Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kỹ năng tạo hứng thú cho học sinh môn ngữ văn ở trường THCS đông thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.38 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
1-MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.Phương pháp nghiên cứu
2-NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Tạo ấn tượng tích cực, không khí thoải mái,phấn khởi,thân
thiện khi bước vào giờ học
2.3.2.Công việc soạn giáo án, giảng bài trong giờ học phải linh
hoạt...
2.3.3.Thường xuyên kiểm tra việc học bài và soạn bài mới, chú
trọng việc hướng dẫn tự học ở nhà của học sinh
2.3.4.Phương pháp giúp học sinh dễ học thuộc thơ, tóm tắt nội
dung tác phẩm
2.3.5.Rèn luyện kĩ năng phát hiện và bình giá các dấu hiệu nghệ
thuật đặc sắc, tạo các câu hỏi tình huống nhằm khơi dậy sự sáng
tạo.
2.3.6.Áp dụng phương pháp dạy học liên môn và ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học môn ngữ văn
2.3.7.Tổ chức cho các em luyện tập, trình bày cảm nhận của mình
về tác phẩm
2.4. Kết quả đã đạt được
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1.Kết luận
3.2. Đề xuất
Tài liệu tham khảo


1

Trang
Trang 1
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 6
Trang 7
Trang 9
Trang 9
Trang 10
Trang 12
Trang 13
Trang 15
Trang 15
Trang 15
Trang 17


MỘT SỐ KĨ NĂNG NHẰM TẠO HỨNG THÚ CHO
HỌC SINH TRONG CÁC TIẾT HỌC MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ĐÔNG THỌ
1- MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:

Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế''. Giáo dục và Đào tạo có sứ mệnh nâng
cao dân trí, phát triển nguồn lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây
dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Thực hiện nghiêm
túc tinh thần Nghị quyết 40/2000-QH10 của Quốc hội khóa X và Chỉ thị số
14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đặc biệt
chú trọng đến việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên từng bước nâng cao trình độ,
đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh, xem đây là một nhiệm vụ vừa bức thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt cả quá
trình đổi mới.
Trong những năm qua, cùng với việc đổi mới đồng bộ căn bản trong giáo
dục, môn Ngữ Văn có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc và giáo dục đạo đức, tri thức cho học sinh. M.Goóc- Ki nói:''Văn học giúp
con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và
làm nảy nở con người khát vọng hướng tới chân lý".Văn học "chắp đôi cánh" để
các em đến với mọi thời đại văn minh, với mọi nền văn hoá, xây dựng trong các
em niềm tin vào cuộc sống, con người, trang bị cho các em vốn sống, hướng tới
đỉnh cao của Chân-Thiện- Mỹ.
Văn học có vai trò quan trọng đối với mỗi con người đặc biệt là học sinh.
Chính vì thế những câu hỏi đặt ra: Làm thế nào để có giờ học tốt? Làm thế nào
để học sinh say mê, hứng thú trong giờ học Ngữ văn? Có rất nhiều ý kiến khác
nhau về vấn đề này như: Phải biết thiết kế một giờ dạy theo định hướng đổi mới
phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm...Nhưng thực tế vẫn còn nhiều
học sinh chưa quan tâm đến môn Ngữ văn, không chú ý nghe giảng, thậm chí
còn nói chuyện riêng trong giờ học. Thực hiện vấn đề này quả không đơn giản,
nó đòi hỏi mỗi giáo viên dạy Ngữ văn phải mất nhiều thời gian và công sức tìm
tòi, sáng tạo cho mỗi giờ lên lớp. Cá nhân tôi là giáo viên đang giảng dạy môn
Văn tại trường THCS Đông Thọ mạnh dạn đưa ra một nguyên nhân quan trọng
đó là giáo viên chưa tìm ra được phương pháp và sự hứng thú trong công việc

dạy văn với từng đối tượng học sinh trong tiết dạy. Các phương pháp thì đúng,
nhưng đa số giáo viên đang áp dụng phương pháp đó cho tất cả học sinh chuyên,
không chuyên, giỏi, khá cũng như yếu... là chưa đạt hiệu quả. Xuất phát từ thực
2


tế trên, tôi chọn đề tài “Một số kĩ năng để giáo viên tạo hứng thú cho học sinh
trong các tiết học ngữ văn ở trường THCS Đông Thọ” với mong muốn được
trình bày những kinh nghiệm của mình để các đồng nghiệp cùng chia sẻ, góp ý.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Với đề tài này, tôi đưa ra một số biện pháp cụ thể nhằm khơi gợi sự hứng
thú của học sinh, làm cho giờ học Văn đạt hiệu quả hơn: học sinh hiểu bài, chăm
chỉ, say mê học tập, không còn mệt mỏi, uể oải, buồn ngủ khi đến tiết Văn. Xa
hơn, đó là hình thành những con người có lí tưởng ý thức tự tu dưỡng, biết yêu
thương quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; biết
hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, biết tôn trọng lẽ
phải, sự công bằng, căm ghét cái xấu, cái ác, có kĩ năng sống, kĩ năng giao
tiếp...Với các biện pháp này cũng đáp ứng được yêu cầu của phương pháp dạy
học đổi mới.
Qua đề tài nhằm mục đích trao đổi với đồng nghiệp để cùng nhau xây
dựng cho giải pháp hoàn thiện hơn, áp dụng có hiệu quả trong quá trình dạy học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
+Sáng kiến kinh nghiệm này được vận dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp
9A,9C trường THCS Đông Thọ.
+Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 8-2018 đến tháng 4-2019
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện tốt đề tài nghiên cứu bản thân tôi đã thực hiện các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu các tài liệu về “Phương pháp dạy học Ngữ Văn”, tài liệu tâm
lí học
- Nghiên cứu tài liệu gây hứng thú về dạy học phân môn Văn học lớp 9

- Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn, chuẩn KTKN môn Ngữ Văn.
- Kiểm tra đánh giá học sinh và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung
hợp lí.
- Phương pháp thực nghiệm, đối chiếu, so sánh.
- Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết
dạy
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận:
Môn Ngữ Văn có vai trò quan trọng trong nhà trường THCS. Mục tiêu
giáo dục của môn Văn là khơi dậy năng lực sáng tạo, phát triển nhân cách, định
hướng cho các em những tiêu chí sống khi bước vào đời. Môn Văn giúp học sinh
hoàn thiện nhân cách bởi "Văn học là nhân học". Sức mạnh của môn Ngữ Văn là
sức mạnh tổng hợp của khoa học và nghệ thuật, trí tuệ và tâm hồn. Nội dung

