SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGA SƠN
---------------------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ
LUẬN XÃ HỘI (KHOẢNG 200 CHỮ)
CHO HỌC SINH THPT
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hồng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn
THANH HÓA NĂM 2020
MỤC LỤC
1. Mở đầu..............................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài........................................................................................1
Những năm gần đây Bộ GD-ĐT ngày càng chú trọng nhiều hơn đến việc
nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học nhằm cung cấp tri thức toàn diện
cho người học, đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn trong
trường phổ thông. Trên cơ sở đó rèn luyện năng lực cảm thụ văn học, bồi
dưỡng tình cảm tâm hồn nhân cách chuẩn bị cho các em hành trang tri thức
vào đời. Năm học 2016-2017 trong phần Làm văn ở dạng bài NLXH, thay vì
học sinh viết bài văn NLXH như các năm trước thì trong cấu trúc đề thi minh
họa những năm sau này, trong đề thi mà bộ đưa ra cũng như trong các bộ đề
luyện thi của nhiều tác giả đã yêu cầu học sinh viết đoạn văn NLXH..............1
1.3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2
2. Nội dung...........................................................................................................4
2.1. Cơ sở lí luận................................................................................................4
2.1.1. Vai trị, vị trí của văn NLXH...............................................................4
Đề bài 3: Trong bài phát biểu nhân kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội, học giả Vũ Khiêu có câu: “Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất
vài năm, nhưng để trở thành người có văn hóa có thể phải mất hàng chục
năm, có khi cả cuộc đời”...................................................................................13
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây Bộ GD-ĐT ngày càng chú trọng nhiều hơn đến việc
nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học nhằm cung cấp tri thức toàn
diện cho người học, đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn
trong trường phổ thơng. Trên cơ sở đó rèn luyện năng lực cảm thụ văn học,
bồi dưỡng tình cảm tâm hồn nhân cách chuẩn bị cho các em hành trang tri
thức vào đời. Năm học 2016-2017 trong phần Làm văn ở dạng bài NLXH,
thay vì học sinh viết bài văn NLXH như các năm trước thì trong cấu trúc đề
thi minh họa những năm sau này, trong đề thi mà bộ đưa ra cũng như trong
các bộ đề luyện thi của nhiều tác giả đã yêu cầu học sinh viết đoạn văn
NLXH.
Trong xu thế đổi mới việc dạy và học Ngữ văn nói chung và cụ thể là đổi
mới chương trình và sách giáo khoa sau một thời gian thí điểm từ năm học trước
Bộ GD và ĐT đã đưa vào sử dụng bộ sách giáo khoa mới theo chương trình
phân ban: Bỏ đi một số tác phẩm khơng phù hợp, một số văn bản mới đưa
được đưa vào chương trình Ngữ văn. Khi làm bài NLVH các em đã được trang
bị kiến thức từ những tiết đọc hiểu văn bản, cịn văn NLXH học sinh gặp khơng
ít khó khăn cả về nội dung và phương pháp. Trước đây học sinh đang quen với
việc viết bài văn NLXH bằng các thao tác lập luận cần thiết, nay với yêu cầu đổi
mới viết một đoạn văn, học sinh sẽ có những lúng túng, bỡ ngỡ. Với học sinh
việc viết một bài văn NLXH đã khó, nay phải viết đoạn NLXH lại càng khó
hơn. Đây quả là một thử thách đối với học sinh THPT.
Là một giáo viên Ngữ Văn đang trực tiếp giảng dạy khối 12, chúng ta phải
làm gì để giúp học sinh có được kĩ năng cần thiết viết đoạn văn NLXH một cách
tốt nhất. Nỗi băn khoăn, sự trăn trở và suy nghĩ của tôi cũng là của tất cả giáo
viên Ngữ văn THPT mong muốn học sinh tiếp cận vấn đề, giải quyết vấn đề đặt
ra và viết tốt đoạn NLXH để làm bài thi TNTHPT đạt hiệu quả cao.Từ đó bồi
dưỡng cho các em lịng u thích và niềm đam mê học mơn Ngữ văn, giúp các
1
em hiểu đời hiểu người, có đời sống tình cảm tâm hồn thêm phong phú và hình
thành được kĩ năng sống cần thiết. Đồng thời những vấn đề đặt ra từ đề bài văn
NLXH góp phần thực hiện mục đích giáo dục hoàn thiện nhân cách cho học sinh
giúp các em có thêm tri thức để bước vào đời.
Với đề tài “Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn NLXH (khoảng 200 chữ)
cho học sinh THPT”, người viết muốn chia sẻ với đồng nghiệp phương pháp dạy
học sinh viết đúng, viết nhanh, viết hay một đoạn văn NLXH nhằm đạt được số
điểm tối đa như một cách các em chinh phục bản thân và qua bài viết chúng ta có
thể đánh giá phần nào về nhận thức, hiểu biết, tâm lí, mục đích sống, các kĩ năng
(trong đó có kĩ năng viết văn) và thái độ với môn Ngữ văn của học sinh hiện nay.
