Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh trường THPT quan hóa thông qua giảng dạy nội dung phần nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.37 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT QUAN HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
TRƯỜNG THPT QUAN HÓA THÔNG QUA GIẢNG DẠY
NỘI DUNG PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Người thực hiện: Cao Thị Minh
Chức vụ: Thư ký Hội đồng
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2020


MỤC LỤC


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là nền móng của sự phát triển khoa học - kỹ thuật, giáo dục
mang lại sự phát triển cho nền kinh tế quốc dân, nền văn minh của đất nước. Với
mục tiêu giáo dục của Việt Nam là đào tạo con người, đào tạo thế hệ trẻ Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ, có nghề
nghiệp và kỹ năng sống có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển
đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Đứng
trước những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới,
nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao thì mục tiêu giáo dục toàn diện học


sinh được xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu đối với mỗi đơn vị trường
học, mỗi cấp học.Trong đó giáo dục đạo đức được coi là yếu tố hàng đầu, là nền
tảng để hình thành nhân cách của con người. Vì vậy việc giáo dục đạo đức cho
học sinh được xác định là một quá trình lâu dài, xuyên suốt trong quá trình giáo
dục.
Trường THPTQuan Hóa tỉnh Thanh Hóa là một trường thuộc huyện miền
núi chủ yếu là người đồng bào thiểu số sinh sống. Nhà trường đã và đang từng
ngày cố gắng để hoàn thành tốt các mục tiêu chung của ngành, của đơn vị. Tuy
nhiên, đối tượng học sinh ở đây nhiều em còn rụt rè, tự ti, ít nói. Điều kiện gia
đình nhiều em còn có hoàn cảnh khó khăn, ba mẹ phần lớn làm nương rẫy,
không quan tâm đến việc học của con cái. Đặc biệt phần lớn các em học sinh
đều thiếu kỹ năng sống. Đây là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào
tạo của nhà trường.
Thực tế cho thấy, một trong những hạn chế nổi cộm lên là tình trạng học
sinh thiếu kỹ năng sống, biểu hiện qua nhiều hành vi ứng xử không phù hợp
trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với các tình huống trong cuộc sống như: ứng
xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi công cộng; thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha
mẹ và người lớn tuổi; chưa có ý thức bảo vệ môi trường….
Qua tìm hiểu bản thân tôi nhận thấy, hiện tại chưa có nhiều các tài liệu
nghiên cứu nào bàn sâu vào vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức và kỹ
năng sống cho học sinh miền núi đặc biệt là vấn đề nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh miền núi thông qua giảng dạy nội
dung phần nghị luận xã hội. Ngay cả tại đơn vị nơi tôi công tác, các đồng
nghiệp, nhà trường cũng chưa có nhiều kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục
vấn đề này.
Từ những vấn đề trăn trở nêu trên, từ khi giảng dạy, tôi đã rút ra được
nhiều kinh nghiệm qua từng năm, xoay chuyển mọi cách, suy nghĩ tìm tòi, học
hỏi những đồng nghiệp có uy tín, có năng lực để công tác giáo dục của mình đạt
hiệu quả cao. Xuất phát từ những lí do đó nên bản thân đã suy nghĩ tìm ra một
số biện pháp nhỏ để góp phần làm tốt công tác giáo dục đạo đức và kỹ năng

sống cho học sinh miền núi, tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài : “ Một
số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học
1


sinh trường THPT Quan Hóa thông qua giảng dạy nội dung phần nghị luận
xã hội”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ thực trạng xã hội và thực tế học sinh của trường THPT Quan
Hóa, đề tài này của tôi nhằm nghiên cứu thực trạng và một số nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng học sinh còn hạn chế về đạo đức và thiếu kỹ năng sống.
Từ đó tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp mà bản thân và nhà trường đã áp
dụng thành công trong quá trình công tác của mình, nhằm tạo sự chuyển biến
trong nhận thức, nâng cao đạo đức và kỹ năng sống của các em học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh trường THPT Quan Hóa - một trường thuộc vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát, khảo sát thực tế.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Giáo dục đạo đức là một bộ phận của giáo dục và là sự tác động đến đối
tượng giáo dục để họ dần dần có được những quan điểm, quan niệm chung về
công bằng, về cái thiện, cái ác, về lương tâm, danh dự và những phạm trù khác
thuộc lĩnh vực đạo đức tinh thần của xã hội. Các tiêu chuẩn về đạo đức xã hội
tồn tại bất thành văn nhưng được xã hội thừa nhận và mỗi cá nhân buộc phải

tuân theo thì mới có thể trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Đó là các
chuẩn mực đạo đức như: “Yêu quê hương đất nước”; “Kính trọng ông bà, cha
mẹ”; “Kính trên, nhường dưới”; “Tôn sư, trọng đạo”…[4].
“Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng
cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết
học, đạo đức). Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ.
Luận là bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để
người ta nhận ra chân lí, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của
mình. Sức mạnh của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính
mạch lạc, chặt chẽ của suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận. Vận
dụng các thao tác như giải thích, phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh…” [3].
Nghị luận xã hội là những bài văn bàn về xã hội, chính trị, đời sống. Đề
tài của dạng bài nghị luận xã hội cũng hết sức rộng mở. Nó gồm tất cả những
vấn đề về tư tưởng, đạo lí, một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc tiêu
cực trong cuộc sống hàng ngày, vấn đề thiên nhiên môi trường, vấn đề hội nhập,
toàn cầu hoá…Nghĩa là, ngoài những tác phẩm nghị luận văn học (lấy tác phẩm
văn học, nhà văn làm đối tượng), tất cả các dạng văn bản viết khác đều có khả
năng được xếp vào dạng nghị luận xã hội, chính trị.
2