3


môn Ngữ Văn luôn hướng con người tới những tình cảm cao đẹp, vươn tới
Chân- Thiện- Mĩ.
Việc cảm thụ văn chương ở mỗi người là không giống nhau. Khả năng
cảm nhận, biểu đạt, dùng từ đặt câu của các em cũng có sự khác biệt. Hơn nữa,
hoạt động thưởng thức văn chương của học sinh trong nhà trường giới hạn nhất
định về thời gian, kể cả chính khóa và ngoại khóa, có sự hướng dẫn của giáo
viên, có sự kích thích, tác động lẫn nhau của những người cùng thưởng thức,
được khuyến khích phát hiện thưởng thức cái hay, cái đẹp theo cách riêng nhưng
hướng tới mục tiêu chung. Rõ ràng, việc tạo hứng thú cho học sinh học môn ngữ
văn đòi hỏi người giáo viên phải có rất nhiều kĩ năng, sự tìm tòi, sáng tạo trong
mỗi tiết dạy. Làm sao qua các tiết học môn ngữ văn, giáo viên truyền được cảm
hứng cho học sinh năng lực cảm thụ cái hay, cái đẹp trong văn chương, trong
cuộc sống, học sinh biết cách cảm nhận, bày tỏ, bình giá, đó là vấn đề cần đặt ra

đối với người thầy trong quá trình dạy học.
Hiện nay có thể thấy môn Ngữ văn chiếm một số lượng lớn trong khung
chương trình của nhà trường. Số tiết môn Ngữ văn là khá lớn, kiến thức nặng,
phân phối lượng thời gian cho từng bài chưa thật hợp lí. Việc dạy học môn ngữ
văn chưa đồng bộ về phương pháp. Nhiều GV còn lệ thuộc nhiều vào sách
hướng dẫn, khai thác bài học chưa sâu, diễn nôm, quên hẳn một điều phải lấy
học sinh làm trung tâm để tạo ra sự hứng thú trong mỗi tiết học ngữ văn cho học
sinh.Học sinh chưa thật yêu thích môn Văn, học đối phó hoặc có xu hướng chạy
theo các môn học tự nhiên nên không chuyên tâm học, khả năng cảm thụ thơ văn
còn hạn chế, sáo mòn trong cách viết, cánh học.
2.2. Thực trạng:
* Thuận lợi
Thứ nhất, môn Ngữ văn có vị trí rất quan trọng, chiếm thời gian lớn trong
chương trình học của học sinh, nó góp phần giáo dục tư tưởng và bồi dưỡng
hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Như Bác Hồ của chúng ta đã từng nói "có tài
mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó", nhà văn Nga lỗi lạc M.Go-ro-ki đã từng viết "Văn học là nhân học",
Giáo sư Hà Minh Đức từng khẳng định " Văn học không chỉ là một nguồn tri
thức mà còn là nguồn năng lượng tinh thần lớn lao, có ý nghĩa cổ vũ, tiếp sức
cho con người trong cuộc sống", tiết đọc văn giúp cho chúng ta trau dồi vốn từ
và cách sử dụng ngôn từ khéo léo hơn, có tấm lòng đồng cảm chia sẻ. Có thể nói
văn học như một quyển "Bách khoa toàn thư" về vô vàn những cung bậc cảm
xúc của con người bao gồm Hỉ - Nộ - Ái - Ố, tất cả đều sinh động và chân thực.
Thứ hai, môn Văn là môn thi bắt buộc và cần có trong các kì thi Trung học
phổ thông. Chúng ta thấy vào những năm gần đây, học sinh ở TP Thanh Hóa nói
riêng, tỉnh Thanh Hóa nói chung, đăng kí hồ sơ thi vào THPT rất nhiều. Chính vì

4



vậy, ta cũng thấy được rằng có rất nhiều học sinh ý thức được tầm quan trọng
của môn Ngữ văn.
Thứ ba, trong môi trường tôi công tác (Trường THCS Đông Thọ), các em
học sinh hầu hết là chăm, ngoan, có ý thức; các em học sinh khối 9 biết lo lắng cho
tương lai, chịu khó học. Đặc biệt nhiều em rất quan tâm đến môn Ngữ văn, một
phần giúp các em hoàn thiện tâm hồn, nhân cách, mặt khác giúp các em vượt qua kì
thi Trung học phổ thông (vào 10) sắp tới. Cho nên, bản thân tôi là một giáo viên
Ngữ văn, lại đang trực tiếp giảng dạy 02 lớp 9 của trường, nên tôi có nhiều suy
nghĩ, trăn trở: làm thế nào để các em học tốt môn Ngữ văn? Làm thế nào để các em
có hứng thú với môn học "nhiều chữ, dễ buồn ngủ" này?
* Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, thì học tập môn Ngữ văn có những khó khăn
nhất định:
Thứ nhất, tuy môn Ngữ văn là môn học có vị trí quan trọng, nhưng những
năm gần đây, số lượng học sinh giỏi ít dần, thậm chí các em có năng khiếu môn
Ngữ văn, được giáo viên giảng dạy bộ môn chọn vào đội tuyển thi học sinh giỏi
thì từ chối với lí do "đã đăng kí vào đội tuyển các môn KHTN rồi". Thêm nữa, có
nhiều bậc phụ huynh hướng cho con mình theo các khối KHTN, xem nhẹ các
môn xã hội. Chính vì tâm lý để sau này các em có thể đi vào các ngành nghề để
kiếm được việc làm và có thể kiếm được nhiều tiền. Vì vậy một số em xem nhẹ
bộ môn, không đi sâu vào học tập, nghiên cứu, hoặc học lấy lệ.
Thứ hai, mặc dù có rất nhiều giáo viên đã cố gắng trong việc đổi mới
phương pháp dạy học ( theo tinh thần chỉ đạo chung) theo hướng làm tăng tính
tích cực của người học, nhưng thực tế từ ngày thay sách giáo khoa đến nay, việc
thực hiện theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học vẫn chưa đạt kết quả cao.
Nhiều giáo viên gặp khó khăn khi chương trình sách giáo khoa mới ra đời với
yêu cầu truyền đạt khối lượng khổng lồ của tri thức nhưng số lượng thời gian
thực của học sinh ngày càng ít đi do sự chi phối bởi nhiều nhu cầu của cuộc sống
hiện đại. Với đặc thù bộ môn, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh
ảnh minh họa không nhiều.