Cần thay đổi cách nghĩ và khoa học hóa cách làm. Thực chất với một yêu cầu
mới, cả người dạy và người học đều cần chuẩn bị về tâm lí, kĩ năng phù hợp để có
sự thích nghi tốt nhất và hồn tồn có thể định lượng về mặt thời gian, dung
lượng kiến thức, số lượng dòng cho bài làm. Đó là lí do mà tơi chọn đề tài này.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tơi nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh vận dụng hiểu biết
kiến thức xã hội để làm văn NLXH, có kĩ năng viết đoạn văn NLXH nhằm đáp
ứng yêu cầu việc đổi mới kiểm tra đánh giá của bộ GD và ĐT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu mang tính thực tế cao, nhằm đưa ra cách viết một
đoạn văn NLXH khoa học, hiệu quả, có thể áp dụng rộng rãi cho giáo viên và
học sinh trong dạy, học, thi môn Ngữ văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Ở đề tài này, người viết đã vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên
cứu nhằm phát huy hiệu quả tổng hợp ưu thế của các phương pháp. Trong đó các
phương pháp được sử dụng chủ yếu là:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
2
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin (từ các nguồn
tài liệu ôn thi, các đề thi thử nghiệm, các đề thi thử của các trường THPT, các đề
thi học sinh giỏi của các tỉnh và khu vực, các báo cáo, luận văn của sinh viên,
thạc sĩ,…).
- Phương pháp tâm lí.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thử nghiệm thực tiễn.
1.5 Những điểm mới của SKKN
*Tính mục đích: Đề tài đã giải quyết được những mâu thuẫn, những khó
khăn gì có tính chất thời sự trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh. Tác giả
viết SKKN nhằm mục đích gì? ( nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, để
trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, để tham gia nghiên cứu khoa học… ).
*Tính thực tiễn :Tác giả trình bày được những sự kiện đã diễn ra trong thực
tiễn công tác giảng dạy, giáo dục của mình. Những kết luận được rút ra trong đề
tài phải là sự khái quát hóa từ những sự thực phong phú, những họat động cụ thể
đã tiến hành (cần tránh việc sao chép sách vở mang tính lý thuyết đơn thuần,
thiếu tính thực tiễn).
*Tính sáng tạo khoa học: Trình bày được cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn làm
chỗ dựa cho việc giải quyết vấn đề đã nêu ra trong đề tài. Trình bày một cách rõ
ràng, mạch lạc các bước tiến hành trong SKKN. Các phương pháp tiến hành mới
mẻ, độc đáo. Dẫn chứng các tư liệu, số liệu và kết quả chính xác làm nổi bật tác
dụng, hiệu quả của SKKN đã áp dụng. Tính khoa học của một đề tài SKKN
được thể hiện cả trong nội dung lẫn hình thức trình bày đề tài cho nên khi viết
SKKN, tác giả cần chú ý cả hai điểm này.
*Khả năng vận dụng và mở rộng SKKN: Trình bày, làm rõ hiệu quả khi áp
dụng SKKN ( có dẫn chứng các kết quả,các số liệu để so sánh hiệu quả của cách
làm mới so với cách làm cũ ); Chỉ ra được những điều kiện căn bản, những bài
học kinh nghiệm để áp dụng có hiệu quả SKKN, đồng thời phân tích cho thấy
3
triển vọng trong việc vận dụng và phát triển SKKN đã trình bày (Đề tài có thể
vận dụng trong phạm vi nào? Có thể mở rộng, phát triển đề tài như thế nào? ).
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Vai trị, vị trí của văn NLXH
* Trong đời sống
NLXH được ứng dụng rộng rãi trong đời sống, các bài bình luận về xã hội,
về một hiện tượng một vấn đề, thuộc lĩnh vực chính trị xã hội, văn hóa, kinh tế.
Dù tồn tại ở dang nói hay dang viết thì nó ln có vai trị và vị trí quan trọng
trong đời sống xã hội. Nó giúp con người nhìn nhận một cách đầy đủ cập nhật
khách quan các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày.
* Trong nhà trường THPT
Trong chương trình Ngữ văn THPT phần Làm văn nghị luận xã hội được đặc
biệt quan tâm. Ngay từ lớp 11 hoc sinh được thực hành khá kĩ, ở lớp 12 học sinh
còn được học hai bài lí thuyết: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và một hiện
tượng đời sống. Ngồi ra học sinh cịn được thực hành viết khá nhiều, ở các bài
thi học kì, các kì thi khảo sát chất lượng và ra các đề cho học sinh luyện tập.
Như vậy ta thấy rằng NLXH có vị trí rất quan trọng trong nhà trường, ở đó học
sinh khơng chỉ được tiếp cận các dạng NLXH, mà còn được thực hành tạo lập
văn bản, giúp các em hoàn thiện kiến thức và kĩ năng làm văn.
2.1.2.Những thay đổi của văn NLXH trong đề thi hiện nay
Với những đổi mới của đề thi TNTHPT từ năm 2017 do Bộ GD và ĐT ban
hành thì cấu trúc đề thi Ngữ văn có sự thay đổi: Thời gian làm bài thi từ 180
phút nay xuống còn 120 phút. Câu NLXH 3 điểm viết bài văn nay viết một đoạn
văn khoảng 200 chữ. Câu đọc hiểu và NLXH có sự tích hợp theo hướng vận
dụng cao, điều này gây khơng ít khó khăn cho học sinh. Nhiều em đã quen với
việc viết bài văn NLXH nên sẽ rất lúng túng khi đề bài yêu cầu viết đoạn văn
NLXH, dẫn đến tình trạng viết lan man, viết xa đề bài .