Đối tượng của nghị luận xã hội là những vấn đề nảy sinh trong đời sống
chính trị xã hội như đạo đức, lẽ sống, lý tưởng, hạnh phúc, lao động, tình bạn,
tình yêu…thường được thể hiện cô đọng trong các câu tục ngữ, danh ngôn, các ý
kiến nhận định tổng quát. Mục đích của nghị luận xã hội là đưa những vấn đề
trên ra để bàn bạc, làm sáng tỏ đúng, sai, tốt, xấu…Nhằm tuyên truyền, giáo
dục, cổ động, kêu gọi mọi người tham gia giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong đời sống chính trị - xã hội. "Góp phần làm cho đời sống tinh thần của con
người thêm phong phú, tạo cho mỗi người có ý thức chăm sóc cuộc sống của
bản thân mình và xây dựng mối quan hệ trong xã hội, trong cộng đồng ngày một

bền vững hơn, văn minh, tốt đẹp hơn"[2, trg40].
Việc học làm văn nghị luận xã hội giúp học sinh có năng lực trí tuệ phát
triển, hình thành tư duy hợp lý, khoa học, biết cách tìm tòi và xác định chân lý;
biết cách diễn đạt, phát biểu ý kiến của mình một cách rõ ràng. Sách giáo khoa
Làm văn Lớp 10 còn viết: "Học làm văn nghị luận xã hội còn xây dựng cho học
sinh phương pháp tư duy đúng đắn để hình thành thế giới quan khoa học và
nhân sinh quan tiến bộ. Biết đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, biết ứng xử
đẹp trong các mối quan hệ với người khác, biết hướng cuộc sống của mình vào
những mục tiêu cao cả" "[2]. Đây chính là những vốn sống vô cùng quan trọng
trong hành trang mà các thầy cô chuẩn bị cho các em khi bước vào đời. Bởi sau
khi tốt nghiệp phổ thông trung học không phải ai cũng theo nghiệp văn chương
nhưng bất kỳ ai cũng phải đối mặt với những vấn đề xã hội. Và phải giải thích,
chứng minh, thể hiện quan điểm, lập trường, tư tưởng, tình cảm của mình trước
các vấn đề đó. Vì vậy, càng phải rèn luyện cho các em làm tốt loại văn này.
Phạm vi của nghị luận xã hội rất rộng, được chia thành các chủ điểm lớn:
- Nghị luận về vấn đề đạo đức
- Nghị luận về vấn đề nhân sinh
- Nghị luận về vấn đề chính trị
- Nghị luận về vấn đề tư tưởng - văn hóa
- Nghị luận về vấn đề kinh tế
- Nghị luận về vấn đề lịch sử
- Nghị luận về vấn đề địa lý - môi trường… "[4].
Trong các nội dung trên vấn đề đạo đức- nhân sinh là nội dung cần được
quan tâm đặc biệt.
Căn cứ vào những vấn đề cơ sở lý luận trên, bản thân tôi đã nhận thức sâu
sắc tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh
miền núi thông qua vệc giảng dạy nội dung phần nghị luận xã hội. Từ đó, bản
thân đã tiến hành khảo sát, phân tích để tìm ra thực trạng, nguyên nhân của các
thực trạng, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thay đổi thực trạng đó.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

Quan Hoá là huyện vùng cao, biên giới, cách trung tâm tỉnh Thanh Hoá
140 km về phía Tây. Toàn huyện có 10.762 hộ với 47.335 người, gồm 5 dân tộc
anh em sinh sống: Dân tộc Thái chiếm 65,61%; dân tộc Mường chiếm 24,,48%;
dân tộc Kinh chiếm 8,97%; dân tộc H'Mông chiếm 0,82% và dân tộc
3


Hoa 0,12%. Quan Hóa là 01 trong 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30A của
Chính phủ. Trong những năm qua an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an
ninh biên giới, lãnh thổ tương đối ổn định. [5]
Trường THPT Quan Hóa nằm trên địa bàn huyện Quan Hóa, 85% đối
tượng học sinh của nhà trường là người dân tộc thiểu số như: Thái, Mường,
Mông… Trong đó các em là người dân tộc Thái chiếm khoảng 90%. Qua nhiều
năm công tác bản thân tôi nhận thấy chất lượng của nhà trường trong mấy năm
gần đây đã được nâng lên, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội,
chưa đạt được so với yêu cầu đặt ra. Chất lượng chung của nhà trường vẫn còn
là một vấn đề “ nóng” rất cần được giải quyết, một trong những vấn đề đó là
công tác giáo dục đạo đức và nâng cao kỹ năng sống cho học sinh nhà trường .
[1]
Vấn đề đạo đức và kỹ năng sống của học sinh và đặc biệt là học sinh miền
núi vẫn còn có nhiều hiện tượng tiêu cực xảy ra như: bạo lực học đường ngày
càng gia tăng, học sinh thiếu lễ phép với ông bà, cha mẹ, không ít bộ phận học
sinh thiếu tính tự tin, sống cô lập, sống ích kỷ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia
đình và bản thân, vi phạm pháp luật, đạo đức lối sống xuống cấp, nạo phá thai,
xâm phạm tình dục, đắm chìm trong thế giới ảo của Internet, tảo hôn… gây bức
xúc cho nhà trường, gia đình và xã hội.
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến những tiêu cực trên là do nhiều em thiếu hụt
về kỹ năng sống. Đối với đặc thù riêng biệt của học sinh miền núi, khi các em đa
phần là dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa nên các em thường nhút nhát và
thiếu tự tin hơn các bạn cùng trang lứa. Học sinh đến từ các bản làng xa xôi, ít

