sắc tư duy.
b) Cách thức tổ chức hoạt động tranh biện trong dạy học Ngữ văn
Phương pháp tranh biện được sử dụng trong dạy học là cách GV đưa ra, gợi mở
cho HS suy nghĩ, đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau. Sau đó GV tổ chức cho các em trao đổi, bàn bạc, phản
biện về vấn đề đó nhằm làm rõ những khía cạnh khác nhau của vấn đề và làm
giàu sự hiểu biết của cá nhân theo yêu cầu của mục tiêu và nhiệm vụ dạy học.
Tranh biện được tổ chức theo các hình thức sau:
+ Tổ chức tranh biện theo nhóm: Tranh biện theo nhóm là hình thức tổ chức
cho HS học tập, trao đổi, phản biện theo từng nhóm, cùng giải quyết một nhiệm
vụ học tập cụ thể nào đó dưới sự điều khiển và tổ chức của GV. Khi tổ chức
tranh luận theo nhóm sẽ diễn ra đồng thời hai hoạt động: việc thảo luận giữa các
thành viên trong nhóm để thống nhất ý kiến chung và tranh luận giữa các nhóm
với nhau.
+ Tổ chức tranh biện giữa HS với HS: Đây là hình thức có khả năng phát huy
tính tích cực, chủ động của từng HS trong học tập rất tốt, đáp ứng yêu cầu và
nhiệm vụ dạy học hiện nay. Tranh luận cá nhân có thể giúp HS khám phá ra
những giá trị tiềm ẩn của mình như khả năng hùng biện trước đám đông, khả

năng tư duy logic hay khả năng tự chủ.
+ Tổ chức tranh biện giữa GV với HS: Trong quá trình dạy học sẽ các tình
huống có vấn đề, GV sẽ nêu ra những luồng ý kiến khác nhau và cung cấp
những tư liệu, căn cứ để cho HS có được những hiểu biết nhất định về chủ đề
đó. Sau đó, GV sẽ khích lệ tư duy của HS bằng cách đưa ngay ra ý kiến của bản
thân mình. Từ đó, HS mới có thể mạnh dạn đưa ra ý kiến, nếu ý kiến đó khác
với quan điểm của GV và tranh biện với GV.
Có một điểm khác biệt rất quan trọng của hoạt động tranh biện với các hình
thức giao tiếp khác đó là khi tiến hành tranh biện cần tách thành 2 lập luận: ủng
hộ hoặc phản đối. HS khi được phân công vào nhóm nào thì cần phải tuân thủ
theo yêu cầu của nhóm. Vì vậy để giành chiến thắng trong tranh biện, HS cần
phải tìm tòi, nghiên cứu đề kỹ để có những lập luận về vấn đề mình bảo vệ.
c) Quy tắc tổ chức hoạt động tranh biện trong dạy học:
Thứ nhất: Xác định rõ mục đích của tranh biện, làm nổi bật nội dung bài
học. Xác định mục đích tranh biện là việc đưa ra những dự kiến sư phạm về sự
biến đổi của HS sau khi thực hiện các hoạt động tranh biện. Xác định mục đích
tranh biện có ý nghĩa quan trọng, bởi có xác định được mục đích thì mới lựa
chọn được hình thức tổ chức phù hợp. Đồng thời, việc xác định mục đích tranh
luận sẽ giúp GV có những định hướng rõ ràng cho cuộc tranh luận, tránh sa đà,
lạc hướng gây mất thời gian mà không đạt hiệu quả cao. Nội dung tranh biện
phải là nội dung trọng tâm, cốt lõi của đặc trưng môn học. Ví dụ đối với môn
Ngữ văn và văn bản nghị luận thì cần phải làm bật nổi được lí lẽ, lập luận cũng
tư tưởng quan điểm của người viết. Từ đó rèn luyện kỹ năng đọc – viết – nói –
nghe cho HS.
5


Thứ hai: Lựa chọn vấn đề tranh biện phù hợp và cân đối về mặt thời gian khi
tổ chức tranh biện. Về lựa chọn vấn đề tranh biện, GV cần hiểu rõ, hiểu sâu kiến
thức và hiểu rõ đối tượng HS của mình, trình độ nhận thức ra sao, họ đã có cái