4
Với SKKN, bản thân tôi muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn
NLXH (khoảng 200 chữ) để bài thi tốt nghiệp THPT của các em đạt kết quả cao.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi viết sáng kiến
2.2.1 Thuận lợi
Bắt đầu từ khi đổi mới chương trình thay sách giáo khoa (2006-2007), các
bộ sách giáo khoa, sách giáo viên đã in ấn kịp thời, các phương tiện truyền
thông như báo, đài, internet,… rộng khắp đã giúp học sinh chủ động, hứng thú
hơn trong việc học tập Ngữ Văn. Hiện nay với sự phát triển của đời sống xã hội
thì NLXH đóng vai trị quan trọng. Cái hay của dạng văn này là học sinh không
phải học thuộc làm bài, không phụ thuộc tài liệu mà được tự do trình bày suy
nghĩ, quan điểm của bản thân về một vấn đề cụ thể, từ đó rút ra những bài học
nhận thức và hành động. Vì vậy học sinh cũng có hứng thú hơn khi làm bài
NLXH.
2.2.2 Khó khăn
Bài NLXH đóng vai trị, vị trí quan trọng, học sinh cũng được rèn luyện
nhiều nhưng kết quả bài làm của học sinh chưa thực sự tốt. Điều này có nhiều
nguyên nhân.
+ Nhận thức và sự đánh giá nhìn nhận vấn đề của các em cịn hạn chế, chưa
tồn diện, chưa có sự suy nghĩ sâu .
+ Viêc tìm hiểu văn NLXH trong nhà trường còn hạn chế . Các bài văn
NLXH học sinh viết được ít, trong giảng dạy giáo viên chỉ chủ yếu rèn cho học
sinh kĩ năng làm bài NLVH vì liên quan trực tiếp đến các tác phẩm trong chương
trình. Vì thế học sinh cịn mơ hồ về phương pháp làm bài văn NLXH. Viết một
bài nghị luân tốt với các em đã khó nay phải viết đoạn văn NLXH thì lại càng
khó hơn.
2.3.Các giải pháp cụ thể
2.3.1.Kiểu bài NLXH
NLXH thực chất là một phương pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực:
Chính trị, đạo đức, xã hội là nội dung bàn bạc nhằm làm sang tỏ cái đúng, sai,
5
tốt, xấu của vấn đề nêu ra. Từ đó đưa ra những cách hiểu thấu đáo về vấn đề
nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống. Cùng với kiểu bài NLVH thì kiểu
bài NLXH là nội dung cần thiết trong quá trình học và thi của học sinh. Thơng
thường sẽ có hai loại chính: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về
một hiện tượng xã hội. Ngồi ra cịn loại nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra
trong tác phẩm văn học.
2.3.1.1.Nghị luân về tư tưởng đạo lí
* Khái niệm:
Nghị luân về tư tưởng đạo lí là dạng nghị luận kết hợp các thao tác lập
luân để làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng đạo lí trong đời sống. Cụ thể: Nghị luận
về quan điểm đạo đức, lối sống, lí tưởng sống; Nghị luận về một quan điểm, về
các vấn đề văn hóa, giáo dục, dân tộc; Nghị luận về phương pháp tư tưởng; Nghị
luân về mối quan hệ giữa con người – con người, gia đình và ngồi xã hội.
*Kĩ năng làm bài
- Tìm hiểu đề:
Đọc kĩ đề bài, chú ý những từ quan trọng, những khái niệm, nghĩa đen, nghĩa
bóng, chia vế ngăn đoạn .
Nội dung: Vấn đề nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý, các ý cần triển khai.
Thao tác lập luân: Sử dụng các thao tác lập luận nào, giải thích, phân tích,
bình luận, chứng minh.
Phạm vi tư liệu dẫn chứng: Dẫn chứng từ thực tế, từ tác phẩm văn học.
- Lập dàn ý:
Giải thích ý kiến: Chú ý các khái niệm, các vế, rút ra ý khái quát của vấn đề .
Cần giới thiệu một cách ngắn gọn rõ ràng, tránh trình bày chung chung.
Phân tích bàn bạc vấn đề trên các phương diện đúng - sai, tốt - xấu, tích cực
- tiêu cực, đóng góp - hạn chế (cần kết hợp dẫn chứng để chứng minh).
Khẳng định ý nghĩa của vấn đề trong lí luận về đời sống thực tiễn.
Liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức và hành động.
2.3.1.2.Nghị luận về một hiện tượng đời sống
6
*Khái niệm
Nghị luận về hiện tượng đời sống là bài nghị luận có sử dụng các thao tác
lập luận để làm người đọc hiểu rõ, đúng, hiểu sâu về những hiện tượng đời sống
có ý nghĩa xã hội. Có các dạng như sau: Nghị luận về hiện tượng liên quan đến
môi trường sống tự nhiên của con người; Nghị luận về một hiện tương liên quan
đến môi trường sống xã hội; Nghị luận về một sự việc tích cực đáng biểu dương
hoặc tiêu cực đáng phê phán.
*Kĩ năng làm bài
- Tìm hiểu đề
Đọc kĩ đề bài, chú ý những từ quan trọng, những khái niệm, nghĩa đen, nghĩa
bóng, chia vế ngăn đoạn, mối tương quan giữa các vế; Về nội dung: Vấn đề nghị
luận là gì? Có bao nhiêu ý, các ý cần triển khai,... ;Thao tác lập luận; Sử dụng
các thao tác lập luận nào, giải thích, phân tích, bình luận, chứng minh; Phạm vi
tư liệu, dẫn chứng: Dẫn chứng từ thực tế, từ tác phẩm văn học .
