Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết một nỗi đau riêng của kenzaburo oe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.24 KB, 70 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN MỸ NGÂN

HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG
TIỂU THUYẾT MỘT NỖI ĐAU RIÊNG
CỦA KENZABURO OE
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

HÀ NỘI – 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN MỸ NGÂN

HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG
TIỂU THUYẾT MỘT NỖI ĐAU RIÊNG
CỦA KENZABURO OE

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học


TS. NGUYỄN THỊ BÍCH DUNG

HÀ NỘI – 2018


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị
Bích Dung, ngƣời đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt thời gian
nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn cùng
các thầy cô của trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã luôn nhiệt tình giảng
dạy, truyền thụ kiến thức cùng những kinh nghiệm sống quý báu trong suốt
quá trình học tập tại trƣờng. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong
thƣ viện nhà trƣờng đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho em trong quá trình tìm
tòi và nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình và những
ngƣời bạn đã luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ và quan tâm em trong suốt
thời gian vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Mỹ Ngân


LỜI CAM ĐOAN
Những nội dung trong khóa luận này là do tôi thực hiện dƣới sự hƣớng
dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Thị Bích Dung.
Mọi tham khảo dùng trong khóa luận đều đƣợc trích dẫn rõ ràng tên tác
giả, tên công trình, thời gian, địa điểm công bố.

Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo hay gian trá, tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2018
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Mỹ Ngân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi khảo sát ...................................................... 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
6. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
Chƣơng 1. ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG MỘT NỖI
ĐAU RIÊNG ...................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm nhân vật và hình tƣợng nhân vật .............................................. 6
1.1.1. Khái niệm nhân vật ................................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm hình tƣợng nhân vật ............................................................... 7
1.2. Kenzaburo Oe và con đƣờng sáng tác văn chƣơng .................................... 8
1.3. Hình tƣợng nhân vật trong Một nỗi đau riêng và nỗi ám ảnh bom
nguyên tử ......................................................................................................... 13
1.3.1. Ngoại diện bất thƣờng – quá trình tiến hóa ngƣợc của các nhân vật .... 13
1.3.1.1. Ngoại diện nửa ngƣời nửa vật ............................................................ 13
1.3.1.2. Ngoại diện già nua, khô héo thiếu sức sống ...................................... 16
1.3.1.3. Ngoại diện biến dạng, kì quái của những đứa trẻ .............................. 17
1.3.2. Những con ngƣời cô đơn, sợ hãi và bất an ........................................... 19

1.3.2.1. Định mệnh cô đơn .............................................................................. 19
1.3.2.2. Nỗi sợ hãi, bất an bủa vây .................................................................. 24
1.3.3. Khát vọng tự do và trái tim lƣơng thiện ................................................ 29
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1.................................................................................. 37


Chƣơng 2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT
TRONG MỘT NỖI ĐAU RIÊNG.................................................................... 38
2.1. Tính tự thuật, sự luân chuyển điểm nhìn, đan cài ngôi kể, lột tả bi kịch
nhân sinh ......................................................................................................... 38
2.2. Thời gian dồn nén và đầy kịch tính .......................................................... 42
2.3. Không gian bức bối, ngập bóng tối, âm u và ghê rợn .............................. 45
2.3.1. Không gian bức bối, chật hẹp đóng kín nhƣ “chiếc hộp” ..................... 45
2.3.2. Không gian ngập tràn bóng tối, âm u .................................................... 49
2.3.3. Không gian ghê rợn bởi sự tàn bạo và ám ảnh xác ngƣời .................... 50
2.4. Thủ pháp nghịch dị khắc họa sự tha hóa của hình tƣợng nhân vật .......... 54
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.................................................................................. 59
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu nền văn học của các nƣớc khác là một
việc làm vô cùng thiết thực, ý nghĩa. Một mặt, có thể gắn kết hơn nữa tình
giao hữu với các nƣớc bạn thông qua những hiểu biết về lịch sử, kinh tế, văn
hóa, xã hội, con ngƣời…đƣợc thể hiện trong văn học. Mặt khác, đây là dịp để
mở rộng vốn hiểu biết, học hỏi, tiếp thu thêm những kinh nghiệm, những cái
mới, cái hay của các nền văn học khác nhau tạo tiền đề cho việc giữ gìn bản
sắc và thúc đẩy sự phát triển của văn học nƣớc nhà vƣơn tầm thế giới, bắt kịp

