Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

tình hình giáo dục song ngữ ở gia đình hàn việt tại hàn quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.26 KB, 66 trang )

VIỆN HÀN LÂM HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LEE DONG KOAN

TÌNH HÌNH GIÁO DỤC SONG NGỮ
Ở GIA ĐÌNH HÀN-VIỆT TẠI HÀN QUỐC

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LEE DONG KOAN

TÌNH HÌNH GIÁO DỤC SONG NGỮ
Ở GIA ĐÌNH HÀN-VIỆT TẠI HÀN QUỐC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 8 22 90 20

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
GS. TS. NGUYỄN VĂN KHANG

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Ngoài phần trích dẫn đã nêu cụ thể trong từng chương, mục, các kết quả
nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn xác thực và chưa từng được công bố
bởi bất cứ tác giả nào.
Tác giả luận văn

Lee Dong Koan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT...................................................................14
1.1. Một số vấn đề về đào tạo song ngữ.........................................................20
1.2. Giới thiệu gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc hiện nay..............................24
Chương 2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO SONG NGỮ CHO CÁC GIA
ĐÌNH ĐA VĂN HÓA HÀN-VIỆT TẠI HÀN QUỐC(QUA PHỎNG
VẤN)..............................................................................................................31
2.1. Cách thức thu thập tư liệu về thực trạng đào tạo song ngữ đối với
các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt...................................................................31
2.2. Những thách thức, khó khăn của đào tạo song ngữ ở gia đình đa
văn hóa Hàn-Việt............................................................................................32
2.3. Nhũng dấu hiệu tích cực đối với đào tạo song ngữ trong tương lại ở
các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt...................................................................42
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆC ĐÀO
TẠO SONG NGỮ Ở CÁC GIA ĐÌNH ĐA VĂN HÓA TẠI HÀN QUỐC
49
3.1.Về thời gian đào tạo tiếng Việt.................................................................49
3.2. Về chương trình và nội dung đào tạo.......................................................50
3.3. Về chất lượng giáo viên...........................................................................51
3.4. Về chính sách...........................................................................................52

KẾT LUẬN.....................................................................................................55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................58


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Suốt chiều dài lịch sử phát triển hàng nghìn năm, Hàn quốc là một
quốc gia khá thuần nhất, hôn nhân thường khép kín, đặc biệt là chưa có nhiều
kinh nghiệm sống chung với các dân tộc khác. Ngày nay cùng với sự phát
triển của xã hội, sự hội nhập, giao lưu kinh tế cũng như toàn cầu hóa làm cho
số lượng người lao động nước ngoài, người nhập cư theo diện kết hôn đã làm
thay đổi cục diện bức tranh về sắc tộc của Hàn Quốc.

Bắt đầu từ sau những năm 1990, cùng với sự phát triển nhanh về kinh
tế và sự giao lưu hội nhập quốc tế, Hàn quốc đã bắt đầu đón nhận người nước
ngoài đến với cộng đồng của mình làm việc. Cùng với thời gian số lượng
người nước ngoài ở Hàn quốc ngày càng tăng, đặc biệt là phụ nữ nhập cư theo
diện kết hôn và con cái của các gia đình đa văn hóa tăng rất mạnh đồng thời
tiếp tục gia tăng hơn trong thời gian gần đây. Có thể nói, Hàn Quốc đã trở
thành một quốc gia đa văn hóa đích thực, với các thành viên xuất thân từ
nhiều nền văn hóa khác nhau. Điều này tạo nên sự phong phú và đa dạng về
văn hóa và sắc tộc. Tuy nhiên, điều này cũng đưa Hàn Quốc phải đương đầu
với rất nhiều khó khăn. Bởi một xã hội đa văn hóa thì sẽ không thể tránh khỏi
những xung đột, mâu thuẫn về văn hóa ứng xử, về ngôn ngữ, về thói quen
sinh hoạt của những cư dân cấu thành nên nó. Sẽ có nhiều vấn đề phức tạp
xuất hiện như chưa từng xảy ra trước đó trong xã hội truyền thống.

Trong bối cảnh các gia đình đa văn hóa ngày càng tăng nhanh, đường
biên giới giữa các thành viên trong gia đình đa văn hóa ngày càng bị xóa
nhòa. Hàn Quốc đang tận dụng tốt tính đa dạng này trên cả

1


nội dung và tinh thần để xây dựng một cường quốc đa văn hóa, góp phần
khẳng định thương hiệu quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế mà
chính phủ Hàn quốc đã thay đổi hàng loạt các chính sách, pháp luật nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển của xã hội hướng đến một xã hội đa văn hóa cùng sinh
sống hòa bình. Và một trong những chính sách mà chính phủ Hàn Quốc ưu
tiên phát triển trước tiên đó là chính sách phát triển ngôn ngữ cho các thành
viên trong gia đình đa văn hóa, tập trung nhất vào đối tượng là trẻ em. Bao
gồm cả tiếng Hàn quốc và tiếng mẹ đẻ, nhằm giúp họ nhanh chóng hòa nhập
được với cuộc sống ở nơi đây. Tuy nhiên, những chính sách phát triển ngôn
ngữ này của Chính phủ cũng gặp không ít khó khăn bởi rất nhiều nguyên
nhân. Và Hàn quốc cũng đang từng bước để phá vỡ những rào cản đó.

Chính sách đào tạo ngôn ngữ của Hàn Quốc cũng liên tục được điều
chỉnh cho phù hợp với tình hình có thực tế. Trong thời gian gần đây chính phủ
đã ban hành thêm một số chính sách đào tạo song ngữ dành cho các thanh
thiếu niên của các gia đình đa văn hóa có khả năng nói cả tiếng Hàn và tiếng
mẹ đẻ, chẳng hạn như tổ chức các kỳ cuộc thi song ngữ. Điều đó nhằm
khuyến khích cho thế hệ trẻ của các gia đình này tích cực học ngôn ngữ để
giúp họ được phát triển hoàn thiện hơn, khi được tương tác với cả bố và mẹ.