có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài, môi trường sống còn nhiều khó khăn, thiếu
thốn, các phương tiện truyền thông về văn hóa, xã hội còn chưa phổ biến. Đó là
những vấn đề thực tế mà các em học sinh ở các trường ở miền núi, vùng sâu,
vùng kinh tế chưa phát triển đang gặp phải, học sinh trường THPT Quan Hóa
cũng không phải là ngoại lệ. Hơn nữa, các em học sinh là con em đồng bào các
dân tộc thiểu số nên nhiều em hiền lành, ngoan ngoãn, đa số lại ít nói, ngại tiếp
xúc và chậm xử lý những tình huống xảy ra trong cuộc sống cũng như trong học
tập và các vấn đề khác trong cuộc sống…. Do vậy, vấn đề đặt ra là các trường
phổ thông cần giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh, với mục đích là
hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng
xử phù hợp với những người xung quanh, khả năng ứng phó tích cực trước các
tình huống phức tạp, muôn hình, muôn vẻ của cuộc sống.
Từ thực tế bản thân quan sát, tôi nhận thấy trong nhiều năm trở lại đây
học sinh của nhà trường đã quan tâm hơn đến việc học, chất lượng học sinh
được nâng lên ở các môn học, trong đó có bộ môn Ngữ văn. Bản thân nhận thấy,
trong các giờ học môn Ngữ văn, các em đã có hứng thú hơn. Qua nhiều năm
công tác bản thân thấy việc đưa các nội dung giáo dục đạo đức và kỹ năng sống
vào bài học để giảng dạy cho các em là rất hiệu quả. Trong đó phải nói tới phần
nội dung dạy nghị luận xã hội.
Nghị luận xã hội là dạng đề kiểm tra về kỹ năng, vốn sống, mức độ hiểu
4


biết của học sinh về xã hội để các em nêu lên những suy nghĩ về cuộc sống, về
tâm tư tình cảm nói chung nhằm giáo dục, rèn luyện nhân cách cho học sinh.
Nhìn chung, dạng đề văn nghị luận xã hội thường tập trung vào một số vấn đề
cơ bản mang giá trị đạo lý làm người, những hiện tượng thường xảy ra trong xã
hội mà qua đó trở thành kinh nghiệm sống cho mọi người.. Vì vậy, khi học văn
nghị luận xã hội này các em học sinh có điều kiện hiểu biết hơn về kỹ năng
sống, đạo đức, từ đó giúp các em phát triển nhân cách. Tuy nhiên, một thực tế

cho thấy, còn rất nhiều em khi làm bài nghị luận xã hội còn đưa ra một số ý kiến
chưa đúng với đạo đức, bản thân các em chưa có nhiều kỹ năng sống. Qua
nghiên cứu thực tế tại đơn vị bản thân nhận thấy một số nguyên nhân cơ bản dẫn
đến tình trạng trên đó là:
* Nguyên nhân khách quan:
- Do nền kinh tế thị trường phát triển, thế giới công nghệ ngày càng hiện
đại, kênh thông tin đến với học sinh rất đa dạng, hấp dẫn… chính điều này đã có
tác động vừa tích cực, vừa tiêu cực đến đối tượng học sinh của trường THPT
Quan Hóa nói riêng và đối tượng học sinh nói chung. Nó giúp các em tìm kiếm
thông tin nhanh chóng, vui chơi giải trí dễ dàng…Nhưng mặt trái của nó là
thông tin trên mạng thì chưa được sàng lọc đã ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý,
nhận thức của các em như: bạo lực, các trò chơi độc hại, các chương trình nhạy
cảm……
- Do một bộ phận cha mẹ ít quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho
con em mình nên các em còn thiếu kiến thức hiểu biết xã hội.
- Trong các tiết dạy Ngữ văn, đặc biệt là tiết dạy nghị luận xã hội nhiều
thầy cô và học sinh mang tâm lý cho rằng nó dễ, không tạo được hứng thú tìm
hiểu của học sinh, không phát huy được vai trò của văn nghị luận xã hội đến đạo
đức và kỹ năng sống của học sinh.
- Không có tài liệu hoặc là ít tài liệu để tham khảo.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Chủ yếu do bản thân các em ngại học Văn, cho đây là môn học dài, khó
học; các em ít quan tâm đến các vấn đề của xã hội …
- Do các em còn ngại thể hiện tư tưởng tình cảm của mình (Trong khi đó
văn nghị luận xã hội phải trực tiếp bộc lộ điều này).
- Các em thích lên mạng xã hội hơn là việc tìm hiểu thực tế cuộc sống
quanh mình, và xem những thông tin không mang tính giáo dục.
Trước thực trạng đó đã đặt ra những khó khăn rất lớn đối với công tác
giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường. Đặc biệt rất khó khăn trong việc
giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho các em.