gì, cần có cái gì thì GV mới có thể đưa ra vấn đề tranh biện đúng đắn, sáng suốt
và phù hợp nhất. Về cân đối thời gian khi tổ chức tranh biện là một thử thách lớn
của phương pháp này, bởi muốn tranh biện hay đúng nghĩa thì phải cho HS tranh
luận đến cùng để bảo vệ ý kiến của mình. Do đó, để hoạt động tranh luận có chất
lượng, GV cần có sự lựa chọn vấn đề phù hợp, yêu cầu HS chuẩn bị kỹ để đưa ra
những ý kiến tranh biện chất lượng, đúng trọng tâm. Đặc biệt cần chú ý đến đối
tượng HS khi lựa chọn vấn đề tranh biện, nội dung phải đi từ đơn giản đến phức
tạp nhằm khơi gợi sự hứng thú cho người học.
Như vậy có thể thấy tổ chức hoạt động là một trong những biện pháp dạy học
tích cực, đáp ứng được những yêu cầu mới của CTGD mới hiện nay.
2.1.3. Vài nét về đặc trưng thể loại của văn bản “Chiếu cầu hiền” (Ngô Thì
Nhậm)
Chiếu cầu hiền thuộc thể chiếu – một thể văn được các vua chúa dùng để ban
bố mệnh lệnh cho bề tôi hoặc chỉ thị cho mọi người. Chính vì thể Chiếu cầu
hiền mang đặc trưng của kiểu văn bản nghị luận.
a. Vài nét về văn bản nghi luận
“Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ
để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết
học, đạo đức...). Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần được giải đáp, cần
được làm sáng tỏ. Luận là bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác
bỏ điều kia, để người ta nhận ra chân lí, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm
và niềm tin với mình” [2;110]
Từ đó ta có thể thấy, văn bản nghị luận là sản phẩm của tư duy khoa học, là
kiểu tư duy đi tìm đúng bản chất sự vật hiện tượng, phản ánh đúng sự vật hiện
tượng bằng nhiều phương pháp tư duy, trong đó có tư duy logic và tư duy phản
biện. Tư duy logic là một cấp độ cao của tư duy, ở đó các mối liên hệ được sắp
xếp theo một trình tự nhất định, có quy luật, căn cứ khoa học. Tư duy phản biện
là trình độ tư duy luôn tìm ra những mặt đối lập trong quá trình tìm hiểu sự vật
hiện tượng, vì thế luôn khám phá cái mới. Trong văn bản nghị luận vẫn có hình
tượng, cảm xúc nhưng đặc điểm nổi bật vẫn là nghệ thuật lập luận sắc bén, luận

cứ sắc sảo, ngôn từ chính xác, sống động và thuyết phục. Chính vì thế văn
chương nghệ thuật thường gõ cửa trái tim và kích thích trí tưởng tượng người
đọc trước tiên, còn văn bản nghị luận nghiêng về khai mở tư duy, bừng sáng trí
tuệ, khơi nguồn cảm hứng tranh luận, hùng biện ở người đọc.
Văn bản nghị luận có một số đặc trưng cơ bản như: bày tỏ quan điểm, tư
tưởng; giàu cảm xúc và có cấu trúc chặt chẽ, logic.
b. Vài nét cơ bản về văn bản “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm
- Về đặc trưng thể loại: Chiếu cầu hiền thuộc thể Chiếu – một kiểu văn nghị
luận thời trung đại. Với những đặc điểm như: là thể văn dùng để bày tỏ quan
điểm, tư tưởng; giàu cảm xúc và có cấu trúc chặt chẽ, logic. Người viết dùng lí
6


lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn
học nghệ thuật, triết học, đạo đức...)
- Về hoàn cảnh ra đời: Năm 1788, Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào
xâm lược nước ta. Nguyễn Huệ lên ngôi, quét sạch quân Thanh. Triều Lê sụp đổ,
trước sự kiện trên, một số bề tôi của triều Lê đã bỏ trốn hoặc đi ở ẩn... Quang
Trung giao cho Ngô Thì Nhậm thay mình viết Chiếu cầu hiền nhằm thuyết phục
sĩ phu Bắc Hà, tức các tri thức của triều đại cũ (Lê -Trịnh) ra cộng tác với triều
đại Tây Sơn. Vì thế Chiếu cầu hiền là tác phẩm thể hiện rõ tư tưởng tiến bộ của
Vua Quang Trung và trí tuệ uyên bác của Ngô Thì Nhậm.
- Về kiến thức cơ bản cần đạt: Qua văn bản này HS cần nắm được: Vai trò và
trách nhiệm của hiền tài; thực trạng của đất nước lúc bấy giờ (Cách ứng xử của
sĩ phu Bắc Hà và những khó khăn buổi đầu của triều đại mới); giải pháp (Con
đường cầu hiền)
2.2. Thực trạng dạy học văn bản nghị luận và văn bản “Chiếu cầu hiền”
(Ngô Thì Nhậm) trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a. Về phía giáo viên
Qua khảo sát thực tế, cũng như từ thực tiễn dạy học của bản thân thường

không hứng thú khi dạy phần văn bản nghị luận, đại đa số GV đều cho rằng văn
bản nghị luận khô khan, giờ dạy thiếu tính hấp dẫn. Chính vì thế, khi dạy phần
văn bản này đa số GV cũng như bản thân ít đầu tư, tìm tòi đổi mới phương pháp.
Khi dạy thường thiên về truyền đạt kiến thức, chú trọng nội dung hơn là nghệ
thuật, vì thế giờ dạy nặng về lí trí hơn là cảm xúc thẩm mỹ.
b. Về phía học sinh
Về thái độ học tập, chúng ta dễ nhận thấy HS khá thờ ờ khi tiếp nhận những
văn bản nghi luận trong CT. Có thể thấy ở mỗi tiết đọc hiểu văn bản, các em
không hứng thú mà cũng không quan tâm nhiều về nội dung và nghệ thuật của
các văn bản nghị luận.
Từ những tồn tại của thực tế đó, chúng tôi nghiêm túc nhìn nhận, tìm ra giải
pháp để khắc phục. Tổ chức hoạt động tranh biện khi dạy học đọc hiểu văn bản
nghị luận sẽ biện pháp hữu hiệu nhằm tích cực hóa hoạt động của HS góp phần
hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực cốt lõi của người học mà CT
hướng đến.
2.3 Tổ chức dạy học văn bản “Chiếu cầu hiền”( Ngô Thì Nhậm) theo hình
thức tranh biện
2.3.1. Quy trình tổ chức hoạt động tranh biện trong dạy học
a. Cách thức tiến hành
Đối với giờ đọc hiểu trong môn Ngữ văn phần nội dung có thể tiến hành tổ
chức cho HS tranh biện đó là: Ở phần hình thành kiến thức mới hoặc luyện tập
mở rộng vấn đề. Thông qua tranh biện HS có thể tự chiếm lĩnh và khắc sâu kiến
thức hơn. Tuy nhiên GV cần lưu ý, không phải văn bản nào hay vấn đề gì trong
văn bản cũng có thể tiến hành hoạt động tranh biện. Một văn bản chỉ nên chọn 1
đến 2 vấn đề để tranh biện, khi HS tranh biện GV cần có sự định hướng để tránh
đi xa đề, lạc đề hoặc làm sai lệch kiến thức.
7