- Lập dàn ý
Giải thích, phân tích, chứng minh biểu hiện nguyên nhân và hậu quả của sự
việc, hiện tượng; Bình luận về hiện tượng: Nhận xét, nêu thái độ về hiện tượng.
Đánh giá hiện tượng tốt, xấu, lợi, hại như thế nào? Phương hướng hành động;
Rút ra bài học tư tưởng đạo lí; Xây dựng hệ thống dẫn chứng tiêu biểu.
Xác định đoạn văn sẽ viết theo kiểu nào (diễn dịch, quy nạp hay tổng - phân
- hợp)
2.3.2 Khái lược về đoạn văn
Đoạn văn là một phần của văn bản, nó diễn đạt một ý hồn chỉnh. Các câu
trong đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau, góp phần thể hiện nội dung. Đoạn văn
được bắt đầu bằng chữ cái viết hoa lùi đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm
xuống dòng. Các loại đoạn văn: đoạn văn diễn dịch, quy nạp, móc xích, song
hành, tổng phân hợp.
2.3.3 Kĩ năng viết đoạn văn NLXH
Để làm tốt câu NLXH, học sinh cần chú ý các bước sau:
7
*Bước 1:
Đọc kĩ bài đọc hiểu, nắm được nội dung cốt lõi của đoạn văn bản. Xác
định xem phần đọc hiểu bàn về vấn đề gì nhất là phải xác định được vấn đề đó
thuộc tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống; Xác định được các thao tác lập
luận. Xác định hệ thống dẫn chứng tiêu biểu. Xác định đoạn văn sẽ viết theo
kiểu nào (diễn dịch, quy nạp, hay tổng phân hợp)
Ví dụ: Đọc đoạn đọc hiểu sau: Những người dễ thoát khỏi những suy nghĩ
tiêu cực cũng chính là biết chấp nhận cuộc sống của bản thân. Mỗi người chúng
ta đều đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng, bởi vậy khi so sánh bản thân
với người khác, chúng ta không chỉ“ thấy khoảng cách” giữa mọi người mà còn
thấy được “sự khác biệt” trong mỗi người.
Tự bản thân nghĩ như thế nào về mình được gọi là “tự đánh giá bản thân”.
Khi một người đánh giá thấp bản thân, anh ta sẽ tự giày vò bản thân bớt cảm
giác tự ti, chán ghét chính mình và chỉ nhìn mọi chuyện theo hướng tiêu cực.
Cũng có nhiều trường hợp so sánh điểm mạnh của người khác với điểm yếu của
bản thân, sau đó tự giam mình trong cảm giác tự ti, mặc cảm. Ngược lại, nếu
một người biết đánh giá bản thân phù hợp, dù gặp thất bại thì người đó vẫn tiếp
tục hi vọng vào lần sau, tiếp thu thất bại lần này và học hỏi kinh nghiệm trong
đó.
Tơi có một người quen, anh là một người học rất giỏi, thời đại học anh đi
làm người mẫu. Nhìn bề ngồi, anh hồn hảo đến mức mọi người phải ghen tị,
nhưng thực ra anh ấy lại tự đánh giá thấp bản thân. Ngay từ nhỏ anh ấy thường
bị bố mẹ so sánh với người khác, bản thân cũng chỉ là kẻ nửa vời mà thơi…
chính vì vậy, việc tự đánh giá bản thân ở mức thích hợp là điều quan trọng nhất.
Câu nghị luận xã hội được cho là: Hãy viết một đoạn văn (200 chữ) trình
bày suy nghĩ của anh, chị về “việc tự đánh giá bản thân ở mức thích hợp là điều
quan trọng nhất”.
Như vậy phần NLXH được tích hợp trong phần đọc hiểu. Vậy để làm tốt
phần NLXH, học sinh phải đọc kĩ phần đọc hiểu để hiểu được câu trên nằm
8
trong một chỉnh thể mà ở đó tác giả đã dạy chúng ta về việc tự đánh giá bản thân
ở mức độ thích hợp là một điều quan trọng.
*Bước hai: Xây dựng phần mở đoạn
Phần mở đoạn viết khoảng 1-3 câu, thể hiện cái nhìn tổng quát, khái quát
được nội dung vấn đề cần nghị luận mà đề bài yêu cầu. Nên viết theo hướng:
Nêu khái quát nội dung - dẫn câu nói vào (hoặc trích cụm từ khóa). Ví dụ theo
đề trên ta viết như sau: Nó giúp mỗi người pháp huy được năng lực, sở trường
và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, ngày càng tự hoàn thiện mình; Giúp
chúng ta có một tâm lí thoải mái, vui vẻ, hài lịng với cuộc sống của mình, tránh
tự ti mặc cảm. Giúp chúng ta có một cái nhìn tích cực về mọi vấn đề trong cuộc
sống: Chấp nhận sự khác biệt của mình và những người khác, nhìn thấy gía trị
riêng của mỗi người, nhìn thấy hi vọng trong thất bại.
*Bước 3: Xây dựng phần thân đoạn
Đối với đề nghị luận về tư tưởng đạo lí: Phải giải thích được cụm từ khóa,
giải thích được cả câu (cần ngắn gọn, đơn giản).
Bàn luận :
Đặt ra các câu hỏi: Vì sao lại khẳng định như vậy? Có ý nghĩa như thế nào?
Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến. Dẫn chứng xác thực, phù hợp. Đưa ra
phản đề, phê phán mặt trái của ý kiến. Rút ra bài học nhận thức và hành động,
liên hệ bản thân.
Đối với đề nghị luân về hiện tượng đời sống. Giải thích, phân tích, chứng
minh biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của sự việc, hiện tượng. Bình luận,
đánh giá về hiện tượng: Nêu thái độ đối với hiện tượng. Đánh giá hiện tượng tốt,
xấu, lợi, hại như thế nào? Phương hướng, hành động. Rút ra bài học nhân thức
về tư tưởng đạo lí.
*Bước 4: Xây dựng phần thân đoạn
Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận. Có thể trình bày bài học nhận thức
hành động, liên hệ bản thân ở phần kết đoạn.
*Bước 5: Viết đoạn văn
9
“Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản. Trong nhiều trường hợp đoạn
văn có khả năng tồn tại độc lập giống như một văn bản bởi xét về mặt nội dung,
đoạn văn diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn; xét về mặt hình thức, đoạn văn là
phần văn bản bắt đầu từ chữ viết hoa lùi vào đầu dòng, kết thúc bằng một dấu
chấm xuống dòng, đoạn có một hoặc do nhiều câu liên kết tạo thành” Một đoạn
văn bình thường sẽ được tạo nên từ các câu. Ở những vị trí khác nhau các câu có
vai trị khác nhau. Câu mở đoạn là câu nêu vấn đề; câu khai triển đoạn là câu
phát triển ý được nêu ở câu mở đoạn; câu kết đoạn là câu khép lại vấn đề; câu
chủ đề là câu mang ý chính của tồn đoạn. Vị trí của câu chủ đề tùy thuộc vào
kết cấu của đoạn.
Khi viết đoạn văn nghị luận phải đáp ứng được cả yêu cầu về hình thức và
nội dung.
+ Về hình thức: Đoạn văn phải được bắt đầu bằng chữ cái viết hoa lùi dòng cho
đến dấu chấm kết thúc. Dung lượng đoạn văn khoảng 200 chữ - không thừa quá
nhiều so với yêu cầu đề bài.
+ Về nội dung: Đoạn văn phải đáp ứng được các nội dung đã trình bày ở các
bước như trên đã hướng dẫn.
Như vậy việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn NLXH cho học sinh được tiến
hành qua năm bước. Trong quá trình hướng dẫn học sinh viết đoạn văn, giáo
viên đi từng bước và hướng dẫn học sinh cụ thể để rèn cho các em kĩ năng viết
đoạn văn vì đoạn văn nghị luận là một phần của văn bản nghị luận; góp phần
xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, một quan điểm. Trong bài văn
nghị luận nói chung và đoạn văn nghị luận nói riêng, trong đó có đoạn văn
NLXH cần hình thành được hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng và
lập luận chặt chẽ. Có thể triển khai một đoạn văn nghị luận bằng một trong các
phương pháp diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng - phân - hợp.
2.4. Nội dung thực nghiệm và kết quả
Từ cách viết trên, người làm đề tài này đã áp dụng trong q trình dạy học
và ơn thi cho học sinh khối 12 với những đề bài cụ thể nhằm rèn luyện kĩ năng
10
và đánh giá năng lực thực tế của các em. Từ đó góp phần tạo tâm thế chủ động
của người học, với việc làm đó tơi xin trích dẫn một số nội dung bài viết và kết
quả thực nghiệm của học sinh trường THPT Nga Sơn về cách viết đoạn văn nghị
luận xã hội như sau:
Đề bài 1: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ ) trình bày suy nghĩ của anh, chị về những hành động
nhỏ làm nên người anh hùng giữa đời thường.
Bài làm của học sinh Nguyễn Thị Thu Ngân lớp 12A, trường THPT Nga
Sơn
Anh hùng là người can đảm cống hiến trong mọi hoàn cảnh dù là khó khăn
nhất, là một cá nhân hành động khơng vị kỉ và ln địi hỏi bản thân mình phải
tốt hơn so với mức kì vọng của người khác,là người xem thường nghịch cảnh.
Đừng nghĩ anh hùng là phải có sức mạnh phi thường, có đóng góp to lớn cho
cộng đồng. Hãy suy nghĩ rằng: anh hùng cũng chỉ là những con người bình
thường như bao người khác, chỉ khác là họ ln phấn đấu để hồn thiện mình,
sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, mà khơng run sợ hay tính toán.
Bài làm của học sinh Vũ Thị Tâm lớp 12A, trường THPT Nga Sơn
Những hành động nhỏ là những việc làm nhỏ, bình dị trong cuộc sống
hàng ngày. Người anh hùng giữa đời thường là cá nhân luôn sống và cống hiến
những giá trị tích cực cho cộng đồng. Cái đẹp, cái tốt không nhất thiết phải là
những cái lớn lao, kì vĩ. Những hành động nhỏ có ý nghĩa sẽ góp phần xây dựng
và bảo vệ cộng đồng, tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Cá nhân thực hiện hành động nhỏ cống hiến, có ích cho cộng đồng sẽ trở thành
những người anh hùng giữa cuộc sống đời thường. Dẫn chứng: Trong việc
phòng chống tội phạm, những việc làm của các hiệp sĩ đường phố đã góp phần
bảo vệ an ninh trật tự của các tuyến phố tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong đại
dịch SAT- Covid 2, những y bác sĩ, chiến sĩ công an, anh bộ đội, bà mẹ Việt Nam
anh hùng, thanh niên, nhân dân,… đã có những hành động nhỏ bé như khám
chữa bệnh, quyên góp lương thực, làm tình nguyện viên, tự giác cách li,… chính
11
những hành động ấy đã cùng Đảng và Nhà nước góp phần chống lại dịch bệnh
thành cơng với lời kêu gọi “chống dịch như chống giặc”. Liên hệ đến hành
động thực tiễn của bản thân.