Thứ ba, bên cạnh những học sinh say mê học Văn thì vẫn còn tồn tại học
sinh học thụ động, chỉ ngồi nghe, chép là chính, không ít giờ Văn trôi qua nặng
nề, học sinh nằm ngủ gục trên bàn hay học tập không nghiêm túc; những bài làm
văn kiểm tra nghèo ngôn từ, diễn đạt lủng củng, văn khai thác chưa sâu...
Trên đây là những thuận lợi và khó khăn đối với bộ môn Ngữ văn mà cá
nhân tôi nhận thấy. Cá nhân tôi mạnh dạn đưa ra một số kĩ năng để giáo viên tạo
động lực cho học sinh trong tiết đọc văn, giúp các em học tốt hơn, đồng thời
cũng muốn trao đổi những kinh nghiệm với đồng nghiệp.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện một số kỹ năng để giáo viên tạo
động lực cho học sinh.
5


2.3.1. Tạo ấn tượng tích cực, không khí thoải mái, phấn khởi, thân
thiện khi bước vào giờ học

6


*Tạo ấn tượng tích cực:
Trong giờ học văn giáo viên hãy say mê những gì đang dạy, đừng nói
nhiều quá và cũng đừng khăng khăng giữ ý kiến của mình. Đôi mắt mở to cùng
nụ cười lớn và sự nhiệt tình chân thành của giáo viên chắc chắn sẽ tạo nên hiệu
quả rất lớn đối với học sinh. Ngay cả khi các em không hứng thú với môn học
của mình thì chính cách cư xử của người giáo viên cũng có thể làm các em thích
thú. Bởi điều quan trọng nhất là vì sụ kiên trì thể hiện tình yêu của mình đối với
vấn đề nào đó, học sinh sẽ sớm nhận ra giáo viên là một con người chân thành.
Đặc biệt, hãy là một giáo viên đầy nhiệt huyết. Sự nhiệt huyết có khả năng lây
lan, và học sinh sẽ khó ngủ gật trong lớp nếu giáo viên là người tràn đầy nhiệt
huyết. Nên chú ý đến tác phong của người giáo viên: Học trò nào cũng thích thầy

cô ăn mặc đẹp, lịch sự, kín đáo, trẻ trung. Tôi thấy các em thường quan sát rất kĩ,
rất tỉ mỉ về cách ăn mặc của thầy cô, đặc biệt của cô giáo, cho nên giáo viên phải
chú ý trang phục khi lên lớp. Tác phong đi lại của thầy cô cũng là một hình ảnh
trực quan của học sinh. Bên cạnh đó là tác phong nói năng, biểu lộ nét mặt…
cũng rất quan trọng.
Hãy làm nhiều hơn so với những điều được mong đợi ở một giáo viên
thông thường. Tôi lấy ví dụ, trong trường hợp một học sinh không thể giải bài
tập kịp giờ,sau giờ học, giáo viên hãy hướng dẫn giải bài tập cho em và cho xem
cách làm của những học sinh khác. Biện pháp này rất hiệu quả vì nó loại bỏ được
nhiều vấn đề: nếu vấn đề nằm ở thái độ của học sinh thì giáo viên có thể bỏ đi
những những lý do bào chữa của học sinh nhưng nếu học sinh thực sự gặp khó
khăn với bài tập thì bây giờ các em đã biết cách để làm rồi.
* Tạo không khí thoải mái, phấn khởi, thân thiện khi bước vào giờ học.
Tôi nghĩ rằng, giáo viên nên để ý đến những học sinh cần được quan
tâm:Nếu một học sinh có biểu hiện chán nản hay không được khoẻ thì hãy gọi
học sinh đó ở lại sau giờ học và hỏi xem em đó có ổn không. Hãy nhìn vào mắt
các em khi hỏi nhưng đừng nhìn chằm chằm để có được câu trả lời từ phía học
sinh. Nếu một học sinh đang gặp rắc rối nhưng nhận thấy mình được giáo viên
quan tâm và chú ý thì điều này sẽ tạo động lực cho em đó học tập chăm chỉ hơn.
Nếu một học sinh nghĩ rằng giáo viên không quan tâm đến mức độ học hành
chăm chỉ hay cảm xúc của mình thì em đó cũng sẽ cố gắng ít hơn. Hãy cân nhắc
đến việc bỏ qua một số luật lệ nếu có học sinh đang thực sự gặp khó khăn.
Yêu cầu học sinh chia sẻ ý kiến của mình. Khuyến khích các cuộc thảo
luận sôi nổi trong lớp. Lúc nào cũng giảng bài thì học sinh sẽ rất dễ mất tập
trung, nếu giáo viên muốn học sinh có hứng thú và sẵn sàng học tập thì cần tạo
điều kiện cho các buổi thảo luận có giá trị diễn ra trong lớp học. Hãy trực tiếp
đặt câu hỏi cho mỗi học sinh thay vì hỏi chung cả lớp và nhớ gọi tên từng học
sinh. Thực tế là, không học sinh nào muốn bị gọi khi không biết câu trả lời, và

7



nếu biết chuyện này có thể xảy ra thì các em sẽ chuẩn bị sẵn câu trả lời khi học.
Điều này khiến học sinh cần phải tập trung vào bài học hơn.
Có khiếu hài hước,văn nghệ: đây là “phương tiện” giúp giáo viên hoà
đồng, gần gũi với học sinh hơn, vừa giúp cho giờ dạy bớt căng thẳng, tạo được
không khí lớp học thoải mái hơn.
Ví dụ tôi là một giáo viên dạy Văn, nếu có khiếu văn nghệ như: hát, ngâm
thơ, kể chuyện...là một ưu thế lớn. Bởi vì: Có nhiều bài thơ trong chương trình
THCS được phổ nhạc thành bài hát, học sinh thấy thú vị bao nhiêu khi học ca
dao mà được nghe thầy cô giáo hát quan họ, học những tác phẩm thơ ca hiện đại
được nghe cô giáo hát thành lời.
Khi có khiếu hài hước, văn nghệ giáo viên sẽ dễ dàng thu hút học sinh,
làm cho bài học trở nên sống động hơn và giúp học sinh kết nối với giáo viên tốt
hơn. Tức là giáo viên không cần giống một anh hề lúc nào cũng đùa được,chỉ cần
tạo một môi trường học vui vẻ cho học sinh, các em sẽ có động lực và thấy hứng
thú hơn khi học
Hiểu biết tinh tế, nhạy bén về đời sống xã hội: Học sinh cầu toàn ở giáo
viên, luôn nghĩ thầy cô là những người có hiểu biết sâu rộng, các em đặt niềm tin
rất lớn ở thầy cô. Nên ngoài chuyên môn, nếu giáo viên có hiểu biết sâu rộng
kiến thức ở nhưng lĩnh vực khác là rất tốt. Ví dụ: Thời trang, sinh lí nam nữ, sức
khoẻ, làm đẹp, hoặc những thông tin cập nhập về giới trẻ, vấn đề tệ nạn xã hội,
nghề nghiệp, giải trí, mạng xã hội… có cập nhật được những điều mới mẽ xung
quanh cuộc sống, phải đặt mình vào cương vị của các em thì mới “đi” đến được
những “góc khuất” của tâm hồn để khơi dạy tình yêu và đam mê ở các em.
2.3.2.Việc soạn giáo án, giảng bài trong giờ học phải linh hoạt
* Việc soạn giáo án:
Hiện nay, mục tiêu của giáo dục Việt Nam và thế giới là:“Học để biết; học
để làm; học để tự khẳng định và học để cùng chung sống”. Theo quan điểm hoạt
động: dạy học là một quá trình điều khiển hoạt động học tập của học sinh nhằm