Bước 1: Xác định vấn đề tranh biện: Mỗi bài học có thể có nhiều vấn đề để

tranh biện, tuy nhiên GV chỉ nên chọn 1 vấn đề phù hợp nhất với đối tượng HS
để tổ chức.
Bước 2: Giao nhiệm vụ, HS chuẩn bị nghiên cứu về vấn đề tranh biện: GV
cần phân công cụ thể: nhóm ủng hộ và nhóm phản đối; định hướng tài liệu phù
hợp.
Bước 3: Tiến hành tranh biện:
Quá trình tranh biện sẽ có 2 phần:
- Phần 1: Trình bày
+ Mỗi nhóm sẽ trình bày về vấn đề mình bảo vệ
+ Nhóm ủng hộ sẽ trình bày trước
+ Thời gian cho phần trình bày tối đa là 3 phút
- Phần 2: Tranh luận
+ Mỗi nhóm sẽ căn cứ vào phần trình bày của nhóm đối phương để phản biện
+ Thời gian cho mỗi lượt phản biện tối đa là 2 phút
+ Các thành viên trong mỗi nhóm cần thay phiên nhau, tránh trường hợp chỉ
một người tranh biện từ đầu đến cuối
Bước 4: Nhận xét đánh giá
GV sẽ đưa ra nhận xét, đánh giá cho mỗi nhóm và chốt lại kiến thức cốt lõi
của bài học. Tiêu chí đánh giá sẽ là:
- Chất lượng các luận điểm tranh luận
- Kỹ năng trình bày của mỗi nhóm
- Thái độ làm việc và tranh biện của mỗi nhóm
Trong đó tiêu chí kỹ năng và thái độ tranh biện rất quan trọng, bởi mục đích của
hoạt động này là thông qua quá trình chiếm lĩnh tri thức HS có thể rèn luyện được
kỹ năng sử dụng ngôn ngữ có văn hóa và đạt được mục đích giao tiếp.
b. Tiêu chí đánh giá hoạt động trong dạy học đọc hiểu văn bản
TIÊU CHÍ 2,0 (điểm)
1,5(điểm)
1,0(điểm)
0,5(điểm)

Nội dung Vấn đề được Vấn đề được Vấn đề được Chưa hiểu rõ
thuyết trình trình bày rõ trình bày rõ trình bày rõ vấn đề được
ràng, đầy đủ và ràng, đầy đủ
ràng
nhưng trình bày
sâu sắc
chưa được đầy
đủ
Luận
Xây dựng các Nêu
luận Luận điểm còn Luận
điểm
điểm
/ luận điểm chặt điểm đảm bảo mơ hồ, cảm còn mơ hồ,
tranh luận chẽ hiệu quả, cấu
trúc, tính,
thiếu cảm
tính,
thuyết phục với nhưng
tính logic,
nhưng thiếu logic, có
cấu trúc: luận thuyết phục vẫn hướng vào xu hướng xa
đề - lí lẽ - bằng chưa cao.
chủ đề
đề, lạc đề,
chứng
hoặc rơi vào
ngụy biện
Ngôn
Phong thái tự Trình bày rõ Trình bày còn Chỉ đọc văn

ngữ /diễn tin, trình bày rõ ràng,
rành lúng
túng, bản chuẩn bị
đạt
ràng,
rành mạch
nội thiếu tự tin
sẵn
8


mạch nội dung;
biết phối hợp
ngôn ngữ nói
và ngôn ngữ cơ
thể hiệu quả
Sự chuẩn Có sự chuẩn bị
bị và hợp cẩn thận, chu
tác
đáo và hợp tác
hỗ trợ nhau tốt
trong quá trình
TB. Tất cả mọi
người
trong
nhóm đều hiểu
và nắm rõ vấn
đề.
Thái độ
Tranh

luận
khoa học, biết
lắng nghe tôn
trọng ý kiến
của đối phương
trong quá trình
tranh biện; lập
luận sắc sảo, có
văn hóa

dung; nhưng
chưa biết phối
hợp tốt giữa
ngôn ngữ nói
và ngôn ngữ
cơ thể
Có sự chuẩn
bị hợp tác hỗ
trợ
nhau
tương
đối
trong
quá
trình TB; đa
số mọi người
hiểu và nắm
rõ vấn đề TB
Biết
lắng

nghe,
tôn
trọng người
khác,
tuy
nhiên
thỉnh
thoảng
vẫn
hơi nóng nảy,
thiếu
kiềm
chế cảm xúc
trong
quá
trình
tranh
biện

