Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp dạy văn miêu tả theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh lớp 4c trường tiểu học quảng tiến 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230 KB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ SẦM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY VĂN MIÊU TẢ THEO HƯỚNG
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH LỚP 4 C,
TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 2

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Tiến 2
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

SẦM SƠN, NĂM 2020


MỤC LỤC
Mục

Nội dung

Trang

1

MỞ ĐẦU

1


1.1

Lí do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu.

1

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

1.5

Những điểm mới.

2


2

NỘI DUNG

2

2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2

Thực trạng dạy - học văn miêu tả ở lớp 4 trước khi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm
Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả ở
lớp 4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.3
2.4
3

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5
17

18

3.1

Kết luận

18

3.2

Kiến nghị

19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Học mơn Tiếng Việt, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối
thiểu cần thiết giúp các em hòa nhập với cộng đồng và phát triển cùng sự phát triển
của xã hội. Cùng với mơn Tốn và các mơn học khác, những kiến thức của môn
Tiếng Việt sẽ là những hành trang trên bước đường đưa các em đi tìm hiểu, khám
phá, nghiên cứu kho tàng tri thức vô tận của lồi người. Mỗi bài văn là một sản
phẩm khơng lặp lại của từng học sinh trước một đề bài. Do đó có thể nói, việc học
Tiếng Việt ,đặc biệt làm văn giúp các em bộc lộ rõ nét nhất, trọn vẹn nhất những
suy nghĩ riêng, tính sáng tạo,... Qua đó thể hiện được chân thực về con người của
mỗi học sinh. Vì thế, việc dạy và học Tập làm văn ln cần có sự đổi mới. Bản
thân tơi đang là giáo viên đứng lớp giảng dạy, đón nhận đưa kỹ năng sống vào
phân môn Tập làm văn nên cần nỗ lực phấn đấu đảm nhiệm chức trách của mình
với học sinh.
Muốn vậy, dạy lý thuyết văn nói chung và lý thuyết văn miêu tả nói riêng

như thế nào để giúp học sinh được luyện nói mà nắm được kiến thức cơ bản để viết
văn đúng thể loại. Từ khái niệm về thể loại văn, học sinh vận dụng viết văn đúng
dạng bài như (miêu tả con vật, miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối)
Trong chương trình lớp 4, Tập làm văn là phân mơn học chính, nhằm hình
thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt. Thông qua việc dạy và
học Tiếng Việt rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy.
Năm học 2019 - 2020, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm, giảng dạy lớp 4.
Tôi nhận thấy một số học sinh viết câu sai ngữ pháp, dùng từ chưa phù hợp với
hoàn cảnh và đặc biệt là thiếu ý. Mặt khác, học sinh tiểu học còn ham chơi, khả
năng tập trung chưa cao, chưa có những quan sát tinh tế, năng lực ngôn ngữ chưa
phát triển tốt, chưa thực sự biết cách diễn đạt điều muốn tả. Các em còn khá e ngại,
rụt rè, ngại phát biểu dẫn đến hiệu quả học tập chưa cao.Vì thế việc đổi mới
phương pháp dạy học văn miêu tả theo hướng phát huy tích cực trong hoạt động
nhận thức của học sinh vào quá trình học tập, tự học và thực hành sẽ giúp học sinh
mạnh dạn, tự tin phát biểu trước đông người. Việc đổi mới phương pháp học là hết
sức cấp thiết.
Tuy nhiên, dạy văn miêu tả như thế nào cho phù hợp với trình độ học sinh
lớp 4? Điều đó khiến tơi tìm tịi, suy nghĩ để tìm biện pháp giúp học sinh học Tập
làm văn tốt nhất. Tôi xin đề xuất : “Một số biện pháp dạy văn miêu tả theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh lớp 4 C” ở Trường Tiểu học Quảng
Tiến 2 – Thành phố Sầm Sơn để đồng nghiệp tham khảo. Qua đây, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng dạy và học văn miêu tả lớp 4 cũng như môn Tiếng Việt lớp 4.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.2.1 Giúp học sinh:
Nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp giúp phát huy tính tích cực của học
sinh trong các hoạt động học tập:
- Rèn kĩ năng quan sát tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát,
mạch lạc.



2

- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình u, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em.
- Học sinh tự tìm tòi, phát hiện, chủ động chiếm lĩnh kiến thức; ứng dụng
thành thạo các tri thức đã lĩnh hội được vào trong cuộc sống; biết làm tốt một bài
văn miêu tả; có tiền đề tốt để viết văn miêu tả lớp 5.
1.2.2 Giúp giáo viên:
- Đề xuất các biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng giảng Tập làm văn
nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Mong muốn được chia sẻ với đồng nghiệp những biện pháp tích cực, hiệu
quả mà tơi đã vận dụng trong dạy học Tiếng Việt lớp 4 ,đồng thời rèn luyện tinh
thần tự học, tự nghiên cứu và sáng tạo trong công việc cho bản thân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu kĩ năng làm văn miêu tả - Nghiên cứu các biện pháp, phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh lớp 4C trường Tiểu
học Quảng Tiến 2- Thành phố Sầm Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo.
- Điều tra khảo sát thực tế.
- Sử dụng các phương pháp khác: Phân tích ngơn ngữ, so sánh đối chiếu,
thống kê và xử lý các số liệu thu được,...
1.5. Những điểm mới của SKKN.
Đề tài thể hiện được:
- Hệ thống toàn bộ nội dung kiến thức phần văn miêu tả của phân môn Tập làm
văn trong chương trình Tiếng Việt 4.
- Những giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả lớp 4 theo hướng phát
huy tối đa tính tích cực của học sinh. Trong đó, học sinh là trung tâm trong q
trình học tập còn giáo viên là người tổ chức, tạo điệu kiện để học sinh chiếm lĩnh

kiến thức.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trước hết, cần khẳng định rằng: Dạy Tập làm văn là dạy một hoạt động.
Công việc đầu tiên của dạy học phân môn này là tạo ra động cơ, nhu cầu nói năng,
kích thích học sinh tham gia vào hoạt động giao tiếp (nói, viết).
Tập làm văn là một trong những phân mơn có vị trí quan trọng của mơn
Tiếng Việt. Phân mơn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng
hợp từ nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ
năng: nghe, nói, đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt, về cuộc sống
thực tiễn.


3

Việc đổi mới phương pháp dạy môn Tập làm văn, thể loại văn miêu tả ở lớp
4 cho chúng ta thấy trong việc thừa kế cái cũ, cái vốn có đòi hỏi phải là một sự
sáng tạo. Với các phân môn khác của môn Tiếng Việt trong việc đổi mới nội dung
và phương pháp dạy học chỉ rõ quy trình các bước lên lớp rất cụ thể rõ ràng. Còn
với phân môn Tập làm văn, các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra quy trình chung nhất
cho mỗi loại bài, chủ yếu vẫn là sự sáng tạo của giáo viên khi lên lớp. Cịn việc
học thì sao? Ngồi Tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt thì hiện nay có rất nhiều loại
sách tham khảo cho học sinh, giúp cho học sinh có cái nhìn đa dạng, phong phú
hơn. Song những cuốn sách tham khảo của phân môn Tập làm văn lại thường đưa
ra các bài văn mẫu hoàn chỉnh nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào
bài văn mẫu, có khi cịn sao chép y ngun bài văn mẫu vào bài làm của mình.
Cách cảm, cách nghĩ của các em khơng phong phú mà cịn đi theo lối mịn khn
sáo, tẻ nhạt. Chính vì vậy, dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới ở Tiểu học nói
chung và lớp 4 nói riêng là việc làm cần thiết để giúp học sinh học môn Tiếng Việt
tốt hơn và cũng là để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.

Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới nhằm khích lệ học sinh tích cực, sáng
tạo, chủ động trong học tập, biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngơn bản, văn
bản. Nói cách khác, các phân mơn trong môn Tiếng Việt là phương tiện để hỗ trợ
cho việc dạy Tập làm văn được tốt.
2.2. Thực trạng dạy - học văn miêu tả ở lớp 4 trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm.
2.2.1. Thực trạng chung việc dạy Tập làm văn lớp 4:
Năm học 2019- 2020, tồn trường có 25 lớp với 891 học sinh, trong đó khối
4 có bốn lớp với 148 học sinh. Nhìn chung, các em đều là con em ngư dân, nhiều
em gia đình có hồn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa nên các em phải ở nhà với
ông bà. Bởi vậy, sự quan tâm đến việc học hành của các em chưa sát sao, khả năng
tiếp thu bài của các em cịn nhiều hạn chế. Song với phân mơn Tập làm văn,
chương trình mới được đưa ra q trừu tượng, khó đối với học sinh nói chung, học
sinh trường Tiểu học nói riêng. Bởi phân mơn học này mang tính tổng hợp kiến
thức giữa tất cả các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện.
Các phân mơn này đều có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Đặc biệt là để học tốt phân
môn Tập làm văn cần có sự hỗ trợ tích cực của tất cả các phân mơn khác. Nó địi
hỏi học sinh phải có khả năng tư duy, sáng tạo và khả năng diễn đạt trước lớp mới
học tốt phân môn học này ...
Mặt khác, phân mơn Tập làm văn lớp 4 có nhiều thể loại. Mỗi thể loại bài là
một mạch kiến thức khác nhau mà việc tiếp thu bài của học sinh còn hạn chế : ít
động não, sử dụng câu chưa phù hợp, vốn từ nghèo, ít đọc sách nên việc viết văn
đối với học sinh là rất khó, bài viết khơ khan.
2.2.2. Thực trạng việc giảng dạy Tập làm văn của giáo viên:
a- Thuận lợi:
- Sự chỉ đạo, chuyên môn của Phịng giáo dục, trường, tổ chun mơn có vai
trị tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.
- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo đã có nhiều giáo viên thành



4

công khi dạy Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: mạng internet, ti vi, đài, sách,
báo, ... giáo viên tiếp cận với phương pháp đổi mới khi dạy Tập làm văn thường
xuyên hơn.
b- Khó khăn:
Tiếng Việt là mơn học khó, nhất là phân mơn Tập làm văn địi hỏi người
giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú, vốn sống thực tế, ... Người giáo
viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy, biết gợi mở óc tị mị,
khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn bản,
ngôn ngữ quả không dễ.
2.2.3. Thực trạng việc học tập làm văn của học sinh:
a- Thuận lợi:
- Mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng có nội dung
phong phú, Tài liệu HDH được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy học
hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi các em.
- Các em đã được học và nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập
làm văn ngay từ lớp 2, 3 như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng
kể chuyện miêu tả,... Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn ở
lớp 4- thể loại văn miêu tả đạt kết quả cao.
b- Khó khăn:
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau
quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến
việc tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành
độc lập. Cụ thể là: Các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lơgíc, tính sáng tạo
trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu,
sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.

- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví
dụ: phần lớn học sinh dùng ln lời cơ hướng dẫn để viết bài của mình.
- Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài miêu
tả. Nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài làm
của các em cịn viết theo một lối mịn khn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và
nghèo hình ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các biện
pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa,...
2.2. 4. Thực trạng chất lượng làm văn miêu tả của học sinh lớp 4, trường Tiểu
học Quảng Tiến 2:
Thực trạng trên cho thấy chất lượng giảng dạy văn miêu tả còn nhiều hạn chế.
Nhiều học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn Luyện từ và câu nhưng
khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi, kết hợp với việc chưa biết
sử dụng các biện pháp nghệ thuật, vốn từ lại nghèo nàn nên bài văn miêu tả của
các em cịn khơ khan, lủng củng, nghèo cảm xúc. Bài văn trở thành một bảng liệt


5

kê các chi tiết của đối tượng miêu tả. Giáo viên chưa nhận thức đúng đắn về tầm
quan trọng của việc kết hợp linh hoạt các phương pháp trong dạy văn miêu tả.
Nhìn chung, trong những năm học gần đây, chất lượng viết văn miêu tả của học
sinh lớp 4 còn chưa cao, chưa đáp ứng tốt yêu cầu dạy học đặt ra. Điều đó khiến tơi
rất trăn trở.
Ngay từ đầu năm học 2019 - 2020, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng phân
môn Tập làm văn của học sinh hai lớp 4, đó là lớp 4B do thầy H phụ trách và lớp
4C ( lớp thực nghiệm) do tơi phụ trách (đây là hai lớp có chất lượng tương đối
đồng đều) với đề kiểm tra như sau:
Đề bài: Tuổi thơ ai cũng có những đồ chơi u thích đã từng gắn bó với
mình như một người bạn: một bộ xếp hình nhiều màu sắc, một chiếc ơ tơ có dây

cót, một chú thỏ nhồi bơng dễ thương, một cơ búp bê biết khóc,... Em hãy tả lại
một trong những đồ chơi đó.
Kết quả học sinh làm bài được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Khảo sát chất lượng Tập làm văn lần 1 của hai lớp 4B và 4C
( Tháng 11-Năm học 2019-2020 )
Lớp

Sĩ số

4B

34

4C

34

Hoàn thành tốt
SL
TL
3
8.8
3

8.8

Hoàn thành
SL
TL
13

67.7
14

70.6

Chưa hoàn thành
SL
TL
8
23.5
7

20.6

Bảng 1 cho thấy kết quả làm văn miêu tả ở hai lớp 4B và 4C chưa cao, số
lượng học sinh hồn thành và hồn thành tốt cịn hạn chế, số học sinh chưa hồn
thành vẫn cịn nhiều. Học sinh chưa biết cách diễn đạt, câu văn chưa có hình ảnh,
vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế cịn ít, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng
củng,... Học sinh quan sát đồ vật khi tả không theo một trình tự hợp lý, chưa biết
tìm ra những đặc điểm riêng để phân biệt đồ vật này với đồ vật kia. Do vậy, chất
lượng bài viết của các em chưa cao.
2.3. Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả ở lớp 4.
Từ thực trạng việc dạy học phân mơn Tập làm văn nói chung và việc dạy học
văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng, tơi thấy cần thiết phải có những biện pháp sáng tạo
trong dạy học văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt
ở Tiểu học.
2.3.1. Biện pháp 1: Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học
sinh để từ đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp khi lên
lớp.
Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là ln muốn khám phá,

tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em quan
sát, cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là
quan sát sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các
em có cách cảm, cách nghĩ sâu sắc khi miêu tả. Ở tuổi học sinh Tiểu học từ hình