với thế giới.
Nói đến văn chƣơng thế giới, không thể bỏ qua văn học Nhật Bản với
những tác giả, tác phẩm xuất sắc mà kết tinh là Yasunary Kawabata (đoạt giải
Nobel Văn học năm 1968), Kenzaburo Oe (đoạt giải Nobel Văn học năm
1994) và những tác phẩm của họ. Nếu Kawabata là ngƣời lữ khách đi tìm cái
Đẹp thì Oe khẳng định bản thân “là một người sống trong cái thế giới vốn có
như hiện nay và lưu giữ những kí ức cay đắng không phai mờ về thời quá
khứ, tôi không thể noi theo Kawabata từng nói về mình như về một người sinh
ra bởi vẻ đẹp của Nhật Bản” [13,174]. Ông cũng khẳng định: “Tôi bao giờ
cũng khước từ những cảm xúc trực tiếp của chính mình và đặt chúng trong
mối tương quan với xã hội, với đất nước, với thế giới” [11,168]. Ông luôn dấn
thân vào đời sống xã hội để truy tìm bản chất của loài ngƣời trong một cuộc
tự vấn dai dẳng về bản thể. Sự xuất hiện của Kenzaburo Oe đã khiến dòng
chảy hiện đại của nền văn xuôi Nhật Bản trở nên mạnh mẽ hơn, tân kì hơn.
Các sáng tác của Oe rất phong phú bao gồm cả truyện ngắn, tiểu thuyết
cùng tiểu luận về các đề tài chính trị, xã hội, văn chƣơng. Có thể kể đến một
vài tác phẩm nhƣ: Nuôi thù (1957), Những nụ héo chồi độc, những đứa trẻ
bạo tàn (1958), Một nỗi đau riêng (1964), Tiếng gào câm lặng (1967), Trò

1


chơi của những người cùng thời (1979), Thức dậy, con người hiện đại (1983),
Cây xanh rực lửa (1995)… Và tiểu thuyết thực sự là cánh đồng đƣợc tác giả
vun trồng, phát triển mạnh mẽ. Điều đó đƣợc khẳng định bằng những giải
thƣởng cao quý của Nhật Bản và giải Nobel.
Xuyên suốt trong nhiều tác phẩm, ta thấy Oe thƣờng đi sâu khai thác
mối quan hệ giữa ngƣời cha và đứa con dị tật từ đó khái quát những vấn đề cá
nhân, gia đình thành những vấn đề xã hội mang tầm vóc nhân loại. Đánh dấu
cho thành công của ông về chủ đề cha – con và nƣớc Nhật chính là tiểu thuyết

Một nỗi đau riêng đƣợc sáng tác năm 1964. Đây đƣợc cho là một trong những
tiểu thuyết hay nhất, đƣa ông lên vị trí cao nhất trên văn đàn Nhật những năm
hậu chiến.
Trong Một nỗi đau riêng, từ đầu đến gần cuối tác phẩm, ngƣời đọc
nhận thấy sự u ám xuyên suốt, nhịp sống uể oải, bóng dáng những ý định xấu
xa nhƣng tác giả đã không khiến ngƣời đọc thất vọng khi để lại một ánh sáng
đẹp đẽ ở cuối tác phẩm qua quyết định lấy lại sự sống cho đứa con dị tật của
nhân vật ngƣời cha. Diễn biến này hoàn toàn nhất quán với những gì ông từng
viết: “Văn học cần phải phát hiện ra mặt sáng sủa từ phía u ám của nhân
loại, đem lại sức mạnh cho con người…văn học cho dù viết ra bao điều u ám
của nhân loại, vừa viết về những âm thanh dòng sông đang cuốn trôi trong
đêm khuya đáng sợ, vừa phải ngẫm nghĩ sao cho đến trang cuối cùng kết cục
hiện ra trước mắt nhân loại phải là niềm hoan lạc lớn lao” [18,396]. Cùng
với tƣ tƣởng sâu sắc đó, để làm nên một sinh mệnh sống mạnh mẽ cho tác
phẩm của mình, Oe luôn tâm niệm tạo ra sợi dây liên kết chặt chẽ giữa cá
nhân, gia đình, xã hội và thế giới xung quanh.
Một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tƣ
tƣởng, thông điệp, ý nghĩa khái quát mang tầm vóc nhân loại, thời đại là hình
tƣợng nhân vật. Vì vậy, việc tìm hiểu Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết

2


Một nỗi đau riêng của Kenzaburo Oe là một việc làm ý nghĩa, thiết thực, giúp
ta hiểu sâu sắc tác phẩm cũng có nghĩa là hiểu biết thêm về văn hóa – xã hội,
con ngƣời Nhật Bản và tiếp thu chọn lọc những tinh hoa để làm giàu cho nền
văn học nƣớc nhà.
2. Lịch sử vấn đề
Cuộc đời của Kenzaburo Oe, sự nghiệp văn học và các tác phẩm của
ông đƣợc nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm, khai thác. Do giới hạn