Theo số liệu thống kê của Bộ Hành chính nội vụ Hàn Quốc, người
nhập cư theo diện kết hôn ở Hàn Quốc người Trung Quốc chiếm tỉ lệ lớn nhất.
Với hơn 20% của tổng số các gia đình đa văn hóa. Sau đó là người nhập cư từ
Việt Nam với khoảng 16%. Ngoài ra còn có bộ phận thiểu số đến từ
Philippines, Đông Âu, Tây Âu…. Đây chính là lý
do tôi chọn đề tài “Nghiên cứu về giáo dục song ngữ của các gia đình đa văn
hóa Hàn - Việt tại Hàn Quốc”. Với mong muốn thông qua nỗ

2


lực tìm hiểu và nghiên cứu của mình để có thể lý giải được những khó khăn
cũng như rào cản của người phụ nữ Việt Nam trong quá trình học tiếng Hàn
quốc cũng như dạy con em mình tiếng mẹ đẻ. Đặc biệt là sự tham gia của
người di cư Việt Nam trong quá trình đào tạo song ngữ như thế nào. Để từ đó
chúng tôi muốn đề xuất những kiến nghị, giải pháp mới cho phù hợp với
chính sách đào tạo song ngữ của Hàn Quốc hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Nghiên cứu tại Hàn Quốc
Nghiên cứu về đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa ở Hàn
Quốc khá ít. Các nghiên cứu về thực tế đào tạo song ngữ cho trẻ em của các
gia đình đa văn hóa chủ yếu tập trung vào việc xác định các rào cản đối với
đào tạo song ngữ của trẻ em trong gia đình di dân kết hôn 1, điều này đã được
thực hiện để xác minh tính hiệu quả của sự hỗ trợ của các tổ chức quốc gia và
nâng cao nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của hỗ trợ đào tạo song
ngữ và nhấn mạnh rằng cần hỗ trợ chính sách.

Lee Chang-Deok(2010) trình bày cơ sở lý luận về hỗ trợ đào tạo song
ngữ ở Hàn Quốc, xem xét khái niệm và lịch sử của đào tạo song ngữ, gợi ý
đào tạo song ngữ bao gồm học sinh phổ thông, giáo viên song ngữ và giáo
viên đào tạo đa văn hóa. Đặc biệt, nó chỉ ra môi trường đào tạo song ngữ yếu
kém trong trường học.2

1

Hong Jong-Myeong(2012), “Nghiên cứu phân tích chiến lược học tiếng Hàn danh cho du học sinh đến
từ Việt Nam”, Ngữ văn luận tập, Tập 71, 407-432

2
Lee Chang-Deok(2010), “Đào tạo song ngữ dành cho xã hội đa văn hóa Hàn Quốc”, Hiệp hội nghiên cứu
về đào tạo đa văn hóa Hàn Quốc

3


Won In-Sook(2012)3 và Jang Myeong-Lim(2012)4 đã lưu ý tầm quan
trọng của đào tạo song ngữ ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ở chỗ đó là thời gian ngôn
ngữ được hình thành như một công cụ giao tiếp đầu tiên sau khi sinh trong
các gia đình đa văn hóa. Các chương trình đào tạo song ngữ bằng tiếng Hàn
và tiếng Việt đã được tìm thấy có tác động tích cực đến sự tự tin của người
mẹ, lòng tự trọng của trẻ sơ sinh và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Điều
này dẫn đến việc xác định tầm quan trọng của đào tạo song ngữ cho trẻ em
của các gia đình đa văn hóa.

Ngoài ra, nghiên cứu về trải nghiệm song ngữ của các gia đình đa văn
hóa trong các chương trình hỗ trợ sử dụng truyện cổ tích truyền thống đã làm
tăng sự quan tâm của con cái đối với ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ mẹ đẻ nói
tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày. 5 Nghiên cứu cho thấy rằng giao tiếp cảm
xúc với trẻ em được cung cấp và trẻ em có cơ hội học văn hóa và ngôn ngữ
của đất nước mẹ cho thấy cần có sự hỗ trợ tích cực cho việc đào tạo song ngữ
của trẻ em từ các gia đình đa văn hóa.6

Khi nói chuyện với trẻ em thông qua ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng,
những người nhập cư kết hôn có thể làm sâu sắc cuộc trò chuyện của họ và
mở rộng sự đồng cảm của họ, và thanh niên đa văn hóa học ngôn
3

Won In-Sook(2012), “Ảnh hưởng của các chương trình song ngữ của trẻ em trong các gia đình đa văn hóa

đối với lòng tự trọng và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái”Giáo dục Mầm non, Nghiên cứu về Quản trị
chăm sóc trẻ em, Tập 16, Số 1: 87-105
4
Jang Myeong-Lim, Jang Hye-Jin, Lee Se-Won(2012), “Ứng dụng thử nghiệm và giám sát các chương trình
song ngữ dành cho những cha mẹ của các gia đình và trẻ sơ sinh đa văn hóa(Bản báo cáo nghiên cứu,
02/01/2011), Seoul:, Sở nghiên cứu chính sách chăm sóc trẻ em, Viện phát triển đào tạo Hàn Quốc
5
Lee Seung-Sook, Kwak Seung-Ju(2013), “Khám phá kinh nghiệm song ngữ của trẻ sơ sinh trong các
gia đình đa văn hóa: Tập trung vào sự hỗ trợ phát triển ngôn ngữ bản địa”, tuyển tập luận văn Giáo dục
Mầm non, Tập 17(4), 249-378
6
Cho Seung-Seok, Kim Hee-Soon(2013), “Nghiên cứu về đào tạo song ngữ của trẻ em được các bà mẹ đa
văn hóa trải nghiệm”, Tạp chí của Hiệp hội công nghệ giữa Công nghiệp và Học tập Hàn Quốc, Tập 14(11),
5549~5558