6

thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một q trình. Do đó, những
tri thức để các em tiếp thu được phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Trí
tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi
bấy nhiêu.
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài phải giàu
cảm xúc, tạo nên cái " hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy, giáo viên phải luôn
luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lịng dễ
xúc động và ln hướng tới cái thiện.
Đối với loại bài này, tơi ln dặn dị học sinh về nhà quan sát các đồ vật, con
vật gần gũi mà các em thường thấy ở xung quanh. Vào lớp, tơi cho học sinh thi đua
cá nhân, nhóm tìm nhanh các đồ vật có thể tả. Sau đó, gợi ý cho các em cách lập
dàn ý một đoạn, một bài hoàn chỉnh và yêu cầu mỗi em phải tự làm việc, tự quan
sát, tự ghi chép khi quan sát một đồ vật, một con vật và có nhiệm vụ giúp các em
hệ thống lại các ý đã quan sát để lập thành dàn bài chi tiết đạt yêu cầu, có hệ thống.
Đối với các em học sinh yếu, tơi cho các em trình bày phần mở bài và kết bài.
Thường thì học sinh yếu tơi gọi trong lúc này là để các em có thể trình bày ngắn
gọn các ý khi sai sót, ngồi những nụ cười cởi mở giáo viên chỉ nên nhẹ nhàng sửa
sai và động viên cho các em này.
Ở phần thân bài, tôi thường phân nhóm cho các em thảo luận theo dàn ý chi
tiết, các em nối tiếp, hỗ trợ nhau thực hiện: phần bao quát chung, phần chi tiết từng
bộ phận, phần hoạt động liên quan,..
Ví dụ: Tả về đồ vật: “Tả chiếc cặp sách”

Yêu cầu thảo luận phần thân bài sau đây:
+ HS1: Tả bao quát, hình dạng, màu sắc, chất liệu của cặp.
+ HS2: Tả chi tiết từng bộ phận của đồ vật: Các bộ phận bên ngoài của cặp. (mặt
cặp, nắp cặp, quai xách, dây đeo, khóa); Xoa lên da cặp, em có cảm giác gì?(trơn,
nhẵn, ram ráp,...)
+ HS3: Tả bên trong cặp có mấy ngăn ? Mỗi ngăn đựng gì?
+ HS4: Em có thích cái cặp của em khơng? Tại sao? Em dùng cặp, giữ gìn cặp như
thế nào?
Sau khi thảo luận xong một nhóm học sinh trình bày:
+ HS1: Cặp hình chữ nhật, làm bằng vải giả da, màu tím, nắp màu đen. Dài hơn hai
gang tay của em, rộng khoảng một gang rưỡi. Cặp có nhiều màu rất đẹp.
+ HS2: Ở phía trên cặp có quai xách thật êm tay. Sau lưng là hai quai đeo. Hai ổ
khóa bằng sắt, mỗi khi đóng hoặc mở nghe “tách, tách” rất vui tai. Ngồi mặt cặp
có in hình chú chó đốm rất đẹp.
+ HS3: Phía bên trong có ba ngăn. Ngăn lớn đựng sách, ngăn thứ hai đựng bảng
con, đồ dùng khác ,… ngăn thứ ba nhỏ nhất đựng bút, thước và các đồ dùng như:
áo đi mưa, chai nước, …
+ HS4: Chiếc cặp giúp em đựng sách vở không bị rơi rớt và không bị mưa ướt. Khi
đi học về, em để cặp ngay ngắn trên bàn học, ...
2.3.2. Biện pháp 2: Tạo động cơ học văn miêu tả ở học sinh.
Công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn là tạo ra được động cơ, nhu cầu nói


7

năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết). Sản phẩm của
phân mơn Tập làm văn là các bài nói hoặc viết theo kiểu bài do chương trình quy
định. Để sản sinh ra các bài văn này, học sinh phải có thêm nhiều kĩ năng khác
ngồi khả năng nghe, nói, đọc viết Tiếng Việt, kĩ năng dùng từ đặt câu. Đó là các kĩ
năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng lập dàn ý, viết đoạn và liên kết

đoạn. Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn bậc Tiểu học, mở rộng vốn sống, rèn
luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học
sinh. Trong đó, học văn miêu tả góp phần phát triển tư duy hình tượng của trẻ được
rèn luyện phát triển nhờ biện pháp so sánh, nhân hóa... khi miêu tả. Nhưng làm thế
nào để thực hiện được những nhiệm vụ trên mà không biến các em thành những
“thợ” viết văn? Vậy ta cần kích thích các em u văn và có nhu cầu viết văn. Trước
hết hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị trong đối tượng
miêu tả. Ví dụ: Giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh cây phượng đang ra hoa
đỏ rực và hỏi: Quan sát tranh em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà thơ Xn
Diệu đã ví “như mn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”?
Học sinh sẽ phân tích tìm đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của cây
hoa với mn ngàn cánh bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn luyện cho các em
óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận.
Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ năng
sống khác. Như dạy các em biết giữ gìn đồ vật, tổ chức cho học sinh trồng, chăm
sóc và bảo vệ cây... Học sinh được trau dồi vốn sống, biết suy nghĩ, có những cảm
xúc, tình cảm. Từ đó, mới dạy các em cách thể hiện suy nghĩ, tình cảm bằng ngơn
ngữ nói, viết. Khi ra đề Tập làm văn, giáo viên nên chú ý đề bài yêu cầu viết về
những gì gần gũi thân thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích
các em muốn nói,viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu. Trong tiết kiểm tra viết
(TL HDH Tiếng Việt 4 tập 2A – Trang 152) có 4 đề bài gợi ý. Giáo viên nên dựa
vào đó ra đề khác nhằm gợi cảm xúc cho các em trước khi viết bài.
Ví dụ: Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.
Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.
Đề 3: Hãy tả một cây hoa mà em yêu thích.
Đề 4: Tả một vườn rau(hoa) gần nơi em ở.
Khi học sinh đã có hứng thú học văn miêu tả, ta tiếp tục duy trì điều đó trong
suốt q trình học tập và tiếp tục rèn các kĩ năng khác theo yêu cầu khi viết văn.
Ngoài ra, bên cạnh yêu cầu duy trì chủ đề để đạt mục đích giao tiếp, bài văn phải
có sự phát triển, chủ đề phải được triển khai. Giáo viên cần chỉ ra các hướng cho

học sinh viết bài: viết theo trình tự thời gian, khơng gian hay từ toàn thể đến bộ
phận... Các bài văn miêu tả của học sinh phải thể hiện được tình cảm, cảm xúc.
Điều này chi phối kĩ thuật viết đồng thời đòi hỏi dạy viết văn miêu tả phải được bắt
đầu từ việc hình thành tình cảm đối với đối tượng được miêu tả.
2.3.3. Biện pháp 3: Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn
miêu tả.
Văn miêu tả mang tính chất thơng báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối tượng
nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng khơng bao giờ là sự sao chép,
chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận


8

xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái
riêng biệt của mỗi người. Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: "Cái riêng, cái mới trong
văn miêu tả phải gắn với cái chân thật". Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng
tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của người viết nhưng như vậy khơng có nghĩa
là cho phép người viết "bịa" một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân
thật, giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công
thức sáo rỗng. Mặt khác giáo viên cần giúp các em nắm được: trong văn miêu tả,
ngôn ngữ sử dụng phải là ngơn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu
âm thanh, … và các thể loại văn khác.
Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường mình cần
đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn lọc từ ngữ,
sẽ gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất lượng bài làm
của các em sẽ tốt hơn. Mặt khác học sinh cần phải thực hiện yêu cầu sau:
Lưu ý: Đảm bảo yêu cầu quan sát đối tượng miêu tả:
- Quan sát tổng thể đối tượng, chú ý cả ở trạng thái động và tỉnh. Quan sát
bằng tất cả các giác quan: thính giác, thị giác, xúc giác, cảm giác.....
- Nếu tả cảnh: cần quan sát tỉ mỉ từng phần (bộ phận) của cảnh theo trình tự

hợp lí (Ví dụ: Từ ngoài vào trong, từ bộ phận chủ yếu đến các bộ phận thứ yếu),
hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian (ví dụ: sáng, trưa, chiều, tối).
* Tả theo trình tự khơng gian:
Từ quan sát tồn bộ đến quan sát từng bộ phận hoặc ngược lại. Tả từ xa đến
gần, từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trái qua phải…hoặc ngược lại. Trình
tự này thường được vận dụng khi miêu tả loài vật, cảnh vật, đồ vật, cây cối nói
chung.
- Tả từ dưới lên trên
Ví dụ: “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dẽ gãy hơn cả cành
khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành”.
( Trích Rừng hồi xứ Lạng, Tơ Hoài )
Tác giả quan sát và tả rất tinh tế về cây hồi, rồi quả hồi và cuối cùng là lá
hồi theo trình tự dưới lên trên. Dùng lối miêu tả tĩnh với những tính từ ( thẳng, cao,
trịn xoe, giịn, dễ gãy…), dùng cách nói nhân hố quả hồi phơi mình làm cho sự
miêu tả thêm gần gũi, sinh động.
- Tả từ ngồi vào trong
Ví dụ: “...Nắp bút màu hồng, có cái cài bằng sắt mạ bóng lống. Mở nắp ra,
em thấy ngịi bút sáng lống, hình lá tre, có mấy chữ rất nhỏ, nhìn khơng rõ...”.
(Cây bút máy, TL HDH Tiếng Việt 4 tập1B, Tr.121)
- Tả từ xa đến gần
Ví dụ: “…Tơi vội ra khoang trước nhìn. Xa xa từ vệt rừng đen, chim cất
cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ trong lòng đất chui ra, bò li ti đen ngòm
trên da trời. Càng đến gần, những đàn chim bay đen kít trời …Mỗi lúc tôi càng
nghe tiếng chim kêu náo động như tiếng xúc những rổ đồng tiền…”
(Trích Đất rừng Phương Nam, Đồn Giỏi)
* Tả theo trình tự thời gian:


9


Quan sát diễn biến của thời gian từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, từ mùa này
sang mùa khác, từ tháng này sang tháng khác… Cái gì xảy ra trước (có trước) thì
miêu tả trước, cái gì xảy ra sau (có sau) thì tả sau. Trình tự này thường được vận
dụng trong bài văn tả cảnh vật, hiện tượng tự nhiên (tả cảnh) hay tả cảnh sinh hoạt
của người.
Ví dụ: “… Buổi chiều, xe dừng lại một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng
hoe. Những em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo
sặc sỡ đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên chợ thị trấn,
người ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt…”
( Trích Đường đi Sa Pa, Nguyễn Phan Hách, TL HDH Tiếng Việt 4, tập
2B- Tr.4 )
* Tả theo trình tự tâm lý:
Thấy đặc điểm gì nổi bật, thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản thân
(buồn, vui, yêu, ghét…) thì tập trung quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác
quan sát sau, tả sau… Trình tự này thường được vận dụng khi tả đồ vật, tả loài vật,
tả người. chỉ cần miêu tả những điểm nổi bật nhất, không nhất thiết phải tả đầy đủ,
chi tiết, như nhau tất cả các đặc điểm của đối tượng.
Ví dụ: “Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam. Hương vị nó hết sức đặc
biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa… Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm… Hoa đậu từng
chùm, màu trắng ngà… Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây kì
lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột…”.
(Sầu riêng, Mai Văn Thọ, TL HDH Tiếng Việt 4, tập 2A- Tr.55)
Chú ý phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt đối tượng được tả với đối
tượng khác cùng loại. Tuy vậy, trong quá trình hướng dẫn các em quan sát, giáo
viên phải đồng thời khéo léo gợi mở để các em huy động vốn sống, khả năng
tưởng tượng và cảm xúc để giúp cho việc quan sát được tốt hơn.
Muốn làm văn miêu tả trước hết các em phải biết có cái gì để viết, để tả.
Muốn tả đúng, tả hay phải quan sát. Giáo viên phải hướng dẫn các em tập quan sát,
cách quan sát để tìm ra cái mới cái riêng. Quan sát để thấy được màu sắc khác
nhau, hương vị khác nhau, đặc điểm, tính chất khác nhau. Từ đó có những sáng tạo

độc đáo, khơng giống nhau mà chân thật.
Ví dụ: + Quan sát ánh trăng: Khi vui em thấy trăng cười, mời gọi hay nô đùa
với em. Khi buồn, em lại thấy trăng trầm tư lặng lẽ, muốn chia sẻ.
+ Quan sát gió: Khi gió thổi nhẹ có em thấy vuốt ve, vỗ về, miên
man trên da thịt, có em lại thấy gió thầm thì trị chuyện, gió hát ru...
+ Quan sát cơn mư a mùa hạ: Có em thấy mây dày đặc hơn, quánh lại
với nhau và như hạ thấp xuống. Rồi đột nhiên: rào, rào,...Mưa đổ xuống xối xả. Có
em thấy mây phía đơng ùn ùn kéo đến,... Hạt mưa bắt đầu rơi, những giọt nước
mưa thật to lộp bộp rơi xuống mái nhà. Có em thấy mưa tuôn rào rào, xối xả trên
mái nhà mặt đường, mn nghìn hạt mưa đổ xuống .
Trong quan sát, giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát sự vật ở nhiều thời
điểm, hoàn cảnh, trạng thái, nhiều hoạt động khác nhau để tìm ra cái riêng,cái mới.
Ví dụ: Quan sát con vật: Quan sát con mèo ngủ, sưởi nắng, bắt chuột, rình
mồi, khi leo cây, để thấy được những nét khác nhau từ ánh mắt, bước đi, cách vẫy