Có sự chuẩn bị
nhưng
chưa
chu đáo và
hiệu quả; sự
phối hợp giữa
các thành viên
chưa tốt, chủ
yếu được một
số nhân tố tích
cực

Một số thành
viên chưa thực
tích cực trong
làm việc nhóm;
quá trình tranh
biện có xu
hướng tranh cãi

Chuẩn bị sơ
sài, đối phó;
chỉ có một vài
người
làm
việc,
các
thành
viên
còn lại không
tham gia vào
quá trình TB
Chưa thực sự
tôn trọng ý
kiến
người
khác, có xu
hướng
bảo
thủ.

2.3.2. Tổ chức dạy học văn bản “Chiếu cầu hiền”(Ngô Thì Nhậm) theo hình

thức tranh biện
a. Một số lợi thế về dạy học văn bản “Chiếu cầu hiền” theo hướng phát triển
năng lực học sinh.
Vấn đề của văn bản Chiếu cầu hiền đề cập đó là: vai trò và trách nhiệm của
nhân tài đối với đất nước. Đây là vấn đề mang tính thời đại, luôn có giá trị và có
tính thời sự, phù hợp với tầm tiếp nhận của HS. Chính vì thế khi dạy đọc hiểu
VB này theo hướng phát triển năng lực GV rất có lợi thế để tổ chức các PPDH
mới, phát huy tính tích cực của HS. Có thể nhận thấy ở Chiếu cầu hiền tích hợp
rất nhiều kiến thức liên về lịch sử, văn hóa, văn học, giáo dục… là cơ hội để HS
mở rộng tầm hiểu biết cũng như bày tỏ được quan điểm cá nhân của mình.
Về hình thức thể hiện, Chiếu cầu hiền là văn bản nghị luận với những đặc
trưng cốt lõi với có của nó. Bên cạnh những đặc điểm của kiểu văn bản nghi
luận trung đại, thì cách lập luận của Chiếu cầu hiền cũng khá hiện đại, dễ tiếp
nhận. Đặc biệt, qua các luận điểm được đặc ra trong văn bản rất phù hợp để GV
9


rèn luyện kỹ Đọc – viết – Nói – Nghe cho HS. PPDH mà tôi triển khai ở đây,
nhằm nhấn mạnh đến PP dạy nói – nghe cho HS – một trong những kỹ năng còn
bị bỏ ngỏ từ trước đến nay.
b. Tiến trình tổ chức dạy học văn bản “Chiếu cầu hiền” theo hình thức tranh
biện.
Bước 1: Xác định vấn đề tranh biện:
Với văn bản “Chiếu cầu hiền” tôi đã chọn 2 vấn đề để tổ chức cho HS tranh
biện:
- Vấn đề 1: Trước cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà với triều đại Tây Sơn em
đồng tình hay phản đối?
- Vấn đề 2: Từ tư tưởng của bài Chiếu theo các em, đối với du học sinh hiện
nay nên VỀ (Việt Nam) hay Ở (nước ngoài)?
Với 2 vấn đề này tùy vào đối tượng của HS tôi đã chọn mỗi lớp một vấn đề để

tranh biện.
Bước 2: Giao nhiệm vụ, HS chuẩn bị nghiên cứu về vấn đề tranh biện
* Yêu cầu về nội dung:
- Vấn đề 1: Yêu cầu HS tìm hiểu về hoàn cảnh lịch sử, văn hóa Việt Nam vào
thời kỳ bài Chiếu ra đời.
- Vấn đề 2: Yêu cầu HS cập nhật tình hình, bối cảnh thực tế thời đại hiện nay.
* Yêu cầu về hình thức: Mỗi lớp phân thành 2 nhóm theo yêu cầu ủng hộ và
phản đối
Bước 3: Tiến hành tranh biện:
* Kịch bản dự kiến vấn đề 1:
+ Nhóm ủng hộ: Khi Quang Trung – Nguyễn Huệ tấn công ra Bắc, quét sạch
thù trong giặc ngoài, lập nên triều đại mới gọi là triều đại Tây Sơn. Tuy nhiên
các sĩ phu Bắc Hà là những trí thức của các triều đại phong kiến trước, đều
trưởng thành từ “Cửa Khổng sân Trình”, nghĩa là đều nhập tâm lời dạy của Nho
gia “trung thần không thờ hai chủ”. Hơn nữa, theo quan niệm của họ, triều đại
Tây Sơn vốn xuất thân từ nông dân (áo vải cờ đào), là “giặc cỏ” vì thế có tâm lí
e ngại bất hợp tác cũng là một lẽ tự nhiên thể hiện là người có tự trọng, có nhân
cách. Các sĩ phu Bắc Hà hầu hết là chưa hiểu biết gì về nhà Tây Sơn và vua
Quang Trung nên có thái độ dè dặt, ẩn mình là điều rất cần thiết.
+ Nhóm phản đối: Là hiền tài của quốc gia, thì mỗi sĩ phu Bắc Hà cần hiểu rõ
vai trò của bản thân là phải phò vua giúp nước, việc làm này thuận theo đạo lí
mà Khổng Tử đã đề ra. Thuở đất nước còn loạn lạc thì có thể ẩn mình, còn bây
giờ triều đại mới đã hình thành thì cần có trách nhiệm hợp sức để xây dựng đất
nước, triều đại hưng thịnh. Nếu cứ thu mình, ở ẩn, bất hợp tác là thái độ của
người sống thiếu trách nhiệm, không đáng mặt hiền tài. Hơn nữa, triều đại cũ
quá mục ruỗng, không đem lại được thái bình cho nhân dân, không chống được
ngoại xâm liệu như vậy có đáng để trung thành?
* Kịch bản dự kiến vấn đề 2:
+ Nhóm ủng hộ: Hiện nay, chảy máu chất xám đang là vấn đề lớn của Việt
Nam. Vì thế các du học sinh, đã có thời gian học tập, nghiên cứu, tu nghiệp, học