Bản thân tôi là một giáo viên người dân tộc Thái, đã giảng dạy lâu năm và
gắn bó với công tác giáo dục miền núi, tôi cảm thấy rất trăn trở và luôn mong
muốn tìm ra được những biện pháp tích cực để giáo dục đạo đức và kỹ năng
sống cho học sinh.
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5


Từ thực tế vừa nêu và trong khuôn khổ của bài viết, bản thân tôi mạnh
dạn đưa ra một số biện pháp nhằm cải tiến phần nào hiệu quả của tiết dạy nghị
luận xã hội, mang lại cho học sinh hứng thú học tập. Đặc biệt, điều tôi quan tâm
là thông qua nội dung dạy học này để giáo dục đạo đức và nâng cao kỹ năng
sống cho các em. Cụ thể một số giải pháp bản thân tôi đã nghiên cứu, thực hiện
và cho kết quả tốt đó là:
Thứ nhất, phải tìm hiểu kỹ để có kiến thức, hiểu biết về xã hội, đặc biệt
trong bài giảng này là hiểu biết về các vấn đề nói về đạo đức và kỹ năng sống
của học sinh hiện nay,….Bản thân tôi là giáo viên dạy môn văn, sau giờ làm việc
ở trường tôi luôn cố gắng đọc nhiều sách báo, các tài liệu liên quan đến tâm lý
học sinh THPT, các tài liệc cũng như phương pháp dạy văn nghị luận xã hội, các
kỹ năng cần thiết cung cấp cho học sinh THPT đặc biệt là học sinh miền núi.
Trong giờ ra chơi của các em tôi cũng tranh thủ tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của
các em để từ đó có những bài dạy sát với thực tế cuộc sống và dễ chạm vào trái
tim của các em hơn.
Thứ hai, giáo viên đưa ra các đề tài sát với thực tế cho các em nhận định,
phân tích một cách phù hợp, tinh tế. Sau khi tìm hiểu rõ tâm lý, hoàn cảnh gia
đình của các em, tôi hiểu ra các em cần giáo dục về vấn đề gì? Kỹ năng nào cần
thiết đối với các em nhất? Tôi lấy đó làm căn cứ để đưa ra các đề tài phù hợp với
các em giúp các em rèn luyện đạo đức và kỹ năng sống giúp các em phát triển
tốt nhất.
- Đối với tập thể học sinh: Ta nên chọn những vấn đề cập nhật, nóng hổi

bức thiết nhất của đời sống xã hội. Đặc biệt có liên quan đến đạo đức, lối sống,
niềm tin, lý tưởng… của học sinh để ra đề. Nhưng cũng cần quan tâm đến những
vấn đề chung cho nhận thức của tất cả học sinh. Theo quan điểm cá nhân thì qua
việc ra đề phải làm thế nào giúp học sinh tái hiện lại được những gì mà các em
đã thấy về đời sống xã hội. Từ đó giúp các em tự nhận thức. Và từ đó mà có sự
vận động thay đổi trong chính bản thân mình, giúp các em tu dưỡng đạo đức và
rèn kỹ năng sống.
Ví dụ:
Đề 1: Có người đã cho rằng: "Tất cả những gì trong phim, truyện diễn
trên sân khấu đều đáng để cho chúng ta học tập". Em có suy nghĩ như thế nào
về vấn đề này?
Tác dụng của đề giáo dục cho học sinh cách nhìn nhận, đánh giá và cách
thức học hỏi khi tiếp cận những vấn đề xã hội.
Đề 2: Em có suy nghĩ gì về nghề nghiệp tương lai của mình?
Đề văn giúp cho việc giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Đề 3: Ông cha ta có câu: "Tiên học lễ hậu học văn" Em hãy giải thích và
bình luận câu nói trên.
Tác dụng của đề giáo dục cho học sinh về đạo đức lễ nghĩa.
- Đối với học sinh cá biệt: Những biểu hiện ở đối tượng học sinh này đang
là một vấn đề nhức nhối hiện nay. Các em thường vi phạm đạo đức, bê trễ việc
học hành, sa vào những tệ nạn xã hội…vì vậy với bộ môn văn (và cả ở những bộ
6


môn khác) việc các em làn bài kiểm tra kém chất lượng hoặc thiếu bài kiểm tra
là điều thường xuyên xảy ra. Trong những trường hợp này chúng ta nên yêu cầu
các em làm đủ bài kiểm tra bằng những đề văn nghị luận xã hội xã hội. Nhưng
cũng tùy vào từng đối tượng học sinh để ra đề văn phù hợp. Chẳng hạn như:
+ Với những học sinh ngổ ngáo hay bỏ giờ, la cà quán xá, vô lễ với ông
bà, cha mẹ, thầy cô, hay gây gỗ đánh nhau, cờ bạc rượu chè… ta cần nắm bắt