10

đi, tiếng kêu,...của nó, cụ thể hơn nữa bình thường con mèo kêu meo meo nhưng
khi đánh nhau, khi vồ chuột và cả khi sợ, nó lại kêu ngao ... gừ... Mèo ngủ cũng có
nhiều cách ngủ, khi thì cắm đầu xuống giấu trong hai chân trước, khi lại ngửa mặt,
vênh râu lên. Trời nóng, lạnh, khi ốm, khoẻ, mèo có những chỗ ngủ, cách nằm ngủ
khác nhau.
2.3.4. Biện pháp 4: Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu,
sử dụng các biện pháp và giải pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức cần thiết.
Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ
phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp, Chính vì
vậy giáo viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập đọc, luyện từ và
câu và cả trong khi dạy các mơn khác hay trong những buổi nói chuyện trong các
tiết sinh hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo các chủ đề, chủ điểm, khi

có một từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi
làm văn có thể sử dụng một cách dễ dàng.
Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu
học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp
so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay
những từ biểu lộ tình cảm.
Khi làm một bài văn miêu tả về con mèo, chúng ta cần miêu tả:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng mọc.
Giáo viên hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu của bạn? Học sinh có thể nhận
xét: Bạn đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một cái măng
mọc.
Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đơi tìm câu khác để miêu tả cái đi
của chú mèo sao cho sinh động hơn:
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu nhìn và
nghe ngóng, cái đi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân thon dài
mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.
Như vậy, cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú mèo
nhưng những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ gợi
tả, gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn. Ta thấy miêu tả như vậy vừa
sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.
2.3.5. Biện pháp 5: Giúp học sinh tích lũy vốn từ miêu tả và làm giàu trí tưởng
tượng của các em trong làm văn miêu tả.
Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh, học
sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ vốn từ
miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả: Tích luỹ vốn
từ: Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem,
nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;..Ghi chép khi
được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể như: Các từ thường
dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu; xum xuê; rực rỡ; đo

đỏ;… Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,… Các từ


11

thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,… Các từ miêu tả
đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh, … để miêu tả cho sinh
động. Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng: (tưởng tượng trong miêu tả rất
quan trọng). Có tưởng tượng mới có hình ảnh hồn chỉnh về đối tượng miêu tả.
Tưởng tượng như một sự hình dung về đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng
sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét
đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm tương đồng với đối tượng khác, thấy
được mối quan hệ của đối tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ
niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lịng người viết. Từ tưởng tượng, học
sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình,
thấy được tầm quan trọng của đối tượng được tả đối với chính mình và cả với
những người xung quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm
xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng
tượng làm cho đối tượng miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn. Giáo
viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách: Không trực tiếp quan sát,
tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng. Nhắm mắt, hình dung về đối tượng:
hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh hưởng, tác động của đối tượng đến
sự vật xung quanh. So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương
đồng. Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng. Nhân hố hay tự nhiên
hố một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng. Dự đoán trước khả năng và những điều
tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới. Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã
nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng từ trước tới nay. Ghi chép lại những gì
mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của mình. Hướng dẫn
xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục bài văn. Bài tập
luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài. Khi học sinh thực hiện

viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách diễn đạt( dùng từ, đặt câu,
sử dụng các biện pháp tu từ, so sánh, nhân hố,…). Vì vậy, u cầu đặt ra là lời văn
cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài văn chặt chẽ, hợp lí
trong từng đoạn, trong tồn bài để tạo ra một “chỉnh thể”. Các bài tập được xây
dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngơn bản và chứa đựng trong nó nhiều bài tập
hình thành những kĩ năng bộ phận( xác định u cầu nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý
thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,…). Kĩ năng viết của học
sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài
văn hồn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ năng viết,
giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu sau: các bài tập phân tích
đề bài, xác định nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu cầu viết.
2.3.6. Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài.
Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường thu
hút người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về vấn đề mà
người trình bày. Chính vì vậy, việc rèn luyện cho học sinh xây dựng một đoạn văn
mở bài và kết bài là rất cần thiết.
* Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực
tiếp và mở bài gián tiếp. Khơng nhất thiết phải gị bó học sinh làm mở bài theo


12

cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với
khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần
nói tới, có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu hát,…nhưng phải bám sát
vào yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, khơng rườm ra. Giáo viên có thể cho
học sinh làm việc nhóm đơi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho
các bạn nhận xét. Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài:’’Hè vừa rồi,
mẹ em đi chợ mua được một con mèo tam thể.Chú ta là thành viên thứ năm của
gia đình em, nay đã được bốn tháng ”.

- Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách mở bài nào?( trực tiếp)
- Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn:” Nhà em
đã từ lâu khơng có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính gác cừ
khơi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật hiền dịu
nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em.”
Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh mở bài như sau:
“Ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ phải đến trăm năm tuổi. Cả làng gọi đó là
cây đa ơng Đài, vì ơng Đài là người trồng ra nó, nhưng ơng Đài là ai thì cả làng
khơng ai nhớ cả.”
Học sinh khác lại viết: "Từ bến đị phía xa, em đã nhìn thấy làng em. Phải qua
một cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây số, em đã nhìn thấy
làng quê yêu dấu: Cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên bầu trời. Mỗi lần đi xa
về, em cảm động tưởng như cây đa làng em đang giơ tay vẫy chào, đón đợi.”
Từ các cách mở bài khác nhau, các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở
bài một cách hợp lý nhất.
* Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất
quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với
đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy, học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình
làm phần kết luận khơ cứng, gị bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường
làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp
dẫn người đọc. Vì vậy, địi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết cách làm
phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thơng qua những
câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết
bài hay.
Ví dụ: “Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm lặng của
dịng đời.” Cơ giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bến đị, hoặc đi xa về, ngắm
nhìn cây gạo, em thấy lịng bồn chồn xơn xao. Cây gạo là hồn q, là tình q vơi
đầy.”
Văn chương khơng phải là sợ đúng, sai với làm văn đúng thôi chưa đủ phải
thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm khơng phải thứ gị ép bắt buộc,

tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em. Bài văn
không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần
kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy, giáo viên cần chú ý
rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên liên
tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn,
tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa.


13

2.3.7. Biện pháp 7: Hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài văn:(lựa chọn
và sắp xếp ý để miêu tả)
Nội dung bài đầy đủ, phong phú là yêu cầu không thể thiếu được của một bài
tập làm văn tốt. Với yêu cầu này ta cần tiến hành qua các bước: tìm ý, lập dàn bài
chi tiết theo bố cục 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài), các từ ngữ nối để liên kết câu
chặt chẽ, trôi chảy. Từ ngữ miêu tả phải thích hợp, câu văn có hình ảnh, biết sử
dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá để bài văn hay hơn.
Khi làm bài viết, yêu cầu học sinh:
-Đọc kĩ, hiểu yêu cầu của đề bài.
- Phân tích đề : Đề thuộc thể loại văn gì? Nội dung miêu tả ai? Con gì? Vật gì?
Cảnh ở đâu? Tả vào lúc nào? Bộ phận nào?
- Biết dựa vào dàn ý đã xây dựng, các đoạn văn đã viết ở tiết trước để viết thành
một bài văn hoàn chỉnh.
Sau đó, học sinh bám sát yêu cầu của đề bài, huy động vốn thực tế (mà các em
đã được hướng dẫn quan sát qua khâu chuẩn bị) để lựa chọn được những nét nổi
bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng, đầy đủ.
Sau khi đã thống kê toàn bộ ý đã tìm được lên vở nháp, giáo viên cần hướng
dẫn học sinh chọn lọc ý theo hệ thống câu hỏi: Theo em, những ý trên ý nào không
quan trọng cần lược bỏ? Ý nào cần tả lướt qua bằng vài câu? Còn ý nào cần tập
trung tả kĩ, sâu hơn? Tại sao lại khơng tả hết tồn bộ tả một số cảnh và tả kĩ như