hỏi ở nước ngoài thì nên dùng những tri thức ấy về góp phần xây dựng phát triển
10


đất nước. Việc làm này thể hiện ý thức tự tôn dân tộc của người trẻ, cần được
phát huy và lan rộng. Đó cũng là trách nhiệm của nhân tài đối với quốc gia dân
tộc, thể hiện tinh thần yêu nước trong thời đại mới.
+ Nhóm phản đối: Thực tế hiện nay, du học sinh sau khi học xong thường ở
lại nước ngoài để tìm kiếm cơ hội lập nghiệp. Có rất nhiều luồng ý kiến phản đối
việc này, tuy nhiên có rất nhiều du học sinh về nước không thể phát huy được
NL. Có rất nhiều lí do dẫn đến thực trạng này: cơ chế chính sách, cơ sở vật chất,
điều kiện làm việc, thu nhập, cơ hội phát triển… Do đó việc họ ở lại cũng là một
việc bình thường. Bởi họ còn trẻ, tìm kiếm cơ hội ở nước ngoài để khẳng định
bản thân cũng là một cách thể hiện tinh thần dân tộc. Yêu nước, có trách nhiệm
với tổ quốc là dù khi làm việc ở đâu trái tim luôn hướng về quê hương, luôn ý
thức làm rạng danh đất nước. Chứ không nhất thiết phải về hay ở.
Bước 4: Nhận xét đánh giá: GV căn cứ vào tình hình thực tế HS tranh biện,
và đưa ra các nhận xét đánh giá theo tinh thần đã nêu ở phần trên.
Các bước tiến hành này là mang tính demo, tất cả sẽ được tôi minh họa cụ thể
vào giáo án thực nghiệm ở phần Phụ lục 1. Lưu ý GV khi tổ chức hoạt động
tranh biện cần lựa chọn những vấn đề vừa sức, có sự định hướng để HS vận
dụng những kiến thức đã học, những kiến thức từ thực tế có liên quan để tranh
biện. Đặc biệt đánh giá, với thang điểm rõ ràng, minh bạch, GV có thể cho HS
tự đánh giá lẫn nhau, tạo không khí cởi mở, dân chủ. Khi tiến hành tranh biện,
GV cần có sự tôn trọng ý kiến và cá tính của HS, dần dần cho sự định hướng
phù hợp đối với những quan điểm lệch lạc, tránh trường hợp phản đối “phủ đầu”
làm mất sự tự tin của các em.
2.3.3.Thực nghiệm sư phạm
a. Mục đích thực nghiệm
Mục đích thực nghiệm là tôi muốn kiểm tra tính khả thi của hoạt động tranh

biện được xây dựng trong đề tài, từ đó đánh giá khả năng ứng dụng của PPDH
này trong việc phát triển năng lực HS. Thông qua thực nghiệm để xác định tính
đúng đắn và mức độ thành công của đề tài.
b. Đối tượng thực nghiệm
Tôi chọn 2 lớp 11 Trường THPT Chu Văn An:11A16 và lớp 12A3
c. Kế hoạch và nội dung thực nghiệm
- Thời gian thực nghiệm: năm học 2019 – 2020 (Tháng 10/2019)
- Bài thực nghiệm: Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm)
- Giáo án thực nghiệm
Tiết 25- Đọc văn: CHIẾU CẦU HIỀN
(Ngô Thì Nhậm)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức:
- Hiểu được chủ trương chiến lược của vua Quang Trung trong việc tập hợp
người hiền tài
- Nắm vững nghệ thuật lập luận trong bài Chiếu và cảm xúc của người viết.
Từ đó hiểu thêm về thể Chiếu - thể văn nghị luận Trung đại.
11


- Nhận thức đúng đắn vai trò và trách nhiệm của người tri thức đối với công
cuộc xây dựng đất nước.
2. Kĩ năng:
Đọc hiểu bài chiếu theo đặc trưng thể loại.
B. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
1. Chuẩn bị của giáo viên
- Thiết bị dạy học: giáo án, SGK, SGV, Tài liệu tham khảo
2. Chuẩn bị của học sinh
- Chuẩn bị SGK, tài liệu tham khảo, Sưu tầm tranh ảnh về văn bia ở Quốc Tử
Giám, thực hiện nhiệm vụ nội dung tranh biện

C. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1. Phương pháp chủ đạo: Vấn đáp, thảo luận
2. Phương pháp phối hợp: Gợi mở, nêu vấn đề theo hình thức tranh biện
D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra việc soạn bài, tìm tư liệu cho bài học và vấn đề
tranh biện
3. Tiến trình bài học
Hoạt động của GV và HS
HOẠT ĐỘNG 1: Tìm hiểu
chung
Bước 1. Tìm hiểu tác giả
Bước 2. Tìm hiểu tác phẩm
+ GV: Nêu những nét cơ
bản hoàn cảnh ra đời của
bài chiếu, thể loại và bố cục
của bài chiếu?
+ HS: Dựa vào Tiểu dẫn để
trả lời.