Đề bài 2: Từ bài hát “Ông bà anh” của Lê Thiện Hiếu đang được rất
nhiều bạn trẻ u thích, có người cho rằng: “Đừng bận tâm so sánh tình
yêu xưa - nay làm gì. Dù ngày xưa hay ngày nay thì nó vẫn đẹp như nó vốn
thế mà thơi”.
Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn luận về ý kiến
trên.
Bài làm của học sinh Lã Thị Hà lớp 12H, Trường THPT Nga Sơn
Tình u là đề tài mn thuở, là gia vị không thể thiếu trong cuộc sống của
con người, đặc biệt là người trẻ. Lê Thiện Hiếu, một nhạc sỹ, ca sỹ trẻ đã đưa
ra quan niệm về tình yêu của anh qua bài hát “Ông bà anh”, một bài hát được
rất nhiều bạn trẻ u thích. Từ bài hát có ý kiến cho rằng: “Đừng bận tâm so
sánh tình yêu xưa - nay làm gì. Dù ngày xưa hay ngày nay thì nó vẫn đẹp như
nó vốn thế mà thơi”. Quả thật là như vậy. Tình yêu là thứ tình cảm vô cùng đặc
biệt và đẹp đẽ luôn tồn tại vĩnh cửu trong cuộc sống con người. Xưa- nay tình
yêu vẫn thế, vẫn đẹp đẽ, tinh khôi, mãnh liệt và dữ dội như vậy. Tình u ln là
nguồn cảm hứng vơ tận, tình u đi vào thơ ca, đi vào cuộc sống của con người.
Chẳng phải mối tình Kim - Kiều trong “Truyện Kiều” là minh chứng rõ ràng,
tiêu biểu nhất cho tình yêu xưa hay sao? Hay qua “Vội vàng” của Xuân Diệu,
“Sóng” của Xuân Quỳnh, ta vẫn cảm nhận được tính chất của tình u xưa và
nay: mãnh liệt, dữ dội, dồn nén, khao khát đến trào dâng. Tình yêu vẫn thế, vẫn
là nỗi nhớ, những kỉ niệm ngọt ngào của con người luôn được lưu giữ như một
phần kí ức khơng thể nào qn. Tuy tình u xưa nay vẫn đẹp như thế nhưng
cũng có một số bạn trẻ đã bỏ quên, đánh mất giá trị của tình u, xem tình u
là một thú vui, là trị đùa.
Bài làm của học sinh Mai Thị Phương lớp 12B, Trường THPT Nga Sơn
12
Tình u là một đề tài mn thở của nghệ thuật và cuộc sống con người. Bài
hát “Ông bà anh” của Lê Thiện Hiếu đang là nhạc phẩm được rất nhiều bạn trẻ
u thích, nhưng mỗi người lại có một quan niệm riêng về tình yêu. Tình yêu là
cảm xúc xuất phát từ con tim, song có người lại cho rằng “Đừng bận tâm so
sánh tình yêu xưa - nay làm gì. Dù ngày xưa hay ngày nay thì nó vẫn đẹp như
nó vốn thế mà thơi”. Tình u ngày xưa gắn liền với những chiếc xe đạp cũ kĩ,
những bức thư tay đầy cảm xúc. Tình yêu ngày nay là tình yêu của những
phương tiện hiện đại.
Đề bài 3: Trong bài phát biểu nhân kỉ niệm 1000 năm Thăng Long –
Hà Nội, học giả Vũ Khiêu có câu: “Để giàu sang, một con người có thể chỉ
mất vài năm, nhưng để trở thành người có văn hóa có thể phải mất hàng
chục năm, có khi cả cuộc đời”
Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn luận về ý kiến trên.
Bài làm của học sinh Vũ Thị Yến lớp 12I, Trường THPT Nga Sơn
Văn hóa là một khái niệm rộng bao gồm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
từ khoa học cho đến nghệ thuật, từ đời sống tâm hồn, đến thói quen sinh hoạt,
thị hiếu thẩm mĩ, giao tiếp ứng xử,... của con người. Còn trong câu nói trên tác
giả bàn đến văn hóa của một người, là sự hội đủ của hai yếu tố văn hóa tri thức
và văn hóa tinh thần.