những "điểm yếu" của các em để "tấn công" giúp cho các em nhận ra sai lầm
của mình. Ví dụ:
Đề 1: Thang Nhược Sư từng quan niệm: "Không lấy bậy - tay thơm,
không nói bậy - miệng thơm, không nghĩ bậy - tâm thơm". Em hãy giải thích về
quan niệm trên.
Đề 2: Có người đã cho rằng: "Tiền bạc là phương tiện của những người
thông minh, là mục đích của những kẻ ngu ngốc" Em hãy giải thích và chứng
minh câu nói trên.
Đề 3: £-Pic-Tét (HyLạp) đã từng dạy con rằng: "Không được cho phép
mình hưởng bất kỳ thú vui nào mà chỉ được hưởng những thú vui không có gì
xấu". Hãy giải thích tại sao ông ấy lại dạy con như thế.
Qua khảo sát thực tế tôi nhận thấy học sinh THPT hiện nay có nhiều biểu
hiện sa sút về mặt đạo đức lối sống như: không vâng lời ông bà, cha mẹ; nói dối
gia đình lấy tiền la cà quán xá, vô lễ với thầy cô; không coi trọng việc học hành,
tu dưỡng đạo đức, có tư tưởng sống gấp rất cá nhân, ích kỷ; có một số học sinh
hiểu rất mơ hồ về lĩnh vực chính trị - xã hội. Chẳng hạn như về chiến tranh, về
lịch sử dân tộc….. Có em còn cho rằng: "Đó là bịa thêm chứ không hoàn toàn là
sự thật". Về nghề nghiệp các em không biết cách định hướng. Điều đáng buồn là
có những học sinh sống, học tập mà không hề biết đến mục đích sống, lý tưởng
sống là gì. Khi được hỏi mục đích đi học của em là gì thì nhiều em trả lời một
cách rất tự nhiên rằng: "Đi học để lấy cái bằng lớp 12 "; "Đi học để sau này khỏi
phải làm ruộng". Một thực tế nữa là có những học sinh không may vấp ngã thì
lâm vào tình trạng bi quan chán nản, không tự mình đứng dậy được nên đành tặc
lưỡi: "Mặc kệ… đến đâu thì đến". Đó là những biểu hiện rất nguy hại, nếu
không có sự can thiệp, giúp đỡ kịp thời thì tương lai các em sẽ như thế nào?
Trước thực tế đó (Trên cơ sở vấn đề mình đang quan tâm) tôi đã tiến hành phân
loại được một số nhóm đề như sau:

Nhóm 1: Giáo dục học sinh chăm chỉ, cần cù chống thói lười
biếng, dựa dẫm, ta có thể đưa ra một số vấn đề như:

Đề 1: B.Phran klin đã nói rằng: "Lười biếng làm mòn rỉ trí tuệ và thân
thể". Em hãy chứng minh.
Đề 2: Em hiểu như thế nào về câu ngạn ngữ sau: "Người ở không giết thì
giờ rồi thì giờ sẽ giết lại người ở không".
Đề 3: Nhà văn Lỗ Tấn (Trung Quốc) đã nói rằng: "Trên đường thành
công không có vết chân của người lười biếng" Em hãy bình luận câu nói trên.
Đề 4: Ông cha ta thường nói: " Đời người có một gang tay, ai hay ngủ
ngày còn một nửa gang" Em hãy giải thích câu tục ngữ trên.
7


Đề 5: Em hãy bình luận câu nói của V.Huy- gô: "Lười biếng là mẹ đẻ của
thói ăn cắp và sự đói rét".

Nhóm 2: Giáo dục tình cảm gia đình, thầy- trò, tình yêu quê hương
đất nước, có thể đưa ra các vấn đề sau:
Đề 1: Ngạn ngữ có câu: "Chiếc áo máng mẹ ta khâu mặc vào vẫn ấm,
chiếc áo dày người ta may, mặc vào vẫn lạnh". Em hiểu như thế nào về câu
ngạn ngữ trên?.
Đề 2: Người Nhật có câu tục ngữ: " Thói xấu nhất là buông tuồng, đức
quý nhất là đạo làm con" Em hãy bình luận về điều đó.
Thứ ba, khuyến khích học sinh nêu vấn đề về nhận thức; về tâm hồn nhân
cách; về các quan hệ gia đình xã hội, cách ứng xử; lối sống của con người trong
xã hội, dành thời gian để các em trình bày trước tập thể, tạo hứng thú thêm cho
giờ học, giúp các em tự tin, giao tiếp tốt hơn, biết cách cư xử với ông bà, cha
mẹ, bạn bè, thầy cô.
Ví dụ như:
Đề 1: Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: "Con cái ngoan làm cho cha mẹ
hạnh phúc, con cái hư là kẻ đào mồ chôn cha mẹ chóng" Em hãy cho biết ý kiến
của mình về câu ngạn ngữ trên?

Đề 2: Ông cha ta thường nói: "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" (Một chữ là
thầy, nửa chữ cũng là thầy). Quan niệm đó có còn đúng với xã hội hiện nay
không.
Thứ tư, Cho các em làm văn nghị luận xã hội, sau đó khuyến khích các
em trình bày cho các bạn cùng nghe, để các em hiểu nhau hơn, học tập lẫn nhau.
Nghị luận xã hội là dạng đề khá quen thuộc đối với học sinh tuy nhiên khi
làm kiểu bài này học sinh vẫn gặp nhiều khó khăn. Bởi vì văn Nghị luận xã hội
đòi hỏi học sinh cần phải có kiến thức về đời sống xã hội sâu sắc. Bên cạnh đó là
có các kỹ năng phân tích, giải thích, bình luận chứng minh, sử dụng các luận
điểm, dẫn chứng đời sống một cách linh hoạt. Vì vậy, để có những kiến thức để
làm bài văn nghị luận xã hội tốt, trước tiên các em cần biết các dạng đề nghị
luận xã hội thường gặp. Cụ thể các đề tài mà bản thân tôi đã yêu cầu và hướng
dẫn học sinh như sau:
Dạng 1: Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
Là dạng đề cập tới các hiện tượng phổ biến trong cuộc sống, các hiện
tượng đó có thể là tích cực hoặc tiêu cực nhưng nó trực tiếp ảnh hưởng và
thường xuyên xảy ra trong cuộc sống hiện nay.
Nội dung phần này thường hướng tới như: an toàn giao thông, tệ nạn xã
hội, bạo lực học đường, ô nhiễm môi trường, trung thực trong thi cử, nạn vứt rác
bừa bãi, hiến máu nhân đạo, nghiện game, nghiện internet, lối sống ảo, lối học
hình thức đối phó…giúp nâng cao đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh như:
giảm bạo lực học đường, các em tự nâng cao ý thức và giảm gian lận trong thi
cử, các em biết cách khai thác thong tin trên internet hợp lý,…
Các bước tiến hành theo cấu trúc sau:
– Khái niệm hiện tượng (hiện tượng đó là gì?)
8