4


ngữ mẹ đẻ của họ để tăng sự hiểu biết và niềm tự hào về đất nước mẹ của họ.
Nó cũng có thể thay đổi các mối quan hệ gia đình chưa được liên lạc.7

Nghiên cứu của Hwang Jin-Young(2012) đã so sánh các trường hợp
Hàn Quốc và nước ngoài trong đào tạo song ngữ và chính sách đào tạo, và
kiểm tra nhận thức chung về đào tạo đa văn hóa của những người nhập cư hôn
nhân Hàn Quốc. Theo khảo sát, những người nhập cư kết hôn đã chọn đào tạo
văn hóa song ngữ cho người Hàn Quốc cũng như đào tạo nhận thức đa văn
hóa cho người Hàn Quốc cũng như đào tạo ngôn ngữ Hàn Quốc là chính sách
đào tạo cấp bách nhất.8
Cho Young-Dal Cho (2007) nhấn mạnh sự cần thiết của giáo viên và
trường học để nâng cao nhận thức chung về đào tạo song ngữ. 9 Bộ Gia đình

và Phụ nữ Hàn Quốc phân tích hiện trạng đào tạo tại các trường học và các
trung tâm hỗ trợ gia đình đa văn hóa và đưa ra các đề xuất để cải thiện đào tạo
song ngữ.10
Các nghiên cứu và báo cáo ở trên có ý nghĩa trong đó họ kiểm tra đào
tạo song ngữ của trẻ em từ các gia đình đa văn hóa và đưa ra các câu hỏi cụ
thể dựa trên chúng. Nó cho thấy rằng sự quan tâm nghiêm túc trong đào tạo
song ngữ cho các gia đình đa văn hóa đang gia tăng.
Tuy nhiên, đối với các đề xuất chính sách, trước tiên phải hiểu rõ về
lĩnh vực thực tế hiện tại. Nhưng đó không phải là phỏng vấn bằng
7

Shin Yun-Jin(2010), “Thích ứng khó khăn và mối quan hệ ngang hàng của trẻ em từ các gia đình đa văn
hóa”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Daegu
8

Hwang Jin-Young(2012), “Nghiên cứu về đào tạo song ngữ trong xã hội đa văn hóa Hàn Quốc”, Luận văn
tiến sĩ, Đại học Jeon-Nam
9
Cho Young-Dal, Yun Hui-Cheol, Park Sang-Cheol(2007), “Nghiên cứu về tình trạng đào tạo trẻ em trong
các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc”, Nghiên cứu và thực tiễn đào tạo, Tập 71
10
Bộ Gia đình và Phụ nữ Hàn Quốc, “Nghiên cứu về kế hoạch cải thiện và thực thể của đào tạo song ngữ,”
2013

5


tiếng Hàn hay dạy song ngữ, mà là hướng hỗ trợ những gì cần thiết để học
ngôn ngữ của một bà mẹ nước ngoài để tăng cường hiệu quả của chính sách
đồng hóa ở Hàn Quốc.

2.2. Nghiên cứu tại Việt Nam
Ở Việt Nam, trước và trong thập niên 70 của thế kỷ 20, các nhà nghiên
cứu và giảng dạy ngôn ngữ học chủ yếu nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ, về
các trạng thái song ngữ các dân tộc với tiếng Việt theo
hướng xã hội học ngôn ngữ. Năm 1983, Phan Ngọc và Phạm Đức Dương cho
công bố cuốn “tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á” gồm 2 phần: 1) Lý luận đại
cương về tiếp xúc ngôn ngữ và việc tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á. 2) Ba
thời kỳ tiếp xúc của tiếng Việt: với các ngôn ngữ Đông Nam Á để hình thành
tiếng Việt; với các ngôn ngữ Hán và Ấn để hình thành ngôn ngữ quốc gia Đại
Việt; với các ngôn ngữ Pháp và châu Âu để hiện đại hóa tiếng Việt. 11 Đây là
công trình quan trọng mở đầu cho việc nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt
Nam. Từ năm 1995 trở lại đây, xuất hiện một số công trình nghiên cứu những
vấn đề song ngữ và đa ngữ ở Việt Nam với các nhà nghiên cứu có tên tuổi
trong giới ngôn ngữ học Việt Nam như Nguyễn Văn Khang 1213; về lịch sử tộc
người thông qua các hiện tượng song ngữ của Nguyễn Văn Lợi14;

11

Phạm Đức Dương, Phan Ngọc(1983), “Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á: Những vấn đề lịch sử văn hóa
Đông Nam Á”, Viện Đông Nam Á
12
Nguyễn Văn Khang(2003), “Kế hoạch hóa ngôn ngữ - Ngôn ngữ học xã hội vĩ mô”, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội
13
Nguyễn Văn Khang(2007), “Từ ngoại lai trong tiếng Việt”, Nxb Khoa học Xã họi, Ha Nội
14
Nguyễn Văn Lợi(1999), “Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Dân
tộc học”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3/1999