thực hiện các mục tiêu dạy học.
Xuất phát từ nội dung bài học ta cần phát hiện những hoạt động liên hệ với
nội dung đó, rồi căn cứ vào mục tiêu bài học mà chọn ra một số hoạt động cho
học sinh thực hiện nhằm phát hiện những kiến thức mới. Các hoạt động nghiên
cứu này đều cần cho một bài soạn 1 tiết lên lớp.
Giáo viên nên chủ động ngay từ bài soạn. Một giáo viên giàu kinh
nghiệm ắt sẽ biết việc thâm nhập kỹ bài dạy trước khi lên lớp chiếm tỷ lệ thành
công tới 50% của tiết học. Nếu học sinh nghĩ rằng giáo viên không thực sự nắm
vững kiến thức, các em sẽ dễ lười biếng khi làm bài tập hơn hoặc nghĩ rằng giáo
viên sẽ không để ý nếu các em chưa đọc kĩ tài liệu. Bài soạn là kế hoạch của giáo
viên để dạy từng tiết học, nó thể hiện một cách sinh động mối liên hệ hữu cơ
giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp và điều kiện học tập.
8


Khi soạn giáo án chúng ta cần:
+ Thứ nhất: chuẩn bị tài liệu để soạn giáo án.
- Phân phối chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng, sách giáo viên và tài
liệu tham khảo.
- Điều kiện cơ sở vật chất: lớp học, phòng máy, trang thiết bị dạy học.
- Đặc điểm nội dung bài học, tiết học.
- Trình độ tiếp thu của học sinh.
- Xác định mục tiêu: kiến thức, kỹ năng, thái độ (dựa vào chuẩn của Bộ
giáo dục, đúng trọng tâm, tránh đi sai hướng, không rơi vào quá tải nội dung).
- Xác định phương pháp chủ đạo (tùy theo từng hoàn cảnh, cơ sở vật chất
của địa phương, tùy theo khả năng của học sinh, tùy vào nội dung của tiết học).
- Trình bày từng hoạt động cụ thể (các hoạt động được xây dựng dựa trên
mục tiêu của bài học, kết thúc các hoạt động là dần đi đến mục tiêu).
+ Thứ hai: Soạn giáo án theo năm bước:
• Bài cũ.

• Bài mới.
Bước 1: Khởi động (Lời vào bài)
Giáo viên có thể cho học sinh chơi các trò chơi như điền ô chữ, nối tác giả,
tác phẩm. Cách vào bài học như vậy sẽ khiến tiết học được lôi cuốn ngay từ đầu.
Bước 2: Thể hiện bài dạy
Các hoạt động, thao tác trong bài. Phải đáp ứng đầy đủ nội dung kiến thức
bài học.
Bước 3: Luyện tập
Ở bước này, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm nhóm, hoặc phiếu
học tập, hoặc đưa ra những câu hỏi hay để học sinh làm việc.
Bước 4: Vận dụng
Giáo viên có thể hỏi những câu hỏi liên quan đến nhận thức, hành động của
học sinh thông qua bài học. Hoặc có thể sưu tầm thơ, văn, viết đoạn văn ngắn…
Bước 5: Mở rộng
2.3.3. Thường xuyên kiểm tra việc học bài và soạn bài mới, chú
trọng việc hướng dẫn tự học ở nhà cho học sinh
* Kiểm tra việc học bài và soạn bài ở nhà.
Đây là một hoạt động mang tính bắt buộc thường nhật của giáo viên khi
lên lớp. Song việc kiểm tra đó như thế nào cho đạt hiệu quả và thực sự mang lại
sự hứng thú cho học sinh mới là điều quan trọng. Vì trong thực tế, có rất nhiều
học sinh lười biếng việc học bài và soạn bài nên có nhiều em thực hiện nhiệm vụ
mang tính đối phó, lấy lệ để không bị thầy cô giáo bắt phạt là được, nên có hiện
tượng các em ở nhà không làm mà chỉ lên lớp mượn vở của bạn chép vào vở
mình để cho thầy cô kiểm tra.Trước tình trạng đó, giáo viên cần phải làm gì để
vừa buộc các em phải tự học bài, soạn bài lại vừa tạo ra sự hứng thú cho các em
9


trong quá trình học bài và soạn bài ở nhà? Tôi áp dụng cách kiểm tra thường
xuyên, có thể một học sinh sẽ được kiểm tra nhiều lần, liên tục trong nhiều ngày

nếu thấy hiện tượng học sinh đó lười biếng và nếu cần thiết sẽ chấm điểm miệng.
Trong quá trình kiểm tra cần có sự đánh giá, nhận xét theo hướng khích lệ động
viên sự nổ lực cố gắng của các em.
Bên cạnh đó tôi có thêm một động tác là tác động vào tâm lý của các em.
Ví dụ: Bài soạn của học sinh A đạt được 8 điểm thì khi ghi điểm vào trong vở
soạn của học sinh đó tôi sẽ ghi thêm dấu cộng vào phía sau thành 8,5 thêm lời nhận
xét “Em có tiến bộ. Cần phát huy”, tôi sẽ nói với học sinh cả lớp rằng: bạn ấy có sự
tiến bộ nên cô khuyến khích thêm. Hoặc có những trường hợp cũng là 8 điểm
nhưng tôi lại ghi vào trong vở soạn là 8 + 1 và tôi cũng nói rằng điểm đó là điểm
khuyến khích sự chăm chỉ và sự nỗ lực của học sinh đó. Nếu trường hợp đặc biệt
không tiến bộ thì sẽ kiểm điểm nghiêm khắc.
* Hướng dẫn tự học ở nhà cho học sinh.
Theo tôi, việc hướng dẫn học sinh tự học là một hoạt động hết sức quan
trọng đối với bất kỳ bộ môn học nào, không chỉ riêng bộ môn Ngữ văn. Hoạt động
này nó quyết định rất lớn đến việc tự học, tự tìm hiểu của học sinh, giúp học sinh
phát huy được tính chủ động của mình. Mặt khác cũng giúp sự thành công của tiết
học.Thế nhưng có không ít giáo viên chưa thực sự chú ý, thậm chí còn rất sơ sài,
dặn dò những câu chung chung, lấy lệv.v… điều đó chứng tỏ rằng việc phân bố thời
gian dành cho việc củng cố và dặn dò sau bài học chưa được chú trọng.
Xác định được tầm quan trọng của hoạt động này, nên tôi đã dành một
khoảng thời gian của tiết học để hướng dẫn cách tự học cho học sinh. Tôi thường
chia hoạt động này ra làm hai bước, cụ thể:
- Bước1 (dặn dò học bài cũ): Khi kết thúc bài học, tôi dặn dò các em
về xem lại bài giảng, xem lại những nội dung trọng tâm trong bài học và tôi sẽ
nêu tên từng phần đó; hoặc nêu một số câu hỏi nhỏ và yêu cầu các em về nhà trả
lời để nhằm khắc sâu kiến thức cho các em, hoạt động này cũng có nghĩa tương
tự như củng cố lại nội dung bài học.
- Bước 2 (hướng dẫn học bài mới): Khi hướng dẫn các em học bài mới, tôi
thường cụ thể hóa của bài học đó ra. Đồng thời chú ý nhắc nhỡ các em học sinh
xem thêm phần chú giải ở cuối tác phẩm để hiểu sâu hơn, cặn kẽ hơn nội dung