HOẠT ĐỘNG 2: Đọc hiểu
văn bản.
Bước 1. Tìm hiểu mối
quan hệ giữa hiền tài và
thiên tử
+ GV: Người viết đã xác
định vai trò và nhiệm vụ
cao cả của người hiền là gì?
+ GV: Cách nêu vấn đề có


YÊU CẦU CẦN ĐẠT
I. TÌM HIỂU CHUNG:
1. Tác giả:
2. Tác phẩm:
a. Thể loại:
Chiếu là VB do vua ban, người viết thường là quan
văn,viết theo lệnh vua.
b. Hoàn cảnh sáng tác:
- 1788, Quang Trung tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân
Thanh
- Bề tôi nhà Lê mang tư tưởng trung quân phản ứng
tiêu cực
- Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm thay lời
mình viết “Chiếu cầu hiền”
– Kêu gọi những người tài đức ra giúp dân giúp
nước
II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN:
1. Mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử.
- Tác giả bắt đầu bằng lời khẳng định, so sánh: “
Người hiền...trời cao” -> người hiền giống như ngôi
sao sáng trên bầu trời.
- Dẫn ra quy luật của tinh tú “ Sao sáng...Bắc Thần”
-> Người hiền phải do thiên tử sử dụng, phải quy
thuận về với nhà vua.
- Sự khẳng định còn cao hơn khi đặt ra giả thiết: “
12


tác dụng gì?


Bước 2. Tìm hiểu cách
ứng xử của sĩ phu Bắc Hà
và nhu cầu của đất nước
+ GV: Tác giả đã nêu ra
những thái độ của sĩ phu
Bắc Hà?
+GV:Cho học sinh tranh
biện :Trước cách ứng xử
của sỹ phu Bắc Hà với triều
đại Tây Sơn em đồng tình
hay phản đối?
+ HS: Dựa trên sự phân
công và chuẩn bị ở nhà, cử
đại diện phát biểu.
GV đã dự kiến tình huống ở
mục 2.3.2
+ GV: Trước tình hình đó,
tâm trạng của vua Quang
Trung như thế nào?
+ GV: Hai câu hỏi tu từ mà
nhà vua đặt ra có ý nghĩa và
tác dụng gì?
+ GV: Tác giả đã nhắc lại
thực trạng gì của đất nước?
+ GV: Từ thực trạng đó, tác
giả muốn nêu lên nhu cầu
gì? Cách nói như thế nào?
+ GV: Qua đó, cho ta biết
được điều gì về vua Quang
Trung?


Nếu như...người hiền vậy” -> Nếu hiền tài không do
thiên tử sử dụng là đi ngược quy luật, trái đạo trời.
( giống ánh sáng bị che lấp, vẻ đẹp bị giấu đi).
=> Những hình ảnh được lấy từ Luận ngữ ( sách
kinh điển của các nhà Nho) của Khổng Tử -> Cách
đặt vấn đề: ngắn gọn, rõ ràng, có sức thuyết phục đối
với sĩ phu Bắc Hà trong bối cảnh đó.
2. Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của
đất nước:
+ Cố chấp vì chữ trung với triều đại cũ mà vứt bỏ
việc làm quan đi ở ẩn, uổng phí tài năng: “ Kẻ sĩ…
việc đời”.
+ Người ở lại triều chính thì im lặng: “ Những bậc
tinh anh…lên tiếng”.
+ Các quan lại cấp dưới thì làm việc cầm chừng,
không phục vụ cho triều đại mới: “ Cũng có kẻ…
suốt đời”.
=> Sử dụng hình ảnh lấy từ kinh điển Nho gia( điển
tích, điển cố), hoặc mang ý nghĩa tượng trưng: tạo
cách nói tế nhị châm biếm nhẹ nhàng, thể hiện kiến
thức sâu rộng của người cầu hiền.
- Tâm trạng của vua Quang Trung:
+ “Nay trẫm đang … tìm đến”
 Thành tâm, khắc khoải mong chờ người hiền ra
giúp nước
+ Hai câu hỏi tu từ:
“Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng?”
“Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương
hầu chăng?”