6



nên vấn đề song ngữ và đa ngữ ở tầm vĩ mô của Nguyễn Văn Lợi 15 và Lý
Toàn Thắng.16
Bên cạnh những công trình chủ yếu đề cập tới vấn đề lý thuyết có liên
quan nhiều tới chính sách ngôn ngữ kể trên, đã xuất hiện một số bài viết về
thực trạng song ngữ Anh-Việt, Pháp-Việt, song ngữ Hmông-Việt của một số
nhà nghiên cứu.
Cho đến nay, những nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ và trạng thái
song ngữ Anh, Pháp, Trung, Nga – Việt còn tản mạn và chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách hệ thống.
2.3. Đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt tại Hàn
Quốc.
Để cung cấp đào tạo song ngữ cho các gia đình đa văn hóa của học
sinh trường tiểu học và trường trung học, Bộ đào tạo Hàn Quốc đã phát triển
một chương trình bồi dưỡng giáo viên song ngữ ở Seoul và Gyeonggi-do và
đưa họ vào các trường tiểu học và trường trung học cho phụ nữ nhập cư có
bằng cử nhân từ năm 2009.17 Phụ nữ nhập cư đã kết hôn được chỉ định đến
trường làm người dạy song ngữ bằng cách hoàn thành các chương trình giảng
dạy, chuyên ngành và bài tập, kinh nghiệm văn hóa, song ngữ và tư vấn. 18 Hệ
thống giáo viên song ngữ đã được mở rộng trên toàn quốc kể từ năm 2013.
Giáo viên song ngữ dạy học sinh gia đình đa văn hóa trong các gia đình đa
văn hóa, đào tạo quốc tế và ngoại ngữ, cũng như học sinh song ngữ trong các
trường
15

Nguyễn Văn Lợi(2000), “Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân tọc”, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 1/2000
16
Lý Toàn Thắng, Nguyễn Văn Lợi(2001), “Về sự phát triển của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

trong thế kì 20”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2/2001
17
Jeon Ui-Hee(2009), “Một nghiên cứu về mối quan hệ giữa đào tạo dinh dưỡng ở trường mẫu giáo và
tiểu học”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Kon-Kuk
18
Lee Hyeon-Yi(2013), “Nghiên cứu và phân tích về vai trò của người dạy song ngữ”, Luận văn thạc sĩ, Viện
cao học giáo dục, Đại học Giáo dục Quốc gia Seoul

7


học.19 Chương trình đào tạo người dạy song ngữ, được Bộ Đào tạo hỗ trợ,
nhằm mục đích đào tạo ngôn ngữ và văn hóa của phụ huynh bằng cách đào
tạo các gia đình đa văn hóa như những người hướng dẫn song ngữ thông qua
một số sở đào tạo. Từ năm 2010, nó đã được mở rộng đến các trường mẫu
giáo. Khi xem xét tỷ lệ các quốc gia từ các gia đình đa văn hóa trong khu vực
tài phán, bảy ngôn ngữ đã được chọn, chủ yếu là chương trình đào tạo tiếng
Trung, tiếng Nhật, tiếng Việt và tiếng Nga. Kể từ đó, sở đào tạo thành phố
Kwang-Ju(2014)20 và sở đào tạo thành phố Seoul(2015)21 đã thúc đẩy cải
thiện hiệu quả đào tạo đa văn hóa của trường, và chuyển sang đào tạo liên văn
hóa và hoạt động thí điểm của các lớp học song ngữ. Sở đào tạo thành phố
Kwang-Ju đã xem xét các vấn đề trong chương trình giảng dạy đa văn hóa
của các trường học địa phương và chỉ ra rằng đào tạo song ngữ hầu như
không có đào tạo hệ thống do thiếu cơ sở hạ tầng đào tạo. Trong nỗ lực cải
thiện điểm này, năm 2018, bộ gia đình và phụ nữ Hàn Quốc cung cấp thông
tin về cuộc sống ở Hàn Quốc và đào tạo trẻ em, được phát triển bằng nhiều
ngôn ngữ khác nhau, trên trang web Da-nu-ri. Nó cung cấp một cơ sở dữ liệu
để khuyến khích sự tham gia và tham gia vào các lĩnh vực khác nhau của xã
hội đòi hỏi song ngữ. Thật đáng khích lệ khi thấy nhận thức ngày càng tăng
về tầm quan trọng của đào tạo song ngữ đối với con cái đa văn hóa và tăng hỗ

trợ chính sách. Tuy nhiên, nó vẫn được tìm thấy trong lĩnh vực thực tế rằng
các vấn đề khác nhau vẫn không thể được xác định bằng cách điều tra đơn
giản.

19

Kim Hyun-Ju(2011), “Nghiên cứu trường hợp cụ thể trong đào tạo của người dạy song ngữ tại trường
tiểu học”, Luận văn thạc sĩ, Viện cao học giáo dục, Đại học Giáo dục Quốc gia Seoul
20
Sở giáo dục thành phố Kwang-Ju tại Hàn Quốc, 2014
21
Sở giáo dục thành phố Seoul tại Hàn Quốc, 2015

8


Đầu tiên, điều quan trọng là phải nhận ra rằng có một thái độ hỗ trợ
phân biệt đối xử tùy thuộc vào quốc gia mà song ngữ là của quốc gia nào.
Thái độ của gia đình bên người Hàn đối với tiếng mẹ đẻ của những người
nhập cư hôn nhân nữ đã rất kỳ thị. Vợ chồng và các thành viên gia đình Hàn
Quốc ủng hộ việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của những người nhập cư từ hôn nhân
từ các quốc gia nói ngôn ngữ lớn như tiếng Anh và tiếng Nhật, nhưng không
được hỗ trợ bởi tiếng mẹ đẻ của các quốc gia nói tiếng thiểu số.

Ngoài ra, không đủ để nói rằng chương trình đang được thực hiện
trong lĩnh vực trường học có một nền đào tạo kép thích hợp. Không chỉ có rất
ít giờ hoạt động ngoại khóa, mà số lượng trường còn ít và gặp khó khăn trong
việc tiếp nhận và cung cấp giáo viên. Ví dụ, đào tạo song ngữ tại các trường
học, trung tâm hỗ trợ gia đình đa văn hóa và NGO có thể mất 1-2 tiếng một
tuần. Ở mức độ này, hiệu quả của việc học song ngữ là không đủ cho mục

đích tham gia vào đào tạo song ngữ.