của văn bản. Đây là phần thường nằm ở cuối trang sách (nếu có), nhằm giải thích
các từ khó, các từ cổ mà nhiều học sinh không hiểu nghĩa của từ đó là gì, hoặc có
những từ lại mang nghĩa của một điển cố, điển tích nào đó theo hàm ý của tác
giả...
Chẳng hạn, khi dạy bài thơ " Mùa xuân nho nhỏ" (Thanh Hải) giáo viên
yêu cầu học sinh:
? Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ ? Khi học sinh biết bài thơ sáng tác
tháng 11-1980 khi tác giả đang nằm trên giường bệnh, một tháng trước khi ông
10


qua đời, song bài thơ vẫn thể hiện tình yêu thiết tha với cuộc sống, khát vọng hòa
nhập và dâng hiến cho đời thì chắc chắn các em sẽ rất xúc động, điều đó tác
động sâu sắc đến nhận thức của các em.
? Nêu mạch cảm xúc của bài thơ ? ( Đi từ riêng đến chung, từ cái "tôi" trữ
tình đến cái "ta" hòa nhập...)
? Nêu cảm nhận của em về hình ảnh "Giọt long lanh", "Mùa xuân nho
nhỏ"
? Hình ảnh mùa xuân trong thơ Thanh Hải mang nhiều tầng ý nghĩa, hãy
chỉ rõ?
( Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, ước nguyện làm mùa xuân nho nhỏ)
? "Bài thơ có nhạc điệu trong sáng, gần với dân ca", hãy chỉ ra chất dân ca
trong tác phẩm ? (Các làn điệu dân ca xứ Huế như Nam Ai, Nam Bình...)
Rõ ràng với sự tận tình của giáo viên, sự chuẩn bị chu đáo của các em, giờ
học sẽ sôi nổi hơn, kiến thức sâu hơn, các em có ấn tượng, cảm xúc sâu sắc về
bài thơ, phát huy được năng lực tìm tòi, sáng tạo, bày tỏ quan điểm của mình.
2.3.4. Phương pháp giúp học sinh dễ học thuộc thơ, tóm tắt nội dung tác
phẩm.
Việc yêu cầu học sinh làm được điều này chính là một hoạt động không
chỉ mang tính bắt buộc mà giúp các em có thêm hứng thú trong học tập thường

ngày. Tôi thường thấy, trong những tiết kiểm tra định kỳ, nếu các em gặp những
dạng đề bài có nội dung liên quan đến một đoạn thơ, bài thơ hoặc đoạn trích văn
xuôi hoặc tác phẩm truyện thì sẽ có rất nhiều học sinh không học thuộc thơ,
không nắm được nội dung cốt truyện dẫn đến việc các em không biết gì để làm
bài. Khi giáo viên hỏi nguyên nhân vì sao thì được nghe các em trả lời một câu
rất vô tư “em không nhớ nội dung tác phẩm hoặc không thuộc đoạn thơ, bài thơ
đó”. Trong khi, để có thể phân tích, bình giảng hoặc cảm nhận về một đoạn thơ,
bài thơ, một đoạn trích văn xuôi hoặc tác phẩm truyện, trước tiên học sinh phải
đọc thuộc lòng được đoạn thơ hay bài thơ hoặc tóm tắt được nội dung cốt truyện
của đoạn trích, của tác phẩm truyện đó.
Đối với bài thơ, đoạn thơ tôi sẽ hạn định thời gian và yêu cầu đọc thuộc,
nếu trường hợp bài thơ quá dài thì tôi sẽ yêu cầu đọc những đoạn trọng tâm.
Ví dụ: Khi học đoạn trích “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận tôi tách
theo từng phần theo bố cục để cho các em dễ thuộc và cảm thấy không khó.
Đối với đoạn trích hoặc tác phẩm truyện, tôi có thể tóm tắt lại bằng cách
yêu cầu học sinh kể lại theo lời kể của mình. Đặc biệt tôi rất chú trọng việc tóm
tắt tác phẩm theo sơ đồ giúp cho các em hứng thú và dễ hiểu tác phẩm hơn.
2.3.5. Rèn luyện kĩ năng phát hiện và bình giá các dấu hiệu nghệ
thuật đặc sắc, tạo các câu hỏi tình huống nhằm khơi dậy sự sáng tạo.

11


Rèn kĩ năng phát hiện, bình giá nghĩa là rèn cho HS khả năng phát hiện
nhanh, chính xác, cảm thụ sáng tạo những dấu hiệu nghệ thuật đặc sắc, những tư
tưởng nhân văn mà nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm.
Ví dụ: + Hình ảnh ẩn dụ "Mùa xuân nho nhỏ" gợi điều gì về khát vọng
sống của Thanh Hải? (Sống đẹp, có ích, hòa nhập và cống hiến cho đời)
+ Hình ảnh "cây tre trung hiếu" trong bài "Viếng lăng Bác" của VP có ý
nghĩa gì ?