vậy nhằm mục đích gì?
* Phần mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật)
bằng cách trực tiếp hay gián tiếp.
Trong bài tập làm văn, phần mở bài là phần gây ấn tượng đầu tiên cho người
đọc. Các em có thể vào bài bằng một câu hay một đoạn nhưng cần phải bám sát
vào nội dung yêu cầu đã được xác định. Dựa vào mở bài của mỗi em mà giáo viên
góp ý, khơng gị bó, khơng áp đặt. Ví dụ: Khi tả con vật, các em có thể vào bài: “
Đã lâu, em được bố mẹ cho về quê chơi. Qua khỏi cổng làng, em bước thơ thẩn
trên con đường nhỏ dẫn tới đầm sen. Ở một góc đầm trống, một đàn vịt bầu đang
lặn hụp kiếm mồi. Từ đó, giúp các em viết được bài văn tốt mang tính nghệ thuật
cao.
* Phần thân bài: Ở phần này, tôi cho học sinh phát triển theo nhiều ý khác nhau.
Tả đồ vật: Ví dụ: Đề bài: “ Tả một đồ chơi mà em thích”. Tơi cho các em làm
theo các gợi ý sau:
a) Muốn miêu tả đồ vật, trước hết phải quan sát đồ vật đó là đồ vật gì? (búp bê, gấu
bơng, cái chong chóng,...)
b) Quan sát theo một trình tự hợp lí.
+ Nhìn bao quát:
+ Quan sát từng bộ phận ( bên ngoài/ bên trong, bên trên/ bên dưới, đầu/ mình/
chân tay,...)
c) Nên quan sát bằng nhiều giác quan.
- Dùng mắt để xem hình dáng, kích thước, màu sắc,...của đồ vật như thế nào.
- Dùng tay để biết đồ vật mềm hay rắn, nhẵn nhụi hay thô ráp, nặng hay nhẹ,...


14

- Dùng tai để nghe đồ vật khi được sử dụng có phát ra tiếng động khơng, tiếng
động ấy như thế nào.
- Cố gắng tìm ra những đặc điểm riêng của đồ vật, phân biệt nó với những đồ vật

khác, nhất là những đồ vật cùng loại.
Tả cây cối: Từ gợi ý của các bài văn mẫu, biết lập dàn ý miêu tả một cây ăn
trái quen thuộc theo hai cách đã học: Tả lần lượt từng bộ phận của cây hoặc tả lần
lượt từng thời kì phát triển của cây. Từ đó, học sinh phát triển ý thật tự nhiên. Như
vậy, mỗi em có một ý, một vẻ khác nhau và đều đảm bảo đủ ý chính. Tuy nhiên,
cần hướng cho học sinh phát triển ý phong phú về nội dung làm nổi bật yêu cầu
của đề bài. Khi xây dựng phần thân bài, chúng ta cần lưu ý học sinh: Khi tả có thể
tả nhiều bộ phận nhưng khơng coi đó là chủ yếu mà cần làm nổi bật đối tượng cần
tả do đề bài yêu cầu. Tả cần chọn những nét tiêu biểu, tránh liệt kê đầy đủ nhưng
nặng về kể lể khô khan.
*Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ, ấn tượng về đối tượng miêu tả theo kiểu
mở rộng hoặc khơng mở rộng.
Có nhiều cách kết bài khác nhau cho một bài văn miêu tả nhưng đều phải xuất
phát từ nội dung chính mà các em vừa khai thác được ở phần thân bài. Để thực
hiện tốt điều này, chúng ta có thể gợi mở:
Ví dụ: Với đề bài "Tả một đồ chơi mà em thích", ta có thể hỏi: Em hãy nói tình
cảm của em với đồ chơi mà em thích. Giáo viên gợi mở cho học sinh nói theo ý
của mình, cảm nghĩ của mình qua bài văn miêu tả mà các em đã chuẩn bị. Sau đó,
Giáo viên chắt lọc, sửa sai (nếu cần).
2.3.8. Biện pháp 8: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài.
Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến việc
nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình nhất định, bắt đầu từ việc lập kế
hoạch đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh
giá lại những việc đã làm so với kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh
giá lại những việc đã làm so với kết quả bỏ qua bất cứ khâu nào trong các khâu
trên, nhất là các khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra đánh giá thì mới có thể biết
được những ưu, khuyết điểm trong cơng việc đã thực hiện, để điều chỉnh cho
những việc tiếp theo.
Dạy Tập làm văn cũng khơng nằm ngồi chu trình chung đó. Mỗi loại bài
thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực hành

ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc thì mới
có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện
tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm tra, đánh giá "nhằm mục đích
giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên và kết quả bài viết
của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ
pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài của mình và của các bạn. Từ đó, học sinh có thể
học hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài
không thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời lượng.
Giáo viên cần chú trọng khâu chữa lỗi:
- Chữa lỗi về dùng từ: Tôi đưa câu văn mà học sinh dùng từ thiếu chính xác cho


15

học sinh đọc và phát hiện. Ví dụ qua đề bài: "Tả con vật mà em u thích" có học
sinh viết: "Chú gà trống vỗ cánh bạch bạch". Xét về góc độ ngữ nghĩa, cú pháp thì
câu hồn tồn đúng. Song từ "lạch bạch" là từ tượng thanh, chỉ cho ta nghe âm
thanh khi chú gà trống vỗ cánh nhưng chưa toát lên được vẽ oai vệ của gà trống. Vì
vậy, giáo viên gợi mở để học sinh tìm từ thay thế "phành phạch", vừa gợi tả âm
thanh vừa cho thấy hình ảnh đơi cánh chú gà trống vừa mạnh vừa khỏe. Sau đó,
học sinh viết lại câu. Nhận xét mức độ miêu tả qua câu vừa viết.
- Chữa lỗi về câu: Lỗi về câu có nhiều dạng. Tơi lựa chọn từng loại sai để sửa.
Ví dụ: Khi viết bài văn tả bạn có học sinh viết: "Bạn Lan thương yêu."
Với trường hợp này tôi dùng câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện lỗi sai của câu
chưa đủ thông tin, chưa rõ nghĩa. Bạn Lan thương yêu ai? Sau đó hướng cho học
sinh bổ sung. Chẳng hạn: "Bạn Lan yêu thương mọi người trong gia đình."
Trong tiết trả bài, ngồi việc tiến hành đúng các trình tự, giáo viên cần thay đổi
hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm chán. Sau phần giáo viên nhận xét
chung, giáo viên cần chữa lỗi cho học sinh theo từng loại lỗi thống kê khi chấm bài
và nêu các câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước. Sau đó, giáo viên trả bài và có