về thời gian và trình độ nên khóa luận chỉ đề cập đến các công trình, bài viết
nghiên cứu, dịch thuật ở Việt Nam.
Nghiên cứu về tác giả Oe, trong cuốn Vấn đề quỷ ma và những chuyện
thực khác, bài viết với tựa đề Cha và con (A father and his son) của ký giả
ngƣời Mỹ - David Remnick, đƣợc chuyển ngữ bởi nhà phê bình Nguyễn Quốc
Trụ, đã đề cập đến mối quan hệ cha – con Oe. Đồng thời, bài viết đề cập mối
quan hệ của Oe với ngƣời bạn Mishima đã tự sát của mình và cho thấy ảnh
hƣởng của nó đối với suy nghĩ cũng nhƣ sáng tác của Oe.
Về sáng tác, Kenzaburo Oe tự lí giải về mình qua Giải mã mô hình của
tôi về thế giới (Những bậc thầy văn chương) của NXB Văn học, Hà Nội. Oe
viết: “trong việc giải mã cái mô hình nghệ thuật do một ai đó tạo ra, giữa ý
thức, nhãn quan của người khác được biểu hiện trong mô hình ấy, và giữa ý
thức, nhãn quan của bản thân mình thế nào cũng nảy sinh một liên hệ căng
thẳng, năng động” [14,328].
Trong cuốn Phê bình văn học Trung Quốc đương đại của NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, tác giả Trần Minh Sơn có bài nghiên cứu Văn học cần
phải hướng tới ánh sáng (Đối thoại văn chương giữa Mạc Ngôn và
Kenzaburo Oe). Bài viết khai thác những điểm tƣơng đồng, kế thừa trong tƣ
tƣởng hƣớng văn học đến ánh sáng của hai nhà văn lớn.

3


Trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 2, năm 2007, tác giả Ôn Thị Mỹ
Linh có bài viết Quan niệm về sáng tạo nghệ thuật của Oe Kenzaburo. Bài
nghiên cứu cho thấy quan niệm dấn thân, sáng tạo trong nghệ thuật, quan
niệm nghệ thuật phải hàn gắn những nỗi đau và quan niệm nghệ thuật cần
hƣớng đến ánh sáng cho dù cuộc sống xung quanh có u tối đến đâu.
Nghiên cứu về Một nỗi đau riêng phải kể đến bài nghiên cứu của TS.
Đào Thị Thu Hằng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4, năm 2007 có tiêu

đề Oe Kenzaburo và nỗi đau nhân loại trong Một nỗi đau riêng. Bài viết phân
tích thời gian mang tính kịch, nghệ thuật kể chuyện và vấn đề thời đại, vấn đề
cá nhân thể hiện trong tiểu thuyết Một nỗi đau riêng.
Tiểu thuyết này còn nhận sự quan tâm đặc biệt của tác giả Ôn Thị Mỹ
Linh với nhiều bài viết đi sâu khai thác yếu tố nghệ thuật cùng đăng trên Tạp
chí Nghiên cứu văn học nhƣ: Cảm quan về không gian trong tiểu thuyết Một
nỗi đau riêng của Oe Kenzaburo (số 1, 2008), Nghịch dị trong nghệ thuật
khắc họa chân dung nhân vật của Oe Kenzaburo (qua tiểu thuyết Một nỗi đau
riêng) (số 3, 2008), Trạng thái hiện sinh của con người trong tiểu thuyết Một
nỗi đau riêng (số 8, 2008).
Ngoài ra, TS. Trần Thị Thục có bài nghiên cứu Ảnh hưởng của triết
học hiện sinh trong tác phẩm Một nỗi đau riêng của Oe Kenzaburo, đăng trên
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 396, năm 2017. Bài viết đề cập đến vấn đề tha
hóa và nỗi sợ hãi của con ngƣời, biểu hiện sự ảnh hƣởng của triết học hiện
sinh trong tác phẩm.
Nhìn chung, các bài viết ít nhiều đã đề cập đến nhân vật trong sáng tác
của Oe, các khía cạnh thuộc về nhân vật song chƣa có công trình mang tính
tổng hợp, khai thác sâu và toàn diện vấn đề hình tƣợng nhân vật trong Một nỗi
đau riêng và gắn nó với cuộc đời tác giả. Trong khóa luận này, ngƣời viết
muốn hoàn thiện đầy đủ hơn, kĩ lƣỡng hơn vấn đề Hình tượng nhân vật trong

4


Một nỗi đau riêng. Mỗi nhân vật trong tác phẩm đều chứa đựng những ý
nghĩa riêng gắn với những vấn đề thời đại nên cần khai thác sâu và đa diện
hơn nữa.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích khám phá hình tƣợng nhân vật trong Một nỗi đau
riêng của Kenzaburo Oe, hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa tác phẩm trên nhiều

phƣơng diện, thấy đƣợc tài năng của nhà văn và những đóng góp lớn lao của
ông cho văn học Nhật Bản nói riêng và cho văn học thế giới nói chung.
4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình tƣợng nhân vật trong tiểu thuyết Một nỗi đau riêng của K.Oe
4.2. Phạm vi khảo sát
Tiểu thuyết Một nỗi đau riêng của Kenzaburo Oe do Lê Ký Thƣơng
dịch, NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1997.
Tuy nhiên, để phục vụ cho việc phân tích, đối chiếu so sánh, ngƣời viết có thể
mở rộng sang một số tác phẩm khác có liên quan.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng một số phƣơng pháp cơ bản sau:
- Phƣơng pháp khảo sát tác phẩm
- Phƣơng pháp phân tích – so sánh
- Phƣơng pháp tổng hợp
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung khóa luận gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Đặc điểm hình tƣợng nhân vật trong Một nỗi đau riêng
Chƣơng 2: Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật trong Một nỗi đau riêng