(Trung với nước, hiếu với dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng của
Bác Hồ)
Ví dụ: Vì sao trong bài thơ "Ánh trăng", Nguyễn Duy chỉ viết hoa chữ cái
đầu tiên của câu thơ đầu mỗi khổ? Bởi bài thơ là dòng hồi tưởng của nhà thơ về
những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên,
đất nước bình dị, hiền hậu. Nhà thơ miên man trôi trong dòng hoài niệm: vuibuồn, thăng -trầm, hạnh phúc-lỗi lầm, để dòng cảm xúc tự nhiên, liền mạch, nhà
thơ chọn cách viết như thế.
Ví dụ: ? Ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương có điểm gì giống và
khác nhau ?
Điểm giống: Sử dụng những hình ảnh tự nhiên, giản dị, gần gũi (con chim,
cành hoa, nốt nhạc, đóa hoa, cây tre) để thể hiện khát vọng sống đẹp, có ích, góp
phần tinh túy của mình cho đời, cho người.
Điểm khác :
+ Ước nguyện của Thanh Hải là hòa nhập và dâng hiến cho cuộc đời
chung, nhà thơ muốn là một "Mùa xuân nho nhỏ" để góp vào mùa xuân bất diệt
của dân tộc.
+ Ước nguyện của Viễn Phương muốn ở gần Bác Hồ, hóa thân vào quê
hương xứ sở của Bác, dâng lên Bác niềm tôn kính...
Khi đặt các câu hỏi tình huống khó, giáo viên cần lắng nghe ý kiến, quan
điểm của các em, trân trọng những đóng góp hay, khuyến khích sự cảm thụ dù
nhỏ ở tất cả các học sinh trong lớp, chú ý đến đối tượng học sinh. Sau đó giáo
viên cần giải thích rõ ràng cho các em hiểu vấn đề mà mình đưa ra.
Còn rất nhiều điều các em cần phải phát hiện và phân tích như ngôn ngữ,
kết cấu. Trong phạm vi thời gian của từng tiết học, dưới sự hướng dẫn của thầy
qua mỗi bài sẽ củng cố, rèn luyện thêm cho các em. Bằng hệ thống câu hỏi
hướng dẫn, bằng phương pháp gợi tìm kết hợp với các kĩ thuật dạy học tích
cực( Khăn trải bàn,Các mảnh ghép, dạy học theo sơ đồ KWL và bản đồ tư duy...)
chắc chắn các em sẽ có kĩ năng cảm thụ tốt hơn.
2.3.6. Áp dụng phương pháp dạy học liên môn và ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học môn ngữ văn.

- Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy
học. Đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích
12


cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường.
Dạy học vận dụng kiến thức liên môn và ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho
giờ học trở nên sinh động hơn, góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở
học sinh. Tạo cho học sinh một thói quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem
xét một vấn đề phải đặt chúng trong một hệ quy chiếu, từ đó mới có thể nhận
thức vấn đề một cách thấu đáo, sâu sắc.
- Trong quá trình học tập ở nhà trường, các em được học các môn khoa
học tự nhiên như: Toán, Lí, Hóa... và khoa học xã hội gồm: Văn, Sử,
Địa,GDCD...Kiến thức giữa các bộ môn trong nhóm có liên quan đến nhau.
Khi dạy bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính " của Phạm Tiến Duật :
+ Giáo viên cho học sinh xem tranh về những chiếc xe không kính, tích
hợp kiến thức môn hội họa, quân sự,để các em hình dung rõ ràng về những chiếc
xe vận tải quân sự đặc biệt, từ đó có cảm nhận sâu sắc.
+ GV cho học sinh nghe bài hát "Xe ta đi trong đêm Trường Sơn" (Tân
Huyền), tích hợp kiến thức môn âm nhạc, các em được sống trong không khí hào
hùng của dân tộc, cảm nhận được phong thái hiên ngang, tâm hồn trẻ trung của
các anh chiến sĩ lái xe thời chống Mĩ, từ đó tạo tâm thế tốt để bước vào cảm thụ
văn bản.
+ Giáo viên giảng cho học sinh về con đường Trường Sơn huyền thoại
"Trường Sơn đông nắng tây mưa. Ai chưa đến đó như chưa biết mình ", tích hợp
kiến thức môn địa lí, lịch sử về địa hình, khí hậu của con đường máu lửa, huyết
mạch giao thông Bắc- Nam, giáo viên cho học sinh xem thước phim tư liệu về
hình ảnh những thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn
trong những năm chống Mĩ. để HS hiểu về nhiệm vụ quan trọng, gian khổ của
các anh bô đội.

+ Dạy phần khó khăn mà người lính lái xe gặp (gió, bụi , mưa, bom đạn...)
và thái độ của họ (vui vẻ, lạc quan, coi thường gian khổ), giáo viên tích hợp kĩ
năng sống cho các em phải biết đối mặt và vượt lên mọi gian khổ, giải quyết
những thử thách trong cuộc sống.
+ Dạy khổ thơ cuối, đặc biệt là hình ảnh "trái tim" can trường, biểu lộ lòng
yêu nước cháy bỏng, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước,
giáo viên cần tích hợp kiến thức môn giáo dục công dân để giáo dục các em
những phẩm chất cao đẹp như yêu nước, dũng cảm, ý chí kiên cường...
+ Phần liên hệ thực tiễn, giáo viên có thể tích hợp kiến thức môn hướng
nghiệp để định hướng cho các em. Thời chiến tranh, các anh bộ đội đã chọn con
đường cho lẽ sống của đời mình, đó là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Nay, thời
bình, nhiệm vụ của các em là học tập để xây dựng đất nước giầu đẹp, các em cần
lựa chọn cho mình một mục đích sống, hướng phấn đấu, một nghề phù hợp theo
sức học và phải quyết tâm thực hiện lí tưởng, khát vọng đó.

13


Nhờ việc UDCNTT, những tiết đọc Ngữ văn sinh động hẳn, học sinh hoạt
động tích cực hơn, đem lại những hiệu quả đáng ghi nhận.
Ví dụ: Khi dạy tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn Lê Minh
Khuê, ngoài việc UDCNTT trong bài giảng, tôi còn lồng ghép cho các em xem
một số đoạn phim tư liệu về thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường
Sơn những năm kháng chiến chống Mĩ… để từ đó, học sinh sẽ thấy được cuộc
sống và sinh hoạt gian khổ, nguy hiểm của những thanh niên sung phong và bộ
đội trên tuyến đường Trường Sơn.
Hay trong tác phẩm “Bếp lửa” của Bằng Việt, tôi cho các em xem một đoạn
phim ngắn về cảnh nạn đói năm 1945, cảnh giặc Mĩ đốt làng xóm. Khi xem đoạn
phim ấy, các em sẽ hiểu thêm về sự đau thương, cuộc sống cơ cực lầm than của
nhân dân ta. Qua đó càng hiểu sâu sắc hơn về tuổi thơ của người cháu và ý chí