 Cách nói khiêm tốn nhưng thuyết phục, tác động
vào nhận thức của các hiền tài buộc người nghe phải
thay đổi cách ứng xử.
b. Thực trạng và nhu cầu của thời đại:
- Thực trạng đất nước:
 Cái nhìn toàn diện sâu sắc: triều đại mới tạo lập,
mọi việc đang bắt đầu nên còn nhiều khó khăn
- Nhu cầu thời đại: hiền tài phải ra trợ giúp nhà
vua
+ Dùng hình ảnh cụ thể:
“Một cái cột … trị bình”
 Khẳng định vai trò to lớn của người hiền tài
+ Dẫn lời Khổng Tử:
“Suy đi … hay sao?”
 Khẳng định đất nước có nhiều nhân tài để đi đến
13


Bước 3. Hướng dẫn HS
tìm hiểu con đường để
hiền tài cống hiến cho đất
nước
+ GV: Nhà vua đã đề ra
những cách nào để người
hiền tài có thể ra phục vụ
cho đất nước?
+ GV: Qua đó, nhận xét về
biện pháp cầu hiền của vua
Quang Trung?
+ GV: Bài chiếu kết thúc

bằng những lời lẽ như thế
nào?
Bước 4. Hướng dẫn HS
tìm hiểu nghệ thuật bài
chiếu
+ GV: Nhận xét về lập luận
của bài chiếu?
- GV: Đưa ra vấn đề tranh
biện tại chỗ về vấn đề: Cách
lập luận như thế có thể hiện
sự nhạy bén của tác giả
trước thời cuộc không?
HOẠT ĐỘNG 3: Tổng kết
và vận dụng, mở rộng.
GV cho hs tranh biện vấn
đề: Từ tư tưởng của bài
chiếu theo các em, đối với
du học sinh hiện nay nên về
Việt Nam hay ở nước ngoài?

kết luận: người hiền tài phải ra phục vụ hết mình cho
triều đại mới
 Vua Quang Trung: Vị vua yêu nước thương dân,
có tấm lòng chiêu hiền đãi sĩ. Lời lẽ: khiêm nhường,
chân thành, tha thiết nhưng cũng kiên quyết, có sức
thuyết phục cao
3. Con đường để hiền tài cống hiến cho đất nước:
- Cách tiến cử những người hiền tài:
- Biện pháp cầu hiền: đúng đắn, rộng mở, thiết thực
và dễ thực hiện

- Bài chiếu kết thúc bằng lời kêu gọi, động viên mọi
người tài đức ra giúp nước:
“Những ai … tôn vinh”
 Quang Trung là vị vua có tư tưởng tiến bộ
4. Nghệ thuật bài chiếu:
Bài văn nghị luận mẫu mực:
- Lập luận: chặt chẽ, hợp lí, giàu sức thuyết phục.
- Lời lẽ: mềm mỏng, khiêm nhường nhưng ràng
buộc khiến kẻ sĩ phải thấy được trách nhiệm của
mình.
- Từ ngữ, hình ảnh:
+ Sử dụng nhiều điển cố, hình ảnh ẩn dụ, tượng
trưng.
+ Từ ngữ chỉ không gian: trời, đất, sao gió mây
(vũ trụ); triều đường, triều chính, dãy đất văn hiến,
trăm họ (nơi cần người hiền tài)
 Tạo cảm giác trang trọng, thiêng liêng cho lời kêu
gọi
 Tác dụng:
+ Tạo ấn tượng tốt về vua Quang Trung để thuyết
phục sĩ phu Bắc Hà.
+ Thể hiện sự uyên bác và tài năng văn chương
Ngô Thì Nhậm
III. Tổng kết và vận dụng, mở rộng
Dự kiến tình huống ở mục 2.3.2

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1. Đánh giá việc tổ chức dạy học thực nghiệm
* Ưu điểm:

- GV làm việc trên lớp khoa học hơn, thể hiện đúng vai trò là người định
hướng, thúc đẩy quá trình học tập của HS.
- GV tổ chức các hoạt động cho HS khá linh hoạt và phù hợp với đối tượng
14


- HS hứng thú trình bày, bộc lộ quan điểm của cá nhân và thực sự đã làm chủ
được quá trình tiếp nhận tri thức.
* Nhược điểm:
- Ở phần thảo luận nhóm nề nếp lớp có đôi lúc còn lộn xộn.
- Thời gian phân bố giữa các phần kiến thức chưa phù hợp
- Học sinh thực sự nhận thức đầy đủ về năng lực phản biện
2.4.2. Đánh giá qua kết quả học tập của học sinh
- Đánh giá định tính qua thái độ học tập của HS:
+ Cởi mở, tôn trọng, nâng cao kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết, tư duy phản
biện
+ Thảo luận nhóm sôi nổi, có hiệu quả
+ Tập trung vào bài học, tích cực tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài
học. Nhìn chung, HS thực sự làm chủ giờ học của mình.
+ HS rất hứng thú khi tiếp nhận các vấn đề tình huống gắn với thực tế.
- Đánh giá định lượng qua bài kiểm tra
Tổ chức hoạt động tranh biện trong dạy học được tôi sử dụng khá thường
xuyên trong tiến trình dạy học của mình, nó không chỉ ở những bài thuộc văn
bản nghị luận, mà còn ở văn bản văn học. Ví dụ như: “Vội vàng”(Xuân Diệu)
với vấn đề quan niệm sống; Phí Phèo – về vấn đề ý thức trách nhiệm với bản
thân của mỗi con người “Chí Phèo”(Nam Cao)… Thực tế giảng dạy không phải
lúc nào cũng áp dụng các PPDH mới sẽ thành công ngay được, chúng ta cần có
sự linh hoạt, sáng tạo kích thích hoạt động của HS theo từng mức độ, phù hợp
với năng lực đối tượng. Không nên lấy tiêu chí đặt HS vào một giới hạn nào đó,
mà cần lấy sự tiến bộ trong từng HS để đánh giá tính hiệu quả của PPDH. Chính