Đó cũng là một tình huống mâu thuẫn trong lĩnh vực giảng dạy song
ngữ. Ví dụ, người Hàn Quốc là nhân viên hỗ trợ cho người hướng dẫn. Có
những vấn đề như giới thiệu các chuyên gia hành chính, những người thiếu
hiểu biết văn hóa đáng kể về các quốc gia khác, điều này phải được đặt ra
trước các chuyên gia đào tạo về đào tạo song ngữ. Tiếp thu một ngôn ngữ
cũng bao gồm sự hiểu biết về văn hóa, vì vậy đầu vào của các chuyên gia cho
sự hiểu biết văn hóa nên được xem xét. Tuy nhiên, rất khó để thu hút người
dạy chuyên nghiệp trên toàn quốc do ngân sách không đủ. Do đó, những gì
bạn có thể học như một người hướng dẫn chỉ là một phần thông tin về đào tạo
ngôn ngữ chung, chẳng hạn như làm thế nào để tập trung và quan tâm đến trẻ
em trong lớp hoặc
9


phân phối thời gian khoa học. Mặt khác, các tổ chức phi chính phủ, không
phải trường học, mời sinh viên nước ngoài từ nhiều quốc gia khác nhau dưới
danh nghĩa đào tạo hiểu văn hóa, và thực hiện các bài học rời rạc và đôi khi
thay thế nội dung của đào tạo song ngữ. Trẻ em trải nghiệm những cảnh mâu
thuẫn trong đó chúng phải đối mặt với các tình huống trong đó học sinh nước
ngoài không thể hiểu nội dung của lớp học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là tìm ra những khó khăn và
những rào cản mà phụ nữ nhập cư Việt Nam phải đối mặt trong việc đào tạo
song ngữ trong gia đình; tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn mà mẹ Việt
Nam gặp phải từ góc độ ngôn ngữ hay có nguyên nhân từ ngôn ngữ. Luận văn
cũng tìm hiểu về chương trình đào tạo song ngữ cho đối tượng là gia đình đa

văn hóa. Từ đó, luận văn góp phần vào vấn đề đào tạo song ngữ ở Hàn Quốc
cho các đối tượng nhập cư nói chung, người Việt Nam nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu lý thuyết đào tạo song ngữ.
- Khảo sát đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa để tìm ra những
khó khăn và thuận lợi của mẹ Việt Nam trong quá trình tham gia
đào tạo ngôn ngữ cho con em mình. Tìm hiểu những yếu tố chi phối

10


đến việc học tiếng Hàn Quốc của người của bố hoặc mẹ và dạy tiếng Việt đối
với con cái.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi
là các thành viên trong các gia đình đa văn hóa Vi ệt-Hàn tại Hàn Quốc.
Chính là phụ nữ Việt nam đã kết hôn với người Hàn Quốc tại các lớp học văn
hóa hoặc lớp tiếng Hàn ở các trung tâm đa văn hóa của Hàn Quốc, tại một số
thành phố lớn như Seoul, Kwang-Ju, Dae-Jeon, An-San và Po-Hang.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chủ yếu tiến hành phỏng vấn và khảo sát những người phụ
nữ Việt Nam nhập cư theo diện kết hôn, hiện đang sống và làm việc tại Hàn
Quốc từ 5 năm trở lên. Họ đều đã có con đang trong độ tuổi tập nói hoặc đã đi
học tiểu học.
4.3. Tư liệu nghiên cứu

Nguồn tư liệu nghiên cứu chủ yếu của luận văn được lấy trong các
cuốn sách của một số tác giả người Hàn Quốc và Việt nam. Bên cạnh đó còn
có một số bài viết, luận văn, luận án của các nhà nghiên cứu quan tâm đến
vấn đề đào tạo song ngữ nói chung và của Hàn-Việt nói riêng. Ngoài ra,
chúng tôi còn tham kh ảo các bài viết trên trang báo điện tử của Hàn quốc và
Việt Nam được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép.

11


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này chúng tôi sẽ chủ yếu áp dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp, thông qua các cuộc gặp trực tiếp với
những người phụ nữ Việt Nam đã kết hôn với người Hàn. Bên cạnh
đó còn có phỏng vấn bổ sung đã được thực hiện thông qua các tin nhắn SNS
trên mạng internet chẳng hạn như face-book, Kakao-talk và Zalo.
- Phương pháp thống kê, phân tích: Phương pháp này giúp chúng tôi có
thể tìm hiểu được những khó khăn và thách thức cũng như những thuận lợi
trong việc đào tạo song ngữ đối với gia đình đa văn hóa Việt-Hàn. Tìm ra
những yếu tố chi phối và ảnh hưởng nhiều nhất, quyết định tới việc thành
công trong việc đào tạo song ngữ trong các gia đình này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Về lí luận
Luận văn này tập trung nghiên cứu cách đào tạo song ngữ đang diễn ra
trong các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc. Và ý nghĩa của việc họ đào tạo
con cái thông qua song ngữ. Từ đó cho thấy đào tạo ngôn ngữ đóng vai trò
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các gia đình đa văn hóa nói chung.
Nó là chìa khóa mở ra thế giới mới, thế giới của hạnh phúc và thành công của
mỗi con người.