thể tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về
cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu văn hoặc giúp nhau sửa lỗi
trong bài làm. Từ đó, học sinh sẽ thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của mình,
của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau
những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp học sinh tránh được những lỗi khơng đáng có
trong thực hành viết văn và trong cả giao tiếp hàng ngày.
2.3.9. Biện pháp 9: Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài khi dạy Tập làm văn lớp 4.
Trong bất kỳ hoạt động dạy học nào, việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng.
Chuẩn bị cũng chính là kế hoạch cho cơng việc mình định làm, đó là việc làm đầu
tiên, tất yếu của mỗi hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của người
giáo viên. Bài soạn chính là bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là kế
hoạch bài học.
Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng, có chất lượng, có tác dụng thiết
thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả năng lực,
phẩm chất của mình như: năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng lực hiểu học
sinh, năng lực ngơn ngữ,…lịng u nghề, niềm tin, sự nhiệt tình và lịng đam mê
nghề nghiệp. Giáo án có chất lượng phải chuyển hoá được những kiến thức của
sách vở đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự nhiên tức là giáo án được thực
hiện hoá qua bài giảng trên lớp giúp học sinh hiểu bài tốt hơn.
Qua nghiên cứu thực tế, tơi có thể mạnh dạn đưa ra quy trình dạy tiết Tập làm
văn lớp 4 - thể loại văn miêu tả theo hướng đổi mới thể hiện qua kế hoạch bài học
như sau:
I. Mục đích yêu cầu :
- Nêu mục đích yêu cầu của bài học.
II. Đồ dùng dạy học :
- GV chuẩn bị dồ dùng dạy học phù hợp với nội dung ,yêu cầu bài học.
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu :


16


Hoạt động 1 : Củng cố kiến thức đã học ở tiết trước.
Hoạt động 2 : Giới thiệu nội dung bài dạy.
Hoạt động 3 ( Hoạt động cơ bản) : ( Đối với loại bài lý thuyết ) Hình thành khái
niệm .
- Phân tích ngữ liệu : + Học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập
+ Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập
+ Giáo viên tổng kết ý kiến và kết luận
- Ghi nhớ kiến thức : Học sinh nêu lại phần ghi nhớ trong TL HDH.
Hoạt động 4(Hoạt động thực hành): Hướng dẫn luyện tập.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành một số bài tập trong tiết học
nhằm củng cố kiến thức đã học.
* Hoạt động nối tiếp.
- Giáo viên chốt lại những kiến thức, nội dung bài học.
- Nhận xét tiết học.
* Đối với loại bài thực hành, giáo viên giới thiệu bài và hướng dẫn học sinh thực
hành; củng cố tiết học.
Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức phát
triển của học sinh lại càng khó hơn. Với Tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm
hồn mình vào bài dạy, thầy trị phải cùng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo
một dịng cảm xúc, cùng hồ chung tình cảm để cùng tìm hiểu về cảm nhận với
niềm say mê, thích thú. Muốn vậy người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng
trước khi lên lớp. Chuẩn bị đầy đủ về tâm thế, về nội dung, phương pháp, đồ dùng,
phương tiện dạy học, mục tiêu, ý nghĩa giáo dục, khả năng, trình độ của học sinh.
Phải tìm tịi, nghiên cứu để có được những câu hỏi gợi mở phù hợp với trình độ
học sinh, chuẩn bị cả những từ, những câu văn thích hợp để sửa sai hoặc để làm
mẫu cho học sinh. Nó địi hỏi giáo viên phải nỗ lực sáng tạo trong suốt q trình
dạy học. Chỉ có nghiên cứu sáng tạo mới cho giáo viên có được những giờ dạy văn
miêu tả mới mẻ, hiệu quả cao. Nếu khơng có những sáng tạo mới trong dạy Tập
làm văn, nhất là văn miêu tả thì giờ dạy văn miêu tả chỉ là sự liệt kê các chi tiết của

đối tượng miêu tả, giờ học sẽ gượng ép, gò bó, thiếu tâm hồn văn học.
2.3.10. Biện pháp10: Giúp học sinh học tốt các phân môn của môn Tiếng Việt.
Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân mơn thuộc
mơn Tiếng Việt. Vì vậy muốn dạy tốt phân môn Tập làm văn cần dạy tốt các phân
mơn Luyện từ và câu, Chính tả,Tập đọc, Kể chuyện.
Khi dạy Tập làm văn, giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp thức giữa các phân
mơn trong mơn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,
Tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn.
Mối quan hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của tài liệu HDH: các bài học được biên
soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất các các
phân mơn.
Ví dụ: Khi dạy phân môn Luyện từ và câu, học về câu kể Ai là gì ?, học sinh
hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu câu này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó
học sinh biết đặt câu kể Ai là gì ? để giới thiệu hoặc nêu nhận định về một con


17

người, một vật, ...
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.
Chích bơng là con chim rất đáng u.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lơi cuốn được người đọc hay khơng? Một
phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngồi của nó, đó chính là chữ viết. Vì
vậy, muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kỹ năng viết cho học sinh
trong các giờ Chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, nhanh, viết đẹp và trình
bày rõ ràng, sạch sẽ.
Nếu như Tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, Chính tả rèn kỹ năng viết
cho học sinh thì phân mơn Kể chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói khác là kỹ
năng sản sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình

cảm, giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh
học tập cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện.
Ví dụ:
Tuần 15 : Chủ điểm “ Tiếng sáo diều”
Tập đọc: Bài Cánh diều tuổi thơ – TL HDH Tiếng Việt 4 - Tập 1B –Trang 78
Tác giả đã miêu tả cánh diều bằng nhiều giác quan. Mắt nhìn cánh diều mềm
mại như cánh bướm ;Tai nghe tiếng sáo diều vi vu,...
Luyện từ và câu: TL HDH Tiếng Việt 4 - Tập 1B –Trang 82
Yêu cầu 6: Viết vào vở đoạn văn miêu tả một trong các đồ chơi hoặc trị chơi nói ở
u cầu 3.
Bài tập này, học sinh có thể miêu tả chiếc ơ tơ; tàu hoả, chong chóng ,...
Kể chuyện :Kể chuyện đã nghe đã đọc –TL HDH Tiếng Việt 4- Tập 1B–Tr.86
Yêu cầu 2. Hãy kể một câu chuyện mà em đã được đọc hay được nghe có nhân vật
là những đồ chơi của trẻ em hay con vật gần gũi với trẻ em.
Với đề bài này, học sinh có thể kể những câu chuyện như: “ Chú lính chì dũng
cảm (An-đéc –xen)” , “ Chú đất nung (Nguyễn Kiên) ”,...
Tóm lại: Các phân môn của Tiếng Việt tuy mỗi phân môn có nội dung riêng,
phương pháp riêng nhưng chúng khơng hồn tồn độc lập với nhau mà ln bổ
sung cho nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những phân môn
khác. Với phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những phân
môn khác. Muốn học tốt Tập làm văn học sinh cần học tốt các phân mơn cịn lại.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua q trình nghiên cứu, tơi đã nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của dạy
Tập làm văn. Vì vậy, tơi vận dụng linh hoạt ngay một số biện pháp, hình thức dạy
học theo hướng tích hợp các kiến thức liên quan với nhau giữa các môn học.
Thông qua dạy thử nghiệm theo hướng trên, tôi đã thu được rất nhiều kết quả khả
quan: học sinh tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ của học sinh phong phú
hơn, câu văn giàu hình ảnh hơn. Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy
Tập làm văn lớp 4C, tôi ra đề bài sau:
Đề bài: Tả một con vật em yêu thích. (TL HDH Tiếng Việt 4 –Tập 2B-Tr.76)

Kết quả thu được như sau:


18

Bảng 2: Khảo sát chất lượng Tập làm văn lần 2 của hai lớp 4B và 4C
( Tháng 5-Năm học 2019-2020 )
Lớp

Sĩ số

4B

34

4C

34

Hoàn thành tốt
SL
TL
3
8.8
6

17.7

Hoàn thành
SL

TL
27
79.4
27

79.4

Chưa hoàn thành
SL
TL
4
11.8
1

2.9

Như vậy, so sánh kết quả khảo sát của hai lớp 4B và 4C trong bảng trên, ta thấy
chất lượng viết văn miêu tả của lớp 4C cao hơn hẳn lớp 4B. Bằng cả sự lao động
nỗ lực của cô và sự rèn luyện chăm chỉ của trò, chất lượng học văn miêu tả của
lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài văn gãy gọn,
mạch lạc, các em đã biết viết văn miêu tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt
nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: nhân hóa, so sánh, dùng
điệp từ, điệp ngữ,…bài làm sinh động, cảm xúc chân thật. Tuy vẫn cịn một số ít
bài viết khơ cứng, liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả nhưng khơng có hiện
tượng sao chép văn mẫu, khơng có bài làm na ná như nhau. Mặc dù chỉ là sự
chuyển biến ít ỏi, song trong giảng dạy Tập làm văn thì kết quả như vậy cũng là
điều đáng quý. Mặt khác, các biện pháp trên mới chỉ được áp dụng khi dạy văn
miêu tả lớp 4, nếu có thể thực hiện từ khi dạy Tập làm văn miêu tả ở lớp 2, 3 thì tơi
tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ khả quan hơn rất nhiều.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận.
Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn, bản thân
đã đúc kết những bài học kinh nghiệm sau: (Đối với giáo viên)
- Tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và nắm
chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần giúp các em hiểu rõ các đặc điểm
ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
- Luôn động viên, khen ngợi kịp thời các em học sinh yếu dù là tiến bộ nhỏ nhất.
Không áp đặt, không chê bai khi học sinh viết sai, viết thiếu ý hoặc diễn đạt câu
chưa đúng.
- Vì Tập làm văn là phân mơn thực hành tổng hợp của tất cả các phân môn thuộc
môn Tiếng Việt nên muốn dạy tập làm văn có chất lượng, giáo viên cần thiết phải
dạy tốt các phân mơn cịn lại.
- Xác định được mục tiêu dạy học theo phương pháp mới, phát huy được tính
tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học. Giáo viên đóng đúng vai
trò người tổ chức, hướng dẫn cho học sinh hoạt động.
- Hình thành phương pháp và kỹ năng quan sát gắn với từng kiểu bài để học sinh
có đủ ý. Sau đó, giúp các em hình thành dàn ý chi tiết, mạch lạc, hợp lý làm cơ sở
cho học sinh viết đoạn, viết bài tốt.
- Chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, để khi thực hiện kế hoạch bài học trên lớp,
giáo viên cần đọc cho học sinh nghe các câu văn, câu thơ có sử dụng các biện pháp


19

nghệ thuật, cung cấp cho các em những đoạn văn mẫu,…giúp các em mở rộng vốn
từ, mở rộng vốn hiểu biết và từ đó học tập vận dụng vào bài làm của mình.
- Xem tiết trả bài như một khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp theo. Trả
bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học sinh, giúp học
sinh điều chỉnh những sai sót mắc phải trong bài viết để bài viết sau sẽ hoàn chỉnh
hơn, hấp dẫn hơn.

Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi mới
chương trình, sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực trong công
cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy học
là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược phát triển giáo dục. Một
trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đó là đội ngũ giáo viên. Để
đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên phải không ngừng học hỏi, sáng tạo
trong giảng dạy, đem hết khả năng và niềm đam mê, lịng nhiệt tình cho cơng tác
thì mới có được những kết quả như mong muốn. Với việc dạy Tập làm văn, nhất là
văn miêu tả lớp 4 thì việc làm này càng cần thiết hơn bởi việc dạy Tập làm văn là
rất khó, học sinh lớp 4 tuy đã gần cuối cấp Tiểu học nhưng việc làm văn cũng mới
dừng ở mức độ "tập", nội dung chương trình lại hồn tồn mới. Khơng phải ai sinh
ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn chương mà khả năng ấy phải được
bồi đắp dần qua năm tháng, qua trang sách và những bài giảng hàng ngày của thầy
cơ. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học sinh thì chính mỗi giáo viên phải định
hướng, gợi mở cho các em phương pháp học tập. Với học sinh lớp 4, các em không
thể vừa bắt tay vào viết văn đã có được những dịng văn hay mà văn hay là kết quả
của một quá trình rèn luyện liên tục, bền bỉ, dẻo dai. Với tinh thần đó, việc rèn kỹ
năng làm văn vừa nhằm mục đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng cao
ý thức tự rèn luyện của học sinh. Đó chính là động lực thúc đẩy tơi hồn thành
nghiên cứu đề tài khoa học này.
3.2. Kiến nghị.
Để nâng cao chất lượng dạy – học văn miêu tả, tôi kiến nghị một số vấn đề
sau:
- Đối với giáo viên, cần:
+ Tích cực học tập, học hỏi để nâng cao trình độ tay nghề chịu khó sưu tầm,
nghiên cứu để tìm những hình thức tổ chức cũng như các biện pháp dạy học phù
hợp nhất với những tiết dạy.
+ Kết hợp với phụ huynh để có biện pháp giáo dục học sinh một cách tốt
nhất giữa gia đình với nhà trường nhằm hình thành hứng thú viết văn, thói quen
nói, viết câu văn đủ ý, rõ ràng.

- Đối với Nhà trường: Tạo điều kiện về trang thiết bị dạy học, thường xuyên tổ
chức những buổi họp chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy- học Tiếng Việt .
- Đối với Phòng giáo dục: Thường xuyên mở lớp bồi dưỡng phương pháp dạy
học mới cho giáo viên, tổ chức hội thảo, công bố các SKKN đã đạt giải để giáo
viên học tập kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ.
Trên đây là một số suy nghĩ tìm tịi của tơi trong q trình dạy học sinh thực
hành viết văn miêu tả của phân mơn Tập làm văn. Do khơng có nhiều thời gian


20

nghiên cứu và trình độ, kinh nghiệm của bản thân có hạn nên những vấn đề nêu
trên khơng khỏi những sai sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý
báu của Ban giám hiệu, Hội đồng khoa học các cấp để đề tài hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Sầm Sơn, ngày 13 tháng 5 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người thực hiện:

Lê Văn Hưng

Nguyễn Thị Thanh Tâm


21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục Tiểu học - NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2015.
2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học Tập 2
Tác giả: GSTS Lê Phương Nga - Nguyễn Trí - NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
2005.
3.Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học, lớp 4,
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009.
4.Quy định đánh giá học sinh Tiểu học( Ban hành theo Thông tư 22/2016/TTBGDĐT)
5.Chương trình giáo dục phổ thơng cấp Tiểu học, Giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
2006.
6. Hướng dẫn học Tiếng Việt 4 Tập 1, 2 , Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2014.
7. Hướng dẫn giáo viên môn Tiếng Việt 4 Tập 1,2, Giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
2014.
8. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 Tập 1, 2, Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2005.
9. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 Tập 1, 2, Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2005.



×