kiên cường của bà vẫn “vững lòng”, “đinh ninh” bình tĩnh vượt lên gian khó.
Qua đó ta thấy bà không chỉ mang vẻ đẹp truyền thống mà còn ngời sáng phẩm
chất thời đại yêu nước, căm thù giặc, bình tĩnh vững vàng trước khó khăn.
Trong phạm vi đề tài này, tôi không thể dẫn ra hết tất cả những giờ dạy
UDCNTTđã thành công, nhưng mỗi chúng ta đều đã thừa nhận việc
UDCNTT trong giờ dạy Ngữ văn mang lại những hiệu quả thiết thực, góp phần
quan trọng để tạo sự hứng thú cho học sinh.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, việc UDCNTT vào dạy
học môn Ngữ văn còn tồn tại không ít những hạn chế cần khắc phục. Nếu
UDCNTT không có sự chọn lọc cho đúng tính chất, nội dung, cách thức của từng
kiểu bài… sẽ làm mất hết cảm xúc tự nhiên, làm mất đi chất văn, chất thơ trong
từng bài dạy. Như vậy, hiệu quả sẽ không như mong muốn. Hiện nay nhiều giáo
viên đã cố gắng UDCNTTvào dạy học tuy nhiên trong quá trình giảng dạy vẫn
còn nặng về hình thức, mang nặng tính chất trình diễn với nhiều hình ảnh, hiệu
ứng rối mắt. Nhiều giờ dạy giáo viên còn ôm đồm, tham lam nhồi nhét các loại
thông tin, phim, ảnh làm mất thời gian nhưng hiệu quả giờ dạy không cao. Việc
soạn giảng với các phần mềm mất rất nhiều thời gian, một tiết dạy 45 phút có khi
phải chuẩn bị trước vài ngày thậm chí vài tuần, rồi máy hư, phần mềm bị lỗi, hay
việc lựa chọn giới thiệu một số hình ảnh minh họa không phù hợp với nội dung
bài dạy … tất cả sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến giờ dạy của giáo viên.
Rõ ràng khi áp dụng phương pháp dạy học liên môn và ứng dụng công nghệ
thông tin, các em hiểu bài sâu hơn, nhớ lâu, khơi dậy hứng thú và cảm xúc văn
chương. Nói như nhà văn Nguyễn Đình Thi là "nghệ thuật vào đốt lửa trong
lòng ta khiến ta tự bước đi trên con đường ấy".
2.3.7. Tổ chức cho các em luyện tập, trình bày cảm nhận của mình về
tác phẩm
Kết thúc quá trình dạy - học trên lớp với một giờ học văn, đặc biệt với giờ
học tác phẩm trữ tình không phải là hết mà các em cần tiếp tục “suy ngẫm",
14



“nhấm nháp”, “thưởng thức”. Sau mỗi bài học, người thầy cần ra những bài tập
rèn luyện kĩ năng cảm thụ cho học sinh để các em tự trình bày những điều mà
các em đã thu nhận được. Thông thường, phần luyện tập của mỗi tiết bài đọchiểu đều có bài tập. Thiết nghĩ không nên yêu cầu học sinh làm ngay tại lớp
những bài tập cảm thụ mà nên để cho học sinh “thấm” bài học rồi về nhà làm bài
tập viết đoạn thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình.Ví dụ:
Khi dạy xong bài thơ “Con cò” (CLV), tôi yêu cầu các em làm bài tập
cảm thụ.
Bài tập 1: (Cho những học sinh đối tượng trung bình)
Qua bài thơ, em có suy nghĩ gì về những lời hát ru?
Bài tập 2: ( cho học sinh đối tượng khá hơn ).
Suy nghĩ của em về tấm lòng người mẹ qua hai câu thơ "Con dù lớn...con"
Với cả hai bài tập, hai đối tượng sau khi đã đọc, hiểu bài thơ đều đã viết
được những đoạn văn thể hiện cảm nhận của mình về lời hát ru. (lời hát ru gắn
với tuổi thơ bên vành nôi, tiếp sức cho con, lời hát ru thanh lọc tâm hồn con
hướng tới chân - thiện - mĩ, lời hát ru thể hiện tình yêu thương sâu nặng của
người mẹ, là nguồn động lực tinh thần giúp con vươn lên ...).
Khi dạy xong bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" ( Huy Cận) tôi ra bài tập
cảm thụ.
Bài tập 1: (Cho những học sinh đối tượng trung bình)
Cảm nhận vẻ đẹp của đoạn thơ đầu "Mặt trời..... gió khơi"
Bài tập 2: (Cho học sinh đối tượng khá hơn ).
- Chọn một số câu thơ trong bài để viết một bài văn có nhan đề " Những
hình ảnh tráng lệ trong thơ Huy Cận"? Cảm nhận về ý nghĩa của những câu hát
trong bài ?
Giáo viên cần đưa ra những gợi ý cơ bản giúp các em định hướng và cảm
thụ sâu. Giáo viên cần thu bài và chấm chữa, có nhận xét cụ thể để học sinh có
hướng phát huy hoặc sửa chữa.
Tóm lại: Với việc linh hoạt sử dụng các kĩ năng trên, lợi ích quan trọng nhất
là học sinh không còn sợ, không còn chán ghét môn Văn nữa, nhất là những giờ

Văn học sử thường khô khan. Đây chính là điều kiện cần thiết để Văn chương
thực thi sứ mệnh giáo dục nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh. Thật vậy,
nếu học sinh không thích học Văn thì làm sao các em có thể lĩnh hội những bài
học về cuộc sống được ẩn chứa trong các tác phẩm văn chương?
2.4. Kết quả và bài học kinh nghiệm :
* Kết quả:
Tuy thời gian áp dụng các giải pháp trên chưa nhiều, song tôi nhận thấy
với phương pháp này, bên cạnh việc thu hút sự hứng thú học tập, phát huy tính
tích cực và tự giác của học sinh thì còn mang lại hiệu quả thiết thực trong việc
giúp các em đạt kết quả cao hơn về chất lượng chung.
15


Năm học 2018 – 2019, từ khi đăng kí đề tài“Một số kĩ năng để giáo viên
tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết học môn ngữ văn ở trường THCS Đông
Thọ”, tôi đã lập bảng theo dõi kết quả học tập môn Ngữ văn của các em.
Đầu văm học 2018 – 2019, tôi khảo sát học sinh 2 lớp 9 tôi dạy, kết quả như
sau:
STT Lớp Số lượng Yêu thích Không yêu thích
Không có ý kiến
1

9A

45

17(37,8%)

15(33,3%)


13(28,9%)

2

9C

44

18(40,9%)

15(34,1%)

11(25,0%)