Đây là một ý kiến hoàn toàn đúng và xác đáng. Để giàu sang, một con người
có thể chỉ mất vài ba năm, thậm chí ngắn hơn nữa bằng sự cần cù và sáng tạo
trong lao động. Nhưng để hình thành nền tảng văn hóa tri thức, con người cần
rèn luyện, tích lũy trong khoảng thời gian hàng chục năm khi ngồi trên ghế nhà
trường và thậm chí trong suốt cả cuộc đời như Lê nin đã nói : Học, học nữa, học
mãi. Với giá trị văn hóa tinh thần cũng vậy, đó là vẻ đẹp tâm hồn, là đạo đức
mỗi người phải tu dưỡng suốt cả cuộc đời như: tình yêu thương, nhân ái, lòng vị
tha, khoan dung, sự sẻ chia, ý thức dân tộc, thái độ trân trọng lịch sử, văn hóa
giao tiếp ứng xử giữa người và người trong cuộc sống,…Văn hóa tri thức và
đạo đức nhân cách của con người có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Những
13
người có trình độ cao thường là những nhân cách đáng trọng. Tuy nhiên điều đó
khơng hồn tồn đúng với mọi trường hợp bởi trên thực tế, nhiều người có trình
độ văn hóa cao vẫn có thể có những suy nghĩ ấu trĩ và mắc những sai lầm trong
giao tiếp văn hóa ứng xử. Ngược lại, có những người dù khơng được học cao
nhưng nhân cách vẫn rạng ngời. Vì vậy, song song với việc bồi đắp tri thức văn
hóa, chúng ta còn phải học làm người, tăng cường rèn luyện kĩ năng sống, bởi
việc rèn luyện để trở thành người có văn hóa là quan trọng, cần thiết. Để đào
luyện một con người có văn hóa cần có sự chung tay của cả gia đình, nhà
trường, xã hội, đặc biệt là ý thức chủ động của cá nhân. Khi mỗi chúng ta tự
mình rèn luyện thì “văn hóa” sẽ hiện hữu ở mọi nơi, cuộc sống sẽ ngày càng
văn minh, hiện đại.
Đề bài 4: Có ý kiến cho rằng “Con người từng ngày thay đổi cơng nghệ
nhưng chính cơng nghệ cũng đang thay đổi cuộc sống con người”.
Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn luận về ý kiến trên.
Bài làm của học sinh Mai Thị Xuân lớp 12I, Trường THPT Nga Sơn
Đã bao giờ bạn tự hỏi nếu một ngày khơng có điện thoại, laptop hay
những đồ công nghệ khác, cuộc sống sẽ ra sao? Chúng ta vẫn thường coi
công nghệ như một điều thiết yếu của cuộc sống và nghĩ rằng những sự thay
đổi đó là do con người. Nhưng ý kiến trên lại khiến chúng ta phải nhìn nhận
lại, phải chăng cơng nghệ đang ngày ngày chi phối, định hướng hành vi, thói
quen không chỉ của cá nhân mà của cả cộng đồng. Thuật ngữ cơng nghệ có
nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp, hàm nghĩa về các công cụ, kĩ năng và mưu mẹo
của con người trong các hoạt động sống. Ngày nay, công nghệ được xem là hệ
thống các phương pháp, công cụ, quy trình tạo ra sản phẩm (vật thể và phi vật
thể) hay năng lực giải quyết vấn đề tối ưu. Con người đang ngày càng phát
triển công nghệ nhưng cũng đồng thời lệ thuộc và nó, bị nó chi phối. Việc phát
triển, biến đổi công nghệ là quy luật tất yếu, khi con người chủ động thay thế
phần quan trọng (cơ bản, cốt lõi) hay tồn bộ cơng nghệ đang sử dụng bằng
14
công nghệ khác tiên tiến hơn. Công nghệ hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời
sống và đem đến cho chúng ta những lợi ích khơng thể phủ nhận: cuộc sống
chúng ta ngày một tốt hơn, tiết kiệm sức lao động,…Tuy nhiên, cũng có những
ảnh hưởng tiêu cực khi sự lệ thuộc vào cơng nghệ ngày càng cao. Điều đó dẫn
đến việc lười suy nghĩ, lười vận động, những mối quan hệ cũng trở nên lạnh
lùng, khô cứng khi đa số lựa chọn duy trì việc gặp gỡ, trị chuyện, quan tâm
qua mạng xã hội. Thế giới cơng nghệ cịn khiến con người dễ rơi vào trạng
thái ảo tưởng. Trong thời đại hiện nay, vẫn cần thiết phát triển công nghệ. Tuy
nhiên, việc sử dụng công nghệ cần tiết chế phù hợp. Các cơ quan chức năng
cần tăng cường quản lý, sử dụng công nghệ để phục vụ cho mục đích lành
mạnh. Và mỗi người cũng cần cân bằng giữa việc sử dụng công nghệ và thực
hiện trách nhiệm với cộng đồng, gia đình, để cơng nghệ trở thành cơng cụ
phục vụ một cách hiệu quả cho cuộc sống của chúng ta.
2.5. Hiệu quả của SKKN
Có thể hiểu một cách khái quát về sáng kiến kinh nghiệm trong ngành giáo
dục chính là những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm mà người làm cơng tác dạy
học đã tích lũy được trong côn tác giảng dạy và giáo dục. Với đề tài “Rèn luyện
kĩ năng viết đoạn văn NLXH(khoảng 200 chữ) cho học sinh THPT”, người
viết đã tìm được hướng giải quyết phù hợp cho sự thay đổi với yêu cầu mới của
đề thi. Ngay từ đầu chúng ta cần giúp học sinh nhận thức lại về môn Ngữ văn
cũng như phương pháp tìm hiểu về nó. Bên cạnh yếu tố cảm xúc cần có trong
q trình dạy và học thì góc nhìn khoa học cũng khơng thể thiếu khi học sinh
muốn hiểu, ghi nhớ và hệ thống lại kiến thức, nhất là qua các kì thi. Mục đích
cuối cùng đã đạt được khi học sinh chủ động hiện thực hóa bài làm trong khung
thời gian quy định mà vẫn đảm bảo u cầu của đoạn văn NLXH. Các em khơng
cịn bối rối với tâm lí “khơng biết bắt đầu từ đâu”, thay vào đó học sinh biết
mình đang làm gì và làm như thế nào. Vì số điểm của câu NLXH không phải là
cao (2,0 điểm) nên học sinh cần tranh thủ thời gian để dành dung lượng cho câu
NLVH.