6.2.Về thực tiễn
Thông qua việc nghiên cứu cách đào tạo song ngữ đang diễn ra trong
các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc và những khó khăn đối với những người
nhập cư theo diện kết hôn phải đối mặt cũng như hiệu quả của chương trình
đào tạo. Để từ đó đề ra những giải pháp góp phần thúc
12


đẩy cho chương trình đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa được
hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
Phu lục, được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí thuyết của luận văn
Chương 2. Thực trạng đào tạo song ngữ cho các gia đình đa văn hóa
Hàn-Việt tại Hàn Quốc (Qua Phỏng Vấn)
Chương 3. Kiến nghị về định hướng và các giải pháp để nâng cao hiệu
quả đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm và một số vấn đề về song ngữ
1.1.1. Khái niệm song ngữ
Song ngữ(Bilingual) được hiểu là việc sử dụng song song hai ngôn
ngữ. Người sử dụng song ngữ tức là người có thể sử dụng hai ngôn ngữ song
song trong cuộc sống hàng ngày bao gồm: nghe, nói, đọc, viết và hơn thế nữa
là có thể cảm nhận bằng cả hai ngôn ngữ đó. Phần lớn, những người sử dụng

song ngữ thường có kiến thức ngôn ngữ và năng lực ngôn ngữ thứ nhất – hay
còn được gọi là tiếng mẹ đẻ hơn ngôn ngữ thứ hai. Tuy nhiên, cũng có phần
không nhỏ, có thể sử dụng cả hai thứ tiếng song song bằng nhau; điều này xảy
ra với những người không có tiếng mẹ đẻ(SWONAL – Speaker Without A
Native Language). Những người không có tiếng mẹ đẻ là những cá nhân bị
thay đổi ngôn ngữ liên tục khi còn bé do quá trình đi chuyển hoặc do sự kết
hôn giữa các dân tộc khác nhau tạo nên.

1.1.2. Hiện tượng song ngữ
Hiện tượng song ngữ(Bilingualism) là hiện tượng một người, một khu
vực hay một dân tộc sử dụng song song hai ngôn ngữ cùng một lúc. Như vậy,
có thể thấy rằng hiện tượng song ngữ có thể chia thành hiện tượng song ngữ
cá thể và hiện tượng song ngữ xã hội.
Hiện tượng song ngữ và chế độ song ngữ là hai khái niệm hoàn toàn
khác nhau. Hiện tượng song ngữ là hiện tượng cộng đồng ngôn ngữ hoặc một
bộ phận thành viên cùng sử dụng hai ngôn ngữ, còn chế độ song ngữ là quy
định về việc sử dụng ngôn ngữ; nói cách khác, chế
14


độ song ngữ chính là chính sách về đào tạo song ngữ tại một khu vực, lãnh
thổ hay quốc gia.
Hiện tượng song ngữ xuất hiện do các lý do khác nhau như: vấn đề
đào tạo song ngữ, sự cộng cư giữa các dân tộc, mối quan hệ giữa các ngôn
ngữ về loại hình, cội nguồn,... Như vậy, hiện tượng song ngữ là hệ quả tất yếu
dưới tác động của hàng loạt các nhân tố kể trên. Trong đó nổi lên một số
nguyên nhân chính như:
Nguyên nhân đầu tiên kể đến là sự cộng cư của những người nói các
ngôn ngữ khác nhau. Những người dùng ngôn ngữ khác nhau nhưng lại cùng
chung sống với nhau trên cùng một lãnh thổ. Hiện tượng cộng cư do nhiều lý

do nhưng lý do quan trọng nhất là xuất phát từ tình trạng di dân từ vùng lãnh
thổ này sang vùng lãnh thổ khác. Lịch sử cho thấy, hiện tượng di dân do
nguyên nhân về kinh tế, chiến tranh hay chính trị. Chẳng hạn, trong suốt thế
kỷ XX đều có sự di dân của người Việt ra nước ngoài, tại nước ngoài dù
muốn hay không người Việt cũng sống trong môi trường song ngữ tiếng Việttiếng của nước sở tại.
Việt Nam có đến 54 dân tộc thiểu số cùng chung sống với nhau, không
biệt lập mà xen kẽ trải dài từ Bắc đến Nam. Theo số liệu điều tra năm 2009, ở
các tỉnh miền núi phía Bắc có tới 20 trong số 107 các huyện có từ 10 dân tộc
trở lên cùng sinh sống. Đa số các xã có từ 3 - 4 dân tộc cùng cư trú. Số xã có
duy nhất một dân tộc cư trú chỉ chiếm khoảng 2,7%. Chính đặc điểm này đã
khiến cho trạng thái song ngữ ở Việt Nam trở nên rất đa dạng.

Nguyên nhân thứ hai chính là sự thay đổi về chính trị trong các quốc
gia đa dân tộc cũng tạo nên trạng thái song ngữ. Ví dụ: Liên Xô (cũ) trước
đây là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, tiếng Nga được
15


coi là ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc. Tại các nước Cộng hòa, bên
cạnh tiếng Nga là ngôn ngữ quốc gia, các ngôn ngữ dân tộc vẫn được sử dụng
trong giao tiếp. Chính sách này đã tạo nên một trạng thái song ngữ bằng sự
phân bố chức năng giữa tiếng Nga và tiếng dân tộc khá đa dạng. Tuy nhiên từ
tháng 8/1991, sau khi Liên Xô bị tan rã, tình hình song ngữ đã phát triển theo
chiều hướng rất phức tạp do các nước Cộng hòa vùng Ban Tích tách ra thành
quốc gia độc lập và theo đó, vị thế của các ngôn ngữ vốn là ngôn ngữ dân tộc
thiểu số đã thay đổi, lại “trở thành ngôn ngữ quốc gia độc lập”, còn tiếng Nga
trở thành ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở các nước Cộng hòa này.