Gần cuối học kì II (2018 – 2019) khi tiến hành hoàn thiện sáng kiến kinh
nghiệm, tôi đưa các em phiếu khảo sát một lần nữa, kết quả thu được như sau:
Stt Lớp
Số lượng
Yêu thích
Không yêu thích
Không có ý kiến
1

9A

45

37(82,2%)

3(6,7%)


5(11,1%)

2

9C

44

35(79,5%)

4(9,1%)

5(11,4%)

Ngoài việc lấy phiếu khảo sát của các em về môn Ngữ văn, tôi vẫn theo
dõi tình hình học tập của các em thông qua kết quả học tập thể hiện ở điểm số
như: kiểm tra miệng, điểm thực hành, kiểm tra 15 phút, bài viết. Kết quả như
sau:
*Trước khi áp dụng:
Lớp SS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%

SL
%
SL
%
SL
%
9A
45
12
27
12
27
15
33
5
11
1
2
9C
44
8
18
10
23
19
43
5
11
2
5

*Sau khi áp dụng:
Lớp SS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
45
16
36
19
42
9
20
1
2
0
0
9C

44
12
27
16
36
14
32
2
5
0
0
Tuy kết quả đạt được chưa cao nhưng đó là một thành công của đề tài. Tôi
tin rằng, trong thời gian tới, với những giải pháp này sẽ giúp các em có được sự
hứng thú hơn trong việc học bộ môn Ngữ văn và sẽ đạt kết quả chất lượng tốt
hơn. Đó cũng là dấu hiệu đáng mừng cho cá nhân tôi khi áp dụng những kĩ năng
này vào trong một tiết đọc văn trên lớp.
* Bài học kinh nghiệm:
- Tạo không khí thoải mái, vui vẻ, thân thiện khi bước vào giờ dạy.

16


- Người giáo viên phải luôn không ngừng tìm tòi, học hỏi, sáng tạo, tự học
tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ nhận thức và trình độ chuyên môn. Trên cơ sở
đó giúp học sinh của mình tiếp thu bài, hình thành kĩ năng, kĩ xảo tốt hơn.
- Tuy nhiên khi áp dụng những biện pháp nào đó thì giáo viên phải tìm hiểu
kĩ những hạn chế của học sinh mình. Người giáo viên cần ý thức được vai trò
của mình, khi lên lớp phải có tinh thần trách nhiệm cao.
- Điều quan trọng và mang tính quyết định nhất để tạo hứng thú cho học
sinh là giáo viên phải có kiến thức vững vàng, thông suốt, tránh trường hợp bị

động, lúng túng sẽ gây ra sự chán nản cho học sinh.
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. KẾT LUẬN :
Nói tóm lại, Ngữ văn là bộ môn rất quan trọng trong trương trình học nói
chung, nó có vai trò rất lớn trong dạy học tiếng mẹ đẻ, giúp học sinh nhìn nhận,
đánh giá được năng lực của bản thân, từ đó biết tự điều chỉnh, khắc phục để hoàn
thiện các kỹ năng diễn đạt, tư duy, tu dưỡng tâm hồn, hoàn thiện nhân cách
không chỉ trong Nhà trường mà còn cả ngoài xã hội. Đồng thời góp phần hình
thành cho các em ý thức trách nhiệm với bộ môn Ngữ văn. Vì vậy, mỗi thầy cô
giáo cần có những nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng
của bộ môn để có những giờ dạy hiệu quả, thiết thực, góp phần nâng cao chất
lượng bộ môn. Năng lực chuyên môn, lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm và
tâm huyết của thầy cô giáo là những yếu tố quan trọng nhất giúp tạo hứng thú
cho học sinh trong giờ học Văn.
Tôi tin rằng đề tài này rất phù hợp với điều kiện thực tế ở các lớp tôi đang
giảng dạy và học sinh trường tôi.
Đề tài này là kết quả của quá trình nghiên cứu và tìm hiểu những đặc điểm
của học sinh nơi tôi công tác cũng như nhiều ý kiến thảo luận, góp ý của các
đồng nghiệp. Nên tôi tin tưởng rằng nó sẽ rất cần thiết để cho nhiều giáo viên
giảng dạy bộ môn Ngữ văn và các bộ môn khác tham khảo, học tập.
3.2. ĐỀ XUẤT.
a. Đối với giáo viên:
+ Người giáo viên, đặc biệt giáo viên dạy môn ngữ văn phải yêu nghề,yêu
trò. Coi học trò như con của mình.
+ Người giáo viên phải khéo léo tác động vào tình cảm của các em, khơi
dậy những tình cảm có sẵn cho các em, tạo điều kiện cho các em nâng cao năng
lực, hứng thú muốn học văn và trong quá trình dạy- học, phải có kĩ năng hướng
dẫn từng bước cho học sinh.

17



b. Đối với học sinh:
+ Cần tích cực, tự giác, sáng tạo cũng như tăng cường giao lưu học hỏi
một cách khiêm tốn ở thầy cô, bạn bè.
+ Chăm chỉ viết bài, đọc và sửa chữa bài nghiêm túc.
c. Đối với nhà trường:
Thư viện nhà trường nên có thêm tranh ảnh, bổ sung các tài liệu tham
khảo, sách nâng cao cho giáo viên và học sinh.
Tham mưu với các cấp chính quyền địa phương quan tâm sát sao, hiệu
quả đến chất lượng giáo dục, đầu tư cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy
và học.
Trên đây chỉ là kinh nghiệm mang tính chất chủ quan, rất mong sự đóng
góp ý kiến, trao đổi, bổ sung của bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn !
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị.

TP Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Thái Thị Toàn

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
----------*** ---------1. Giáo trình tâm lí giáo dục.
2. Tài liệu giáo dục học.

3.Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn lớp 9
4. Sách giáo khoa,sách giáo viên và thiết kế bài giảng lớp 9
5.Các bài văn mẫu lớp 9 THCS
6. Cảm thụ Văn học, giảng dạy Văn học (Phan Trọng Luận-NXBGD1977)
7. Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo thể loại (Trần Thanh Đạm-NXBGD
HN-1976)
8.Tài liệu về phương pháp dạy học liên môn.
9. Phương pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
của Nhà xuất bản giáo dục.
10. Dạy Văn, dạy cái hay, cái đẹp (Nguyễn Duy Bình-NXBHN-1983)

19


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
--------------------------------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KĨ NĂNG ĐỂ GIÁO VIÊN TẠO HỨNG THÚ CHO
HỌC SINH TRONG CÁC TIẾT HỌC MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ĐÔNG THỌ

Người thực hiện : Thái Thị Toàn
Chức vụ
: Giáo viên tổ Khoa học Xã hội
Đơn vị công tác : Trường THCS Đông Thọ
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn


THANH HÓA, NĂM 2020
20



×