5


NỘI DUNG
Chƣơng 1. ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG
MỘT NỖI ĐAU RIÊNG
1.1. Khái niệm nhân vật và hình tƣợng nhân vật
1.1.1. Khái niệm nhân vật
“Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con
người trong tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể

hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [19,73].
Đại văn hào Đức W.Goethe từng nói: “Con người là điều thú vị nhất đối với
con người và con người cũng chỉ hứng thú với con người”. Nội dung quan
trọng nhất của văn học là con ngƣời. Đọc bất cứ văn bản văn học nào, độc giả
đều bắt gặp những con ngƣời đƣợc miêu tả, trần thuật cụ thể. Đó chính là
những nhân vật trong văn học [19,73]. Tuy nhiên, nhân vật trong tác phẩm
văn học có thể là những con ngƣời cũng có thể là các con vật, loài cây, các
sinh thể hoang đƣờng nhƣng mang những đặc điểm giống với con ngƣời.
Nhƣng nhìn chung, nhân vật dù là ngƣời hay vật vẫn là sự hóa thân của con
ngƣời. “Nhân vật là khái niệm có nội hàm phong phú, định danh một hiện
tượng phổ quát của thế giới tác phẩm văn học bao gồm nhiều bình diện và
cấp độ” [19,74].
Bertold Brecht cho rằng: “Các nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật
không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là
những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”.
Nhận định này càng khẳng định: nhân vật là một đơn vị nghệ thuật, đƣợc sáng
tạo theo những ƣớc lệ của văn chƣơng. Ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật
chứa những nét rất gần với nguyên mẫu có thật, thậm chí giữ lại cả danh tính
của nguyên mẫu thì ta cũng không thể đồng nhất hai hiện tƣợng này với nhau.
Bởi vì nhân vật có những đặc trƣng nghệ thuật, đƣợc thể hiện trong tác phẩm

6


bằng các phƣơng tiện văn học thông qua lăng kính chủ quan của ngƣời viết;
tuy nhiên không vì thế mà chúng kém phần sinh động, chân thật.
Nhà văn K.A Fedin (Nga – Xô Viết) từng hình dung nhân vật giống
nhƣ “một công cụ hữu hiệu” giúp ngƣời viết nhận ra bản chất của đời sống, và
giúp độc giả hiểu đƣợc quy luật sâu xa đang ngầm chi phối mọi diễn biến của
lịch sử.

Nhân vật có vai trò đặc biệt quan trọng trong văn học nói chung. Khi
nhân vật xuất hiện, “hiện thực cuộc sống” không còn tồn tại nhƣ một khái
niệm khô khan, trừu tƣợng mà trở nên có hình khối rõ ràng, “đa chiều” hơn,
khơi gợi sự liên tƣởng, tƣởng tƣợng, tìm tòi và suy ngẫm của ngƣời đọc. Hơn
thế, nhân vật nhiều khi trở thành “ngƣời đối thoại” sống động của độc giả, có
thể khơi lên những chủ đề đối thoại nhiều ý nghĩa về cuộc đời, con ngƣời.
Nhƣ vậy, nhân vật là sản phẩm tinh thần của nhà văn thể hiện quan
niệm thẩm mỹ của nhà văn về cuộc đời và con ngƣời, là chiếc chìa khóa giúp
nhà văn mở cánh cửa bƣớc vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận đề tài, chủ đề mới
mẻ. Nó là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới của văn học có
chiều sâu và tính hình tƣợng.
1.1.2. Khái niệm hình tượng nhân vật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm
của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và tái tạo hiện thực theo quy luật. Đó là
chất liệu cụ thể mà chúng ta có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng;
qua đó thấy được tư tưởng, tình cảm của tác giả” [3].
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Khác với các nhà khoa học,
nghệ sĩ không diễn đạt trực tiếp ý nghĩ và tình cảm bằng khái niệm trừu
tượng, bằng định lí, công thức mà bằng hình tượng, nghĩa là bằng cách làm
sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, những hiện tượng đáng
làm ta suy nghĩ về tính cách và số phận, về tình đời, tình người qua một chất