sự tích cực, sáng tạo và yêu nghề của GV sẽ là động lực thúc đẩy sự thành công
của CT giáo dục mới chúng ta hiện nay.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1.Kết luận
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực hoạc sinh là mục tiêu trọng tâm,
cơ bản của giáo dục hiện nay. Nó thể hiện CT giáo dục hiện đại, phù hợp với nhu
cầu người học và xu thế phát triển của giáo dục thế giới. Do đó GV cần tìm hiểu
và thực sự đổi mới về tư duy, nhận thức để công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện
của giáo dục được thành công.
Đổi mới PPDH là yêu cầu tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
hiện nay. Hoạt động tranh biện được xem PPDH tích cực để giúp GV rèn luyện
kỹ năng nói, nghe cho HS rất hiệu quả. Đặc biệt, với PP này sẽ giúp HS phát
triển được tư duy phản biện và năng lực phản biện, đó là một trong những tố
chất cần thiết của nền giáo dục hiện đại. Tuy nhiên, khi sử dụng PPDH này, GV
cần linh hoạt, sáng tạo tùy vào từng đối tượng HS và bài học cụ thể để đạt hiệu
quả tốt.
Văn bản Chiếu cầu hiền thuộc văn bản nghị luận – một trong ba thể loại văn bản
chính sẽ được đưa vào CT và SGK mới. Việc tìm tòi, vận dụng các PPDH mới là
các cách tiếp cận tích cực nhất cho việc đón nhận CT mới sắp tới. Đây cũng là
15


những kinh nghiệm dạy học của bản thân tôi trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục nước nhà hiện nay.
3.2. Kiến nghị
Đối với Sở giáo dục đào tạo: Cần tổ chức tập huấn sâu rộng và có tài liệu
hướng dẫn cụ thể về đổi mới dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh.
Đối với nhà trường THPT: Cần tạo điều kiện cho tổ chuyên môn tổ chức những
Hội thảo về việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển
năng lực học sinh. Triển khai những chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm có chất

lượng vào giảng dạy thực tế.
Đối với tổ chuyên môn: chủ động xây dựng phân phối CT như hiện nay, cần
sắp xếp các văn bản nghị luận trong CT thành chủ đề để giảng dạy được hợp lý
và hiệu quả hơn. Thông qua sinh hoạt chuyên môn, cần đưa ra các trao đổi về
các PPDH mới để GV tích cực chủ động khi tiếp nhận CT mới.
Đối với GV: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là một xu hướng dạy
học mới, tiến bộ, để đạt được hiệu quả tốt, GV cần phải tích cực tự học hỏi, trau dồi
kiến thức chuyên môn và liên môn; rèn luyện kỹ năng sử dụng CNTT, khả năng
tìm kiếm thông tin mở. Bồi dưỡng phát triển năng lực học sinh là GV cũng đã tự
bồi dưỡng chính năng lực nghiệp vụ cho bản thân.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa,ngày 26 tháng 6 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Hiền

1
2
3
4
5

6
7
8


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Ngữ văn 11, tập 1, Nxb Giáo dục
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Ngữ văn 11, tập 2, Nxb Giáo dục
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu hội thảo Xây dựng chương trình giáo
dục phổ thông theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn Đổi mới kiểm tra, đánh giá
chất lượng học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp
trung học phổ thông.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông, môn Ngữ
văn
Phan Huy Dũng (2009), Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông - Một
góc nhìn, một cách đọc, Nxb Giáo dục Việt Nam
16


9
10
11
12
13

14

Phan Huy Dũng (chủ biên, 2016), Để làm tốt bài thi môn Ngữ văn kỳ thi THPT
Quốc gia phần Đọc hiểu, Nxb Giáo dục Việt Nam
Richard Paul – Linda Elder (2015), Cẩm nang tư duy phản biện, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh

Trần Đình Sử (2013), Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn, Nxb Giáo dục.
Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và SGK Ngữ văn THPT, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
Đỗ Ngọc Thống (2013),“Đánh giá kết quả học tập - một mắt xích trọng yếu của
đổi mới giáo dục phổ thông”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia Về dạy học
Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 792800.
Đỗ Ngọc Thống (tổng chủ biên, 2018), Dạy học phát triển năng lực môn Ngữ
văn, trung học phổ thông, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

17


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hiền
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Chu Văn An

T
T

1.
2.
3.

Tên đề tài SKKN

Cách định hướng tiếp nhận trong

giờ đọc văn
Vận dụng thao tác lập luận so
sánh trong làm văn nghi luận văn
học
Định hướng đọc - hiểu truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô
Hoài từ góc độ văn hóa vùng miền
nhằm tạo hứng thú cho học sinh
trong giờ đọc văn

Kết
quả
đánh
Cấp đánh giá
giá
xếp loại
Năm học
xếp
(Ngành GD
đánh giá
loại
cấp huyện/tỉnh;
xếp loại
(A,
Tỉnh...)
B,
hoặc
C)
Hội đồng khoa
B

học ngành
2007-2008
Hội đồng khoa
B
học ngành
2010-2011
Hội đồng khoa
học ngành

C

2014-2015

----------------------------------------------------

18



×