– Thực trạng của hiện tượng (biểu hiện cụ thể, cái mặt tích cực, tiêu cực
của hiện tượng)

– Hậu quả, tác hại của hại của hiện tượng đó (nếu là hiện tượng tiêu cực)
– Nguyên nhân của việc xảy ra hiện tượng đó là gì?
– Biện pháp khắc phục, xử lí như thế nào?
– Liên hệ bản thân.
Dạng 2: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
Đây là dạng đề nói về một tư tưởng đạo lí, triết lí nhân văn, câu nói mang
tính nhận thức, mối quan hệ về gia đình, xã hội, một số tính cách thể hiện các
phẩm chất của con người .
Nội dung phần này hướng tới: Lí tưởng sống của thanh niên hiện nay,
mục đích sống và học tập, các đức tính của con người: tính trung thực, lòng
khiêm tốn, lòng bao dung, đức tính kiên trì, ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc
sống, các mối quan hệ gia đình: tình mẫu tử, chữ hiếu, sự vô tâm thờ ơ của cha
mẹ đối với con cái, vô cảm, mối quan hệ của xã hội: tình bạn, tình yêu quê
hương đất nước, đạo lí: ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn…. giúp
nâng cao đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh như: bản thân các em thấy yêu
gia đình hơn, biết giúp đỡ bạn bè, biết thể hiện tình cảm với mọi người, biết tự
lập, tự tin,…
Các bước tiến hành theo cấu trúc sau:
– Khái niêm tư tưởng, đạo lí đó là gì?
– Phân tích, chứng minh bình luận các mặt đúng sai của tư tưởng, đạo lí
đó, lấy các ví dụ cụ thể để chứng minh.
– Bài học nhận thức và liên hệ bản thân.
Dạng 3: Nghị luận về một số vấn đề xã hội được rút ra từ trong tác phẩm
văn học nghệ thuật.
Đây là dạng nói về một vấn đề xã hội, một triết lí nhân văn sâu sắc nào đó
được rút ra từ trong tác phẩm văn học nghệ thuật. Vấn đề xã hội này có thể học
sinh đã được học ở trong chương trình sách giáo khoa của mình hoặc trích trong
các mẫu báo, tài liệu khoa học nào đó.
Nội dung phần này hướng tới: Các vấn đề xã hội sâu sắc, nhân văn từ
trong tác phẩm văn học như: Lòng yêu nước, mục đích sống, trách nhiệm của

thanh niên trong xã hội hiện nay, ý chí nghị lực trong cuộc sống, đức tính khiêm
tốn, lí tưởng sống… giúp nâng cao đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh như:
các em thấy yêu quê hương đất nước, yêu bản làng nơi mình sống nhiều hơn,
biết sống có trách nhiệm, biết cố gắng học tập và vươn lên hơn, từ đó góp phần
xây dựng quê hương, bản làng này càng giàu đẹp hơn.
Các bước được tiến hành theo cấu trúc sau:
– Bước 1: Tóm tắt, giải thích, nêu nội dung chính của vấn đề xã hội đặt ra.
– Bước 2: Nghị luận xã hội, tiến hành các thao tác nghị luận xã hội bình
thường tùy thuộc xem đó là tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng đời sống.
Ví dụ như một đề mà bản thân tôi cho học sinh làm bài:
Đề 1: Em có suy nghĩ về đức tính trung thực
9


Đề 2: “Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào
nhoáng”. Từ ý kiến trên, hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 từ) trình bày
suy nghĩ về sự nguy hại của đạo đức giả đối với cuộc sống con người.
Đề 3: Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ về
ý kiến sau: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn
đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa”.
Đề 4: “Phải chăng cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong
cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống”
(Norman Kusin). Hãy giải thích và bình luận ý kiến trên.
Đề 5: Anh/ Chị hãy bình luận ca từ sau đây trong một bản nhạc của Trịnh
Công Sơn: “Sống trên đời cần có một tấm lòng/ Để làm gì em biết không?”.
Đề 6: Trong một lần trả lời con gái thế nào là hạnh phúc, Mác nói:
“Hạnh phúc là đấu tranh”. Anh/chị hiểu câu nói trên như thế nào?
Đề 7: “Mọi lí thuyết đều màu xám, chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi”
(Gớt). Anh/chị hiểu câu nói trên như thế nào”?
Đề 8: Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh vô cảm” trong