7


liệu cụ thể. Hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ
sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật…
Hình tượng có thể tồn tại qua chất liệu vật chất nhưng giá trị của nó là ở
phương diện tinh thần. Nhưng nói tới hình tượng nhân vật người ta thường
nghĩ tới hình tượng cụ thể là con người, bao gồm cả hình tượng một tập thể

người (như hình tượng người nông dân hoặc hình tượng Tổ quốc) với những
chi tiết biểu hiện cảm tính phong phú” [21]…mang trong mình những quan
niệm sống, những trải nghiệm cuộc đời, những triết lý nhân sinh sâu sắc.
Để mỗi hình tƣợng đƣợc hiển hiện và tồn tại, ngƣời nghệ sĩ phải sử
dụng những phƣơng tiện vật chất cụ thể. Nhờ đó, khi khám phá nghệ thuật, ta
không những đƣợc cảm thụ, đƣợc thƣởng thức cái đẹp, đƣợc tiếp cận với
nguồn tri thức vô hạn mà ta còn đƣợc tiếp thu những chân lí của đời sống.
Đây chính là biểu hiện “đỉnh cao” của hình tƣợng, là cái đích mà bất cứ ngƣời
nghệ sĩ nào trong cuộc đời theo đuổi sự nghiệp văn chƣơng, theo đuổi cái đẹp,
cái hoàn mĩ cũng muốn đạt đƣợc.
1.2. Kenzaburo Oe và con đƣờng sáng tác văn chƣơng
Kenzaburo Oe sinh năm 1935 tại ngôi làng Ose ở một thung lũng xa
xôi vây quanh bởi những khu rừng trên hòn đảo Shikoku, một trong bốn hòn
đảo chính của Nhật Bản. Theo Kazuto Yamaguchi, khu rừng Shikoku “luôn
luôn là một nơi thiêng liêng, thuần khiết đối với Oe, là nơi sinh của linh
hồn”[5]. Cha ông là một thƣơng gia địa phƣơng nên gia đình tƣơng đối khá
giả nhƣng sau đó bị tịch biên hầu hết gia sản trong cuộc cải cách ở Nhật Bản.
Ông đã học đƣợc nghệ thuật kể chuyện của bà và mẹ. Những câu chuyện liên
quan đến các sự kiện lịch sử trong khu vực, những câu chuyện về một vũ trụ
học độc đáo và về con ngƣời đã để lại cho ông một dấu ấn không thể xóa
nhòa.

8


Thế chiến thứ hai nổ ra khi Oe sáu tuổi. Cha ông bị giết chết năm
1944. Sau cái chết của cha, mẹ ông đã đảm nhận vai trò là nhà giáo dục thay
cha ông. Khi Nhật hoàng Hirohito tuyên bố đầu hàng vào ngày 15 tháng 08
năm 1945 thì ông mới lên mƣời tuổi. Khi âm thanh từ lời tuyên bố đầu hàng
của Thiên hoàng - ngƣời mà ông luôn đƣợc dạy là một vị thánh sống, từ trên

radio truyền đến, đã tƣớc đoạt sự ngây thơ của Oe và mọi giá trị bị lật đổ từ
đó. “Nếu như không có những trải nghiệm năm 1945 và những năm sau đó,
tôi sẽ chẳng bao giờ trở thành tiểu thuyết gia”, Oe nói. Thời kỳ Đồng minh
chiếm đóng Nhật Bản từ 1945 đến 1952 khá hòa dịu, những anh lính Mỹ hiền
lành mang theo kẹo để phát cho trẻ con, song lại khơi lên ở ông một tình cảm
nƣớc đôi đến tận hiện tại đối với nƣớc Mỹ. “Tôi khâm phục và tôn trọng văn
hóa của các nước nói tiếng Anh nhưng tôi phẫn nộ đối với sự chiếm đóng”,
lời của Oe.
Vào năm 18 tuổi, Oe đã thực hiện chuyến đi tàu lửa đầu tiên tới Tokyo,
và năm sau đó theo học Văn học Pháp tại Đại học Tokyo, nơi ông đƣợc giảng
dạy dƣới sự hƣớng dẫn của giáo sƣ Kazuo Wantanabe – chuyên gia về
Francois Rabelais.
Ông bắt đầu sáng tác vào năm 1957, khi vẫn còn là sinh viên tại trƣờng
Đại học. Tác phẩm đầu tiên của ông gây đƣợc sự chú ý là Hoang phí hay là
cái chết (1957). Nhƣng phải đến tiểu thuyết đầu tay Nuôi thù (1958) thì vị trí
của ông trên văn đàn mới đƣợc khẳng định bằng giải thƣởng Akutagawa. Oe
theo đuổi nghiệp văn chƣơng và ngày càng đạt đƣợc những thành tựu to lớn.
Năm 1960, ông kết hôn với Yukari Itami, em gái của Juzo Itami – một
đạo diễn nổi tiếng. Tháng 6 năm 1963, vợ chồng ông sinh con trai đầu lòng bị
dị tật bẩm sinh về trí tuệ. “Chúng tôi đặt tên cháu là Hikari, tiếng Nhật có
nghĩa là ánh sáng” – lời của Oe. Hikari sinh ra mắc chứng “thoát vị não”,
mang hình dáng là một dị nhân: đầu to quá mức bình thƣờng, đôi mắt không