15
Quan sát phần bài làm của học sinh trường THPT Nga Sơn, chúng ta thấy
không phải bài làm nào cũng tốt, cũng đáp ứng yêu cầu cần và đủ của bài văn
song dường như tính logic của tư duy khoa học khi triển khai một vấn đề đã
được sắp xếp, bộc lộ khá rõ nét. Cá biệt có bài làm chưa hoàn chỉnh về dung
lượng, cách dùng từ, diễn đạt cũng cịn nhiều sai sót nhưng thứ tự các bước lại
tương đối hợp lí. Điều này cho thấy khi chúng ta ý thức và định lượng rõ ràng về
công việc phải làm thì mỗi người hồn tồn đánh giá được kết quả công việc.
Người viết đề tài đã triển khai vấn đề này trong tổ chuyên môn như một nội
dung sinh hoạt thiết thực, ý nghĩa và nhận được những phản hồi tích cực. Vấn đề
là phương pháp đã có song cần thường xuyên yêu cầu học sinh thực hành thì
hiểu biết mới chuyển thành kĩ năng thực sự. Đây chính là mấu chốt của việc học
nói chung và rèn kĩ năng luyện đề NLXH nói riêng.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Đề tài này đã được ứng dụng hiệu quả trong thực tế dạy và học của giáo
viên và học sinh nhà trường. Song song với đó là những bài học kinh nghiệm đã
được rút ra.
Làm việc gì cũng cần có hiểu biết cặn kẽ và phương pháp khoa học. Hiểu
biết và phương pháp sẽ chỉ có ý nghĩa khi được vận dụng trong quá trình thực
hành theo nguyên tắc “học đi đôi với hành”; khi thực hành nhiều sẽ chuyển
thành kĩ năng, khi có kĩ năng việc viết bài sẽ trở nên đơn giản và nhanh chóng.
Chúng ta khơng có tham vọng mọi học sinh đều sẽ đạt điểm cao ở tất cả các
phần trong bài và các mơn thi,đó là điều phi lí, phi khoa học. Nhưng qua việc
học, ôn thi, luyện đề, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận ra những bài học bổ ích
trong học tập và cuộc sống như: chúng ta luôn phải đấu tranh nỗ lực để vượt qua
chính mình, chiến thắng và khẳng định bản thân, cần có kĩ năng để thích nghi
với sự thay đổi, khác biệt, biết cách chấp nhận.
Dạy và học ln là q trình chia sẻ với rất nhiều mối quan hệ: giáo viên
với giáo viên, giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh. Khi có sự chia sẻ,
16
chúng ta sẽ có sức mạnh chung, niềm vui chung; biến quá trình giáo dục thành
tự giáo dục.
3.2. Kiến nghị
Mỗi SKKN luôn là kinh nghiệm, là tư duy, là thực tiễn sống động, là bài
học quý mà mỗi người dạy học đã rút ra, “trải nghiệm” sâu sắc với mục đích góp
phần làm cho q trình dạy và học trở nên thú vị, nhẹ nhàng, khoa học hơn. Đề
tài đã được tác giả tâm huyết nghiên cứu, đầu tư kĩ lưỡng cả về chất lượng, nội
dung và hình thức, rất mong hội đồng KH nghành xét duyệt và phổ biến rộng rãi
giúp giáo viên và học sinh có thêm tài liệu bổ ích để giảng dạy và học tập.
Bài viết chắc khơng tránh khỏi những thiếu sót, tơi rất mong các bạn đồng
nghiệp bổ sung góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn, cũng như ứng dụng vào
việc dạy học cho học sinh lớp mình giảng dạy, đem lại cho học sinh những bài
giảng hay hơn, cuốn hút hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 04 tháng 7 năm 2020
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Nguyễn Thị Hồng
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD và ĐT, SGK Ngữ văn 11, 12 tập 1- 2, Nxb Giáo dục Việt Nam năm
2015.
2. Bộ GD và ĐT, SGK Ngữ văn 10 tập 1- 2, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2015.
3. Đỗ Ngọc Thống, Bộ đề luyện thi THPT quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn,
Nxb Giáo dục Việt Nam, 2016.
4. Phan Danh Hiếu, Cẩm nang luyện thi và làm bài thi môn Văn nghị luận xã
hội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
5. Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2001.
18
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
NGÀNH GIÁO DỤC ĐÁNH GIÁ ĐẠT TỪ LOẠI C
TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hồng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên tổ Ngữ văn- Trường THPT Nga Sơn
TT
Tên đề tài SKKN
Rèn luyện kĩ năng viết đoạn
1.
Mở bài trong bài văn nghị luận
cho học sinh THPT
PHỤ LỤC
Cấp đánh giá
xếp loại
Sở GD và ĐT
Kết quả
đánh giá
xếp loại
C
Năm học đánh
giá xếp loại
2018
Một số cụm từ viết tắt.
* Sáng kiến kinh nghiệm: SKKN.
* Nghị luận xã hội: NLXH.
* Nghị luận văn học: NLVH.
* Tốt nghiệp Trung học phổ thông : TNTHPT.
* Trung học phổ thông: THPT.