xã hội hiện nay.
Đề 9: Viết bài tham gia cuộc vận động tìm giải pháp bảo đảm an toàn
giao thông hiện nay.
Đề 10: Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về bệnh thành tích – một
căn bệnh gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay. Có
thể so sánh liên hệ với trường và lớp anh/ chị đang theo học.
Đề 11: “Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới” (M. Gorki).
Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề trên.
Đề 12: Nhà văn Nga Lev Tolstoi nói “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường.
Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương
hướng thì không có cuộc sống”. Hãy nêu ý kiến của anh/chị về vấn đề trên.
Đề 13: “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu). Dựa vào câu
thơ trên, hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ riêng
của anh/ chị.
Thứ năm, để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho
học sinh trường THPT Quan Hóa nói riêng và học sinh các trường miền núi cao
nói chung, bản thân tôi thấy từ Cấp ủy, Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô
giáo đến các tổ chức trong nhà trường cần nhận thức sâu sắc và phải luôn đặt
công tác giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh lên đầu, đúng với lời
Bác dạy “ Tiên học lễ, hậu học văn”. Bên cạnh việc tích hợp giáo dục đạo đức
của học sinh qua môn Văn học thì cần tích hợp có hiệu quả với nhiều môn học
khác như: GDCD, Hoạt động ngoài giờ lên lớp, Lịch sử….
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Bằng sự nỗ lực của bản thân và sự hợp tác tích cực của học sinh, cùng với
việc áp dụng có hiệu quả biện pháp trên, bản thân tôi nhận thấy tiết dạy đã có sự
chuyển biến rõ rệt. Cụ thể là:
- Về phía bản thân, từ việc đầu tư tìm hiểu, soạn giảng, bản thân tôi đã
10



tìm hiểu được thêm không ít kiến thức mới mẻ cho mình, bản thân tôi là một
giáo viên người dân tộc Thái tôi thấy kiến thức mà bản thân đã tìm hiểu để sử
dụng cho bài giảng không chỉ tốt cho công tác giảng dạy của mình mà nó còn tốt
cho bản thân tôi trong chính cuộc sống hằng ngày mà trước nay tôi chưa biết
được. Điều đó làm tôi thấy tâm hồn ngày càng trong sáng, có thêm kỹ năng
sống, càng thôi thúc tôi phải có ý thức gìn giữ cũng như giúp cho các thế hệ học
sinh mà tôi sẽ giảng dạy thêm yêu và phát triển hơn nữa kỹ năng sống và phẩm
chất cần thiết chuẩn bị vào đời.
- Về phía học sinh, các em học hứng thú hơn, chú tâm hơn vào bài học.
Đặc biệt được bồi dưỡng đạo đức, kỹ năng sống. Qua việc làm đó đã cung cấp
cho học sinh thêm các thông tin thời sự, đạo đức của con người hiện nay, các em
đã có cơ hội học tập lẫn nhau, thấy yêu cuộc sống hơn. Các em đã ý thức được
cần trao dồi đạo đức và kỹ năng sống.
Việc sử dụng các đề tài mang tính thời sự, sát thực tế cho các em phân
tích, bình luận không chỉ cung cấp cho các em kiến thức về Văn học mà nó còn
khắc sâu hơn cho các em kiến thức của nhiều môn học khác, từ đó giúp các em
có tư duy tổng hợp, phân tích. Việc dạy nghị luận xã hội giúp các em có nhận
thức đúng đắn, thêm yêu quê hương, yêu đất nước, yêu gia đình, và các em biết
giúp đỡ bạn bè, làm việc nhóm tốt hơn, có thêm các kỹ năng phòng tránh tệ nạn
xã hội, giúp các em tự tin, có thêm nghị lực, cố gắng trong học tập cũng như
trong cuốc sống.
Điều quan trọng hơn mà tôi thấy được qua bài học đó là: Các em học sinh
đã hiểu thêm về kỹ năng sống; giúp các em hiểu được những tồn tại trong cuộc
sống hiện nay ở một số địa phương của đồng bào dân tộc thiểu số như bỏ học,
nhậu nhẹt, cờ bạc, bị xâm hại,…để từ đó các em có kinh nghiệm sống, có đạo
đức tốt cho chính mình và chính gia đình mình. Các em chính là những tuyên
truyền viên tích cực làm tốt nhất vấn đề này.
Sau nhiều năm nghiên cứu, quan sát việc áp dụng những giải pháp trên,
trong 3 năm học gần đây (năm học 2017 - 2018; 2018 - 2019; 2019 - 2020) tôi
đã tiến hành lấy phiếu khảo sát, thăm dò ý kiến của học sinh (ở 4 lớp

10a2,10a4,11a1 và 12a1, số học sinh tham gia khảo sát là 175 em) về hiệu quả
của việc giáo dục đạo đức, nâng cao kỹ năng sống của các em qua việc học nội
dung phần Nghị luận xã hội. Kết quả tôi thu được như sau:
Bảng kết quả tổng hợp mức độ hứng thú của học sinh với nội dung phần
Nghị luận xã hội:
Năm học
Mức độ
Rất
Không
%
Thích
%
Ít thích %
%
thích
thích
2017 - 2018
54
30.8
47
26.8
63
36.
11
6.3
1
2018 - 2019
73
41.7
56

32.0
38
21.
8
4.6
7
2019 - 2020
87
49.7
68
38.9
18
10.
2
1.1
11


3
Bảng kết quả tổng hợp mức độ nội dung bài học mà học sinh rút ra được
từ phần Nghị luận xã hội:
Năm học
Bản thân đã rút
ra được nhiều
bài học bổ ích,
sâu sắc từ môn
học
2017 - 2018
2018 - 2019
2019 - 2020


63
95
126

%
36.0
54.3
72.0

Mức độ
Bản thân rút
ra được
những bài
học ở mức
độ trung bình
từ môn học
97
75
49