9


có khả năng nhận biết ánh sáng. Cậu cũng không có khả năng nhận biết và nói
tiếng ngƣời. Trong khoảng thời gian đó, Oe đã sống trong sự tuyệt vọng, và
tìm đến rƣợu để trốn tránh nỗi đau. Nhƣng rồi, sống chung với Hikari, ông
dần tìm đƣợc năng lƣợng sáng tác từ những đau đớn của mình, ông viết Một

nỗi đau riêng (1964) nhƣ một cách để giãi bày, để đối mặt với bi kịch của bản
thân.
Sự xuất hiện của Kenzaburo Oe đã khiến cho dòng chảy của nền văn
xuôi Nhật Bản hiện đại trở nên mạnh mẽ, tân kì hơn. Ông đƣợc coi là “nhà
văn hiện đại thực sự” đầu tiên của nền văn học quốc đảo Phù Tang. Sự nghiệp
sáng tác của ông vô cùng phong phú gồm truyện ngắn, tiểu thuyết cùng nhiều
tiểu luận về các đề tài. Ông cũng giành đƣợc nhiều giải thƣởng văn học danh
giá của Nhật Bản nhƣ giải Akutagawa, giải Tanizaki, giải Shincho.
Năm 1958, truyện ngắn Nuôi thù (Shiiku) (tựa đề tiếng Anh là The
Catch hay Prize Stock), miêu tả tình bạn diệu kỳ giữa một cậu bé với một tù
binh Mỹ da đen, “một vị khách huy hoàng đến từ bầu trời” nhƣ chính lời tác
giả nhận xét. Theo Yamaguchi, câu chuyện là “một bức tranh mỉa mai mối
quan hệ Nhật - Mỹ”. Tác phẩm này đem về cho tác giả giải thƣởng
Akutagawa năm 23 tuổi. Cùng năm đó, tiểu thuyết đầu tay của ông (tựa đề
tiếng Anh là Nip the Buds, shoot the Kids) viết về số phận thanh niên nông
thôn, ra đời.
Bị ảnh hƣởng bởi thuyết hiện sinh của Sartre, chủ nghĩa hiện thực
nghịch dị của Rabelais cùng với truyền thống văn chƣơng Mỹ từ Mark Twain
đến Norman Mailer, Oe đã tạo ra những hình tƣợng phản anh hùng (anti-hero)
chìm đắm trong nhục nhã thấp hèn, bị ruồng bỏ, căm ghét cái gọi là “văn
minh”. Trong những truyện ngắn và truyện vừa nhƣ Tuổi mười bảy (1961) và
J (1963), các nhân vật bị những hành vi chính trị cuồng tín lôi kéo nhƣng rồi
chỉ đi đến nghiện rƣợu hoặc trở thành những kẻ sống vất vƣởng cạnh đƣờng

10


xe điện ngầm. Ông giễu nhại thói quen ù lì, phẳng lặng của ngƣời Nhật trong
tác phẩm Tiểu thuyết I, một tự truyện về ngƣời Nhật Bản, và tấn công thẳng
vào “sự mập mờ” của những bậc đàn anh. Một số nhà phê bình từng chế nhạo

văn chƣơng của ông là “sặc mùi bơ”, bởi cú pháp tây phƣơng làm hoen ố sự
trong sáng của tiếng Nhật. John Nathan (ngƣời dịch nhiều sáng tác của ông
sang tiếng Anh) đã nhận xét, đó là “một đường ranh tinh tế giữa sự nổi loạn
mang tính nghệ thuật với sự phóng túng” và “quan điểm thống nhất trước sau
của Oe là tấn công vào những giá trị truyền thống”.
Sự “tái sinh” về chính trị, cá nhân của Oe đƣợc phản ánh trong Những
ghi chép về Hiroshima (Hiroshima Notes, 1965). Mối liên hệ giả tƣởng mà
ông nối kết giữa đứa con dị tật với những nạn nhân chịu hệ lụy của thảm họa
hạt nhân đã tạo nên một tác phẩm đƣa ông lên tầm ảnh hƣởng quốc tế. Đó là
Một nỗi đau riêng (A Personal Matter, 1964). Điểu - hình tƣợng nhân vật
“phản anh hùng”, là một ngƣời cha nuôi giấc mộng đào tẩu đến Phi châu, tìm
sự quên trong hơi men và bạn tình. Vật lộn trong nghịch cảnh tiến thoái lƣỡng
nan, Điểu phải đối diện với đứa con “quái vật” đến tận khi anh quyết tâm cứu
thoát đứa con và giải thoát chính bản thân mình. John Nathan, ngƣời dịch
cuốn tiểu thuyết, nhận thấy “một nguồn năng lượng diệu kỳ, mạnh mẽ và gây
choáng ngợp” trong tác phẩm này.
Một cuốn tiểu thuyết với tựa đề tiếng Anh là The Silent Cry (Tiếng
khóc thầm lặng, 1967) đƣợc hội đồng Nobel đánh giá là kiệt tác. Câu chuyện
mở ra với hình ảnh ngƣời kể đang bị thối rữa trong một cái hố lầy cùng một
con chó hôi hám trên tay, sau khi đứa con ngờ nghệch của ông đƣợc đƣa vào
trại tế bần. Sau chiến tranh, ngƣời kể chuyện và ngƣời anh (có khuynh hƣớng
bạo lực) của ông (“là hai mặt của con người tôi”, nhƣ Oe từng nói), trở về
ngôi nhà nơi họ đã sống thời ấu thơ nhƣng họ lại phải đối mặt với những cái
nhìn mâu thuẫn về lịch sử gia đình. Có ngƣời đã nhận định: sau Tiếng khóc

11


thầm lặng, “Oe đã đánh mất một nửa lƣợng độc giả bởi văn phong ông quá
phức tạp”.