Nguyên nhân thứ ba chính là do chính sách song ngữ trong các cộng
đồng dân tộc. Như đã biết, đào tạo song ngữ là để tạo nên trạng thái song ngữ

cá nhân. Tuy nhiên, một số cá nhân không thể nào làm nên xã hội song ngữ.
Chính vì thế, đào tạo song ngữ cộng đồng đang đẩy nhanh để tạo ra sự phát
triển song ngữ xã hội. Hiện tượng này có thể nhận thấy ở chính sách đào tạo
ngoại ngữ của một số quốc gia.22 Ví dụ, việc dạy tiếng Anh, Nga, Pháp,
Hán,... trong các trường phổ thông và đại học ở Việt Nam đã tạo nên một
trạng thái song ngữ tiếng Việt - tiếng nước ngoài. Hiện tượng song ngữ xã hội
nhờ đào tạo có thể thấy rõ ở các vùng dân tộc thiểu số. Do nhu cầu giao tiếp
và nhu cầu của cuộc sống, người dân tộc thiểu số đều có quyền lợi và nghĩa
vụ học ngôn ngữ giao tiếp chung - tiếng Việt. Vì thế, hiện tượng song ngữ
tiếng Việt - tiếng dân tộc thiểu số xuất hiện

22

Hoàng Quốc (2015), “Đào tạo ngôn ngữ trong trường phổ thông vùng dân tộc Khmer (An Giang)”, Tạp
chí Ngôn ngữ, số 5. tr. 29

16


1.1.3. Một số vấn đề về song ngữ
Khi nói về song ngữ, người ta chỉ tập trung vào các cá nhân song ngữ
với mục đích là làm sao để một người nào đó có thể học và sử dụng một ngôn
ngữ khác ngoài tiếng mẹ đẻ. Về sau, dưới sự phát triển của khoa học ngôn
ngữ, sự ra đời của chuyên ngành ngôn ngữ học xã hội, khái niệm song ngữ
được mở rộng và đặt ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất, thuật ngữ đa ngữ (multilingualism) xuất hiện khi xu hướng
người biết không chỉ hai ngôn ngữ ngày càng tăng. Dù vậy, theo thói quen,
người ta sử dụng thuật ngữ song ngữ hoặc thuật ngữ đa ngữ cho cùng hiện
tượng vừa nêu. Như vậy, sử dụng song ngữ cũng chính là sử dụng đa ngữ
(chứ không phải theo nghĩa đen “song” là “hai”) và khi sử dụng đa ngữ cũng

chính là song ngữ (bilingualism).
Thứ hai, song ngữ không chỉ tồn tại riêng lẻ ở một cá nhân. Chính vì
thế, khi nói đến song ngữ là nhằm đến song ngữ trong một cộng đồng. Ở đó,
các cá nhân song ngữ sử dụng những ngôn ngữ mà họ biết để trao đổi thông
tin, giao tiếp với nhau, các ngôn ngữ trong cộng đồng có thể tương tác với
nhau, tạo nên hiện tượng song ngữ xã hội. Bởi thế, song ngữ xã hội có thể
hiểu “là hiện tượng sử dụng hai hay trên hai ngôn ngữ của người song ngữ
trong xã hội song ngữ”23 Tức là hai hay trên hai ngôn ngữ cùng hành chức
trong một cộng đồng người. Cộng đồng song ngữ có thể là một nhóm người,
một quốc gia, một khu vực hoặc thậm chí là cả thế giới.

Thứ ba, yếu tố quan trọng nhất liên quan đến song ngữ xã hội là nhất
định phải có người song ngữ. Có thể hiểu người song ngữ là người có khả
năng sử dụng luân phiên hai hoặc trên hai ngôn ngữ, “là nắm
23

Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
tr.38

17


một cách có hiệu quả hai hoặc trên hai ngôn ngữ”24 Theo Fishman,J.A (1996),
song ngữ là phản ánh sự biết cách nói năng trong giao tiếp nhờ vào phương
tiện của hơn một ngôn ngữ. Như vậy, thế nào là “biết” - năng lực song ngữ
của người song ngữ? Hiện tại, có hai quan niệm như sau:

Nếu năng lực sử dụng ngôn ngữ của người song ngữ thành thạo đến
mức họ có thể sử dụng hai ngôn ngữ thuần thục như nhau, nghĩa là họ có thể
tư duy mà không cần phải qua khâu phiên dịch, kiểu người song ngữ này gọi

là người song ngữ hoàn toàn hay người song ngữ đầy đủ. Tuy nhiên, trên thực
tế, những người thuộc loại song ngữ hoàn toàn rất hiếm bởi việc nắm vững
hoàn toàn hai ngôn ngữ như nhau là rất ít gặp. Kể cả người đơn ngữ (ngôn
ngữ thứ nhất đồng thời là tiếng mẹ đẻ) cũng chưa chắc nắm vững hoàn hảo
toàn bộ vốn từ với mọi phong cách giao tiếp. Theo Gai Xingzhi (1997), chỉ có
những trẻ em sinh ra ở môi trường song ngữ thì mới có hi vọng là người song
ngữ hoàn toàn. Vì vậy, có thể coi đây là song ngữ lí tưởng và những song ngữ
thuộc loại này là song ngữ lí tưởng.

Ngoài kiểu người song ngữ hoàn toàn thì bên cạnh đó còn có kiểu
người song ngữ không hoàn toàn hay người song ngữ bộ phận. Họ là những
người ngoài biết tiếng mẹ đẻ có thể biết thêm ngôn ngữ khác ở mức độ đủ để
trao đổi với một lĩnh vực nào đó mà họ quan tâm. Ví dụ, người nghiên cứu
ngôn ngữ có thể sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp xung quanh nội dung chuyên
môn về ngôn ngữ mà họ nghiên cứu. Đây là kiểu song ngữ phổ biến ở các
quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ trên thế