%
55.4
42.9
28.0

Bản thân
không
rút ra
được gì

từ môn
học
15
5
0

%
8.6
2.8
0

Qua số liệu tổng hợp ở 2 bảng thống kê trên, ta có thể thấy qua các năm
học mức độ hứng thú của học sinh đối với bộ môn ngày càng tăng. Qua tìm
hiểu, nắm bắt tâm tư của học sinh tôi nhận thấy các em đã rút ra được nhiều bài
học sâu sắc ý nghĩa với bản thân, các em đã có cái nhìn đúng đắn, tích cực hơn
về cuộc sống, tự tin hơn vào bản thân mình, sống nhân ái và hòa đồng hơn với
mọi người xung quanh. Điều quan trọng nhất là các em đã hình thành được một
thế giới quan tích cực, lành mạnh. Trong nhiều năm học gần đây học sinh
trường THPT Quan Hóa chăm ngoan hơn, ý thức tốt hơn, chất lượng xếp loại
hạnh kiểm cuối năm của học sinh nhà trường được cải thiện theo chiều hướng
tích cực. Có được kết quả đó, bản thân tôi thiết nghĩ là do nhiều yếu tố, song
không thể không kể đến việc giáo dục đạo đức của các em thông qua môn Ngữ
văn.
- Về phía tổ bộ môn: Qua việc giảng dạy mà bản thân đã áp dụng thấy có
hiệu quả tích cực, tôi đã mạnh dạn trao đổi kinh nghiệm với các đồng môn,
nhiều đồng chí đã áp dụng sáng tạo và đã có những phản hồi tích cực đến bản
thân tôi. Đây chính là điều bản thân tôi nhận thấy thành công nhất trong giờ dạy
của mình.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận

Việc dạy - học và ra đề văn nghị luận xã hội đang là một vấn đề được
các nhà nghiên cứu quan tâm. Nếu như loại văn này được quan tâm đúng mức từ
nội dung bài học cho đến cách thức ra đề, các bước chấm trả bài thì chắc chắn
sẽ có những tác dụng nhất định đối với việc giáo dục đạo đức học sinh. Nói đến
văn Nghị luận xã hội tức là nói đến nhận thức, sự tự ý thức. Vậy nên việc ra đề
văn Nghị luận xã hội với mong muốn giáo dục đạo đức cho học sinh kết quả có
thể thấy ngay được khi các em còn học ở trường nhưng cũng có thể phải trải
qua thời gian và sự trải nghiệm của bản thân các em khi đã rời khỏi ghế nhà
12


trường.
Thông qua dạng văn này dạng văn này thầy có thể hiểu được trò, trò có
thể tự hiểu mình, hiểu được cả những gì thầy dạy và nhận thức được mình phải
làm gì. Đó là sự kết hợp của hai quá trình giáo dục và tự giáo dục mà cái được
chính là sự thay đổi, sự lớn lên trong mỗi học sinh.
Sau một thời gian thử nghiệm, tôi thấy học sinh có những chuyển biến
tích cực về tư cách đạo đức. Vì thế mà việc học tập của học sinh đã có những
tiến bộ nhất định. Có rất nhiều cách thức đê giáo dục học sinh. Vấn đề mà tôi
đưa ra chỉ là một khía cạnh nhỏ. Còn chủ yếu là sự giáo dục có sự kết hợp giữa
gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Bởi như ai đó đã nói: "Người thầy hình
thành nhân cách học sinh gần giống như nhà điêu khắc tạo nên tác phẩm của
mình nhưng bằng một thứ chất liệu sống và phải trải qua một qúa trình tham gia
của nhiều người chứ không thể sáng tác một mình".
3.2. Kiến nghị
Sở Giáo dục và Đào tạo, các nhà trường cần khuyến khích động viên, tạo
điều kiện nhiều hơn về cơ sở vật chất và tinh thần để bộ môn Ngữ Văn được ứng
dụng và tham quan thực tế, giúp cho bài làm văn nghị luận xã hội trong bài
giảng làm phong phú thêm cho tiết học, tạo sự hứng thú cho học sinh.
Trên đây là những kinh nghiệm rất nhỏ mà tôi rút ra được trong quá trình

công tác của mình, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự nhiệt tình
đóng góp ý kiến của các đồng chí, đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 28 tháng 6 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác

Cao Thị Minh

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo tổng kết năm học 2018 – 2019 của trường THPT Quan Hóa.
[2]. Bộ giáo dục và đào tạo, Sách giáo khoa Làm văn lớp 10, NXB. Giáo
dục.
[3]. Bộ giáo dục và đào tạo, Sách giáo khoa Văn lớp 11 tập 2, NXB. Giáo
dục.
[4]. Từ điển Tiếng Việt
[5]. Trang thông tin điện tử huyện Quan Hóa


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Cao Thị Minh
Chức vụ và đơn vị công tác: Thư ký Hội đồng – trường THPT Quan Hóa


TT

1.
2.

3.

Tên đề tài SKKN
Công tác chủ nhiệm đối với
đối tượng là học sinh vùng
dân tộc thiểu số
Một số giải pháp nâng cao
chất lượng Công đoàn trong
nhà trường
Một số biện pháp giảm tình
trạng học sinh bỏ học do tảo
hôn ở trường THPT thuộc
vùng sâu, vùng xa.

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
Sở GD &

ĐT Thanh
C
Hóa
Sở GD &
ĐT Thanh
C
Hóa
Sở GD &
ĐT Thanh
C
Hóa

Năm học
đánh giá xếp
loại
2013
2016
2017



×