Trong loạt truyện về chủ đề “đứa con dị tật”, hình tƣợng Hikari hóa
thân dƣới nhiều cái tên khác nhau nhƣ Pooh, Eeyore, Mori hay là Jin. Từ
truyện ngắn Hãy dạy chúng tôi rũ bỏ cơn điên (Teach Us to Outgrow our
Madness, 1969) đến Một đời thầm lặng (1990) đều có sự hóa thân từ Hikari.
Trong truyện ngắn huyễn tƣởng Quái vật trên không (1964), một nhạc sĩ sau
khi để mặc đứa con của mình chết, đã bị ám ảnh bởi một bóng ma - “một đứa
trẻ con mập mạp, mặc bộ quần áo ngủ màu trắng và to nhƣ một con
kangaroo”. Khi ngƣời nhạc sĩ day dứt lƣơng tâm, đứa bé đã trở thành một
“bóng ma khổng lồ” bao hàm tất cả những con ngƣời yểu mệnh, không biết
đến ký ức mà ở đó có cả những ngƣời chết vì chiến tranh.
Oe từng nói rằng phong cách của ông “bắt đầu từ những nỗi đau riêng
tư, sau đó nối kết với xã hội, với quốc gia và thế giới” [11]. Tác phẩm của ông
luôn mang tính phổ quát dù bên ngoài có vẻ nhƣ là những bi kịch cá nhân
riêng tƣ. Trong tác phẩm Rouse up O young men of the New Age (Thức dậy,
con người hiện đại, 1983), tác giả đã chỉ ra rằng nỗi sợ đối với những gì yếu
ớt và nhạy cảm chính là ảnh chiếu của bóng tối trong chính mỗi ngƣời chúng
ta. Tiểu thuyết này đƣợc đánh giá là “một cuốn sách dũng cảm với sự trung
thực khi nhà văn tự chỉ trích mình”.
Oe vẫn miệt mài trên con đƣờng sáng tác văn chƣơng của mình với
những sáng tác nhƣ: Khi vị cứu tinh bị hành hạ (1993), Chao đảo (1994), Cây
xanh rực lửa (1995), Cú nhảy lộn nhào (1999), Nước tử (2009)… Tác phẩm
của ông đã trở nên nổi tiếng không chỉ ở xứ sở hoa anh đào mà còn đƣợc độc
giả trên toàn thế giới biết đến.
Những nỗ lực và đóng góp của Kenzaburo Oe cho nền văn học Nhật
Bản nói riêng và văn học hiện đại thế giới nói chung giúp ông vinh dự là nhà

12


văn thứ hai của Nhật Bản, sau Kawabata Yasunari, đƣợc bƣớc lên diễn đàn

nhận giải Nobel Văn học 1994 tại Stockholm (Thụy Điển). Ông cũng đƣợc
đánh giá là “nhà văn hiện đại thực sự” đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu
chiến. Những cách tân mới mẻ trong sáng tác và sự sâu sắc, lớn lao trong
những vấn đề đƣợc Oe đề cập đã giúp ông trở thành niềm tự hào của ngƣời
Nhật, và giúp văn học Nhật Bản vƣơn xa hơn trên bầu trời văn học nhân loại.
1.3. Hình tƣợng nhân vật trong Một nỗi đau riêng và nỗi ám ảnh bom
nguyên tử
1.3.1. Ngoại diện bất thường – quá trình tiến hóa ngược của các nhân vật
Khi Kenzaburo Oe phải chứng kiến những thảm cảnh của nƣớc Nhật
bại trận, kiệt quệ, ngòi bút của ông đã khắc họa một cách nghiệt ngã nhƣng
đầy chân thực cái hiện thực đau buồn ấy trƣớc hết thông qua ngoại hình bất
thƣờng, sự tiến hóa ngƣợc của các nhân vật. Con ngƣời ở đây mang những
đƣờng nét của loài vật mà đôi khi ranh giới giữa “nhân hình” với “vật hình”
trở nên thật mong manh. Ngoại hình các nhân vật của ông thƣờng đƣợc so
sánh với các loài vật: gà lôi, chồn, kỳ nhông, gấu, đƣời ƣơi, lạc đà, rùa, mèo...
1.3.1.1. Ngoại diện nửa người nửa vật
Điểu là nhân vật có ngoại hình bất thƣờng với sự lai ghép giữa nét
ngƣời và nét chim thú. Tác giả đƣa hình dung về diện mạo của Điểu khi anh
đang chăm chú nhìn mình hiện ra một cách chập choạng qua ô cửa kính bày
hàng. Hiển hiện trong thế giới ảo mà chân thực ấy là cái tƣớng mạo của Điểu,
“vụng về, chập chờn như một thây ma chết đuối trong biển kính đen xì vẫn
còn giống như một con chim”. Và không chỉ có đôi vai rủ xuống giống nhƣ
“đôi cánh xếp” mà những nét đặc trƣng của Điểu đại khái đều giống nhƣ
chim. Cái mũi nâu sạm, bóng mƣợt nhô ra khỏi gƣơng mặt giống nhƣ “mỏ
chim”; đôi mắt không hồn mờ đục và chiếc “cổ cò” gầy guộc. Một đặc điểm
càng làm Điểu giống chim là giọng nói - “một giọng hơi khàn khàn như vịt

13



đực”. Những đƣờng nét chim này đang lấn át và chiếm ƣu thế trƣớc nhân hình
còn sót lại ở Điểu. Điểu nhận thức đƣợc những đƣờng nét quái gở báo hiệu
tình trạng đang tha hóa của mình, tự hỏi còn bao lâu nữa anh cứ tiếp tục giống
nhƣ “một con chim”.
Với tấm gƣơng ở quán cắt tóc, Điểu thêm một lần nữa khám phá ra
mình với đƣờng nét giống con vật, “khuôn mặt anh từ hai gò má cao đến cằm
đều nhẵn bóng và đỏ au như bụng một con cá hồi bảy sắc”. Ở nhà Himiko,
sau khi cạo râu xong, trong chiếc kính mờ hơi nƣớc, Điểu trở thành “gương
mặt xanh xao, u tối của con nhộng”. Diện mạo của Điểu dƣới cái nhìn của
Himiko: “thân hình gập đôi thiếu thoải mái, giống như một con đười ươi
trong chuồng, và mùi rượu nồng nặc bùng lên theo hơi thở”.
Ngoại diện của các nhân vật trong Một nỗi đau riêng luôn đan xen giữa
nét ngƣời và nét vật. Dáng vẻ bề ngoài của các nhân vật khác cũng đƣợc miêu
tả gắn với loài vật nhất định. Hình ảnh vợ Điểu trên bàn sinh đƣợc miêu tả
dƣới cái nhìn bi đát pha màu hài hƣớc của Điểu, vợ anh “nằm trần truồng trên
một tấm nệm cao su, đôi mắt nhắm nghiền giống như một con gà lôi bị trúng
đạn từ trên trời rơi xuống” [12,5]. Không chỉ giống nhƣ một con gà lôi, vợ
Điểu, trong một khoảnh khắc khác còn hiện diện dƣới bóng dáng của “một
con chồn”. Nhƣng không chỉ có vợ Điểu, những ngƣời phụ nữ khác nhƣ cô
gái bán hàng cũng hiện lên với những đƣờng nét của con vật, đi ngƣợc lại vẻ
đẹp của ngƣời phụ nữ xứ Phù Tang trong quan niệm mỹ học truyền thống. Cô
gái bán hàng để lộ đôi bàn tay gầy, vấy bẩn nhƣ “những ngón tay kì nhông
bám trên cành cây”.
Vị bác sĩ, giám đốc bệnh viện nơi vợ Điểu sinh, có dáng ngƣời lùn,
mập tròn nhƣ hột mít; chiếc áo blu vấy bẩn banh ngực, để lộ ra một chòm
lông giống nhƣ “lưng con lạc đà”. Râu trên mép và má rậm rì mọc lởm chởm

14



xuống tận cuống họng…tiềm ẩn sâu trong làn da đầy lông lá kia “một con vật
gây chết người”, dựng “cái đầu lông lá” của nó lên và bị kiềm giữ lại.
Bên cạnh đôi mắt có chút xuề xòa, nhân hậu mang tính ngƣời thì viên bác sĩ
trong bệnh viện đại học quốc gia – nơi con trai Điểu đƣợc chuyển tới, có bộ
dạng nhƣ “một con rùa”. Viên bác sĩ dò xét Điểu bằng cái nhìn khiến anh
nghĩ đến một con rùa đang mở mắt thao láo... “Cái cằm lẹm và cổ họng nhăn
nheo lệch sang một bên” của viên bác sĩ càng khiến cho ngƣời ta nghĩ đến
“một con rùa – một con rùa háu ăn”.
Trong mắt Điểu, mọi ngƣời mà anh gặp đều có những hình thù kỳ quái,
giống vật hơn là giống ngƣời. Diện mạo lai tạp ấy dƣờng nhƣ không loại trừ
một ai. Kikuhiko – ngƣời bạn mà Điểu đã bỏ rơi trong một đêm tối, trông
giống “một con vật lưỡng cư ở hai độ tuổi khác nhau”, những sợi gân trên cơ
thể Kikuhiko cong nhƣ “lưng của con mèo đang hù chuột”.
Dƣới ngòi bút của Oe, diện mạo các nhân vật trong