24

Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
tr.24

18


giới. Với cách hiểu này, việc nghiên cứu song ngữ cũng như những vấn đề
liên quan đến song ngữ được mở rộng hơn, đặt ra nhiều vấn đề hơn.
Thứ tư, khi nói đến hiện tượng song ngữ, là nói đến một ngôn ngữ gọi
là “ngôn ngữ thứ nhất” và nói đến ngôn ngữ thứ nhất, người ta sẽ nghĩ ngay
đó là tiếng mẹ đẻ (mother tongue). Vậy, thế nào là tiếng mẹ đẻ? Hiểu đơn

giản, tiếng mẹ đẻ là thứ tiếng của cha mẹ mình, của dân tộc mình. Tuy nhiên,
trên thực tế lại không đơn giản như vậy. Ví dụ, một đôi vợ chồng người Việt
sinh con ở Trung Quốc và đứa trẻ đó ngay từ khi sinh đã học nói tiếng Trung
Quốc, lớn lên chỉ biết sử dụng tiếng Trung Quốc để giao tiếp mà không hề
biết tiếng Việt thì tiếng mẹ đẻ của nó là tiếng Việt hay tiếng Trung Quốc? Một
ví dụ khác, một người đàn ông Trung Quốc kết hôn với người phụ nữ là người
dân tộc Khmer ở Việt Nam và đứa trẻ sinh ra chỉ biết nói tiếng Việt (không
biết nói tiếng mẹ đẻ của cha mẹ là tiếng Trung Quốc và tiếng Khmer). Sau đó,
cả gia đình chuyển sang sống ở Anh và dần quên hẳn tiếng Việt. Vậy, tiếng
mẹ đẻ của đứa trẻ này là tiếng Trung Quốc, tiếng Khmer, tiếng Việt hay tiếng
Anh? Các ví dụ trên cho ta thấy tính phức tạp của khái niệm tiếng mẹ đẻ.
Chính vì thế, hiện nay có những quan niệm khác nhau về tiếng mẹ đẻ.

- “Tiếng mẹ đẻ” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng thì bất kì thứ tiếng nào mà không có truyền thống chữ
viết thì đều được coi máy móc là phương ngữ của một ngôn ngữ địa phương
và đứa trẻ nói thứ ngôn ngữ địa phương nhóm nhỏ chă có chữ viết đó lập tức
sẽ được coi là tiếng mẹ đẻ của nó (cho dù đứa trẻ ấy không biết nhiều lắm về
ngôn ngữ này).

19


Theo nghĩa hẹp, tiếng mẹ đẻ là tiếng nói dùng chung trong gia đình
(bất kỳ trình độ phát triển của thứ tiếng nói ấy như thế nào). Đây là cách nhìn
nhận tiếng mẹ đẻ từ tình hình ngôn ngữ ở Ấn Độ - một quốc gia có tới 200
ngôn ngữ được xếp loại (còn thực tế có khoảng 1.652 ngôn ngữ và phương
ngữ). Ấn Độ là quốc gia có lập trường đa nguyên về đào tạo song ngữ, vì thế
cần phải có một khái niệm mang tính tác nghiệp về tiếng mẹ đẻ.


1.2. Khái niệm và một số vấn đề về đào tạo song ngữ
Song ngữ là một hiện tượng của hai hay nhiều hơn hai ngôn ngữ
ở một người hay một tập thể người sinh sống trên một địa bàn có đặc điểm
riêng về mặt xã hội văn hóa.25
1.2.1. Khái niệm về đào tạo song ngữ
Thuật ngữ đào tạo song ngữ bắt đầu xuất hiện vào những năm 60 của
thế kỷ 20 như một phương pháp đào tạo cho các sinh viên không phải là
người bản ngữ và được sử dụng như một ngôn ngữ thứ hai bên cạnh tiếng mẹ
đẻ. Ở Việt Nam, Nguyễn Quốc Hùng trong chia sẻ về dạy và học tiếng Anh
cũng nêu rõ quan điểm về đào tạo song ngữ: “Nhiều trường học dạy tất cả các
môn bằng tiếng Việt và thêm vài môn tiếng Anh và họ gọi đó là song ngữ.
Như thế là không đúng. Song ngữ nghĩa là tiếng Anh và tiếng Việt phải bổ trợ
cho nhau phát triển về mặt ngôn ngữ. Một số môn dạy bằng tiếng Anh, một số
dạy bằng tiếng Việt, và một số bằng cả hai thứ tiếng”. Nếu theo như quan
điểm của Nguyễn Quốc Hùng, việc đào tạo song ngữ không chỉ là tập trung
vào ngôn ngữ thứ hai mà đồng thời vẫn phải trau dồi tiếng mẹ để để hai thứ
tiếng này bổ trợ cho nhau.

25

Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.12

20


Chuyên gia đào tạo song ngữ người Canada W.F. Mackey và M.
Siguan người Tây Ban Nha đã đưa ra định nghĩa về đào tạo song ngữ như sau:
“Đào tạo song ngữ là chỉ hệ thống đào tạo lấy hai ngôn ngữ làm phương tiện
giảng dạy, trong đó một ngôn ngữ thứ nhất của học sinh”26, đồng thời cũng

đưa ra các phạm vi giới hạn cho định nghĩa này
- Nếu chỉ sử dụng một ngôn ngữ mà ngôn ngữ này không phải là ngôn
ngữ thứ nhất của học sinh, điều này không thể coi là đào tạo song ngữ.

- Hệ thống trường học không được chính nhà nước tại quốc gia
đó coi là hệ thống song ngữ, nhưng trên thực tế học sinh phải tiếp nhận song
ngữ để trờ thành người thạo ngoại ngữ thì vẫn được công nhận là hệ thống
đào tạo song ngữ.
- Trong giáo trình đào tạo của hệ thống đào tạo song ngữ, có cả
chương trình giảng dạy ngôn ngữ khác thì cũng không thể coi là đào tạo song
ngữ.
Xã hội không ngừng phát triển, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng,
người song ngữ, hiện tượng song ngữ xuất hiện ngày càng nhiều. Đây chính
là xu thế tất yếu của xã hội trong quá trình hội nhập và phát triển và là vấn đề
được đặt ra đối với mọi quốc gia khi đưa ra các chính sách ngôn ngữ để đảm
bảo sự hài hòa xã hội và bắt kịp với thời đại mới.

1.2.2. Một số vấn đề về đào tạo song ngữ
1.2.2.1. Các mô hình đào tạo song ngữ

26

W.F. Mackey và M. Siguan, “Đại cương về đào tạo song ngữ”, Tây Ban Nha – Canada tr.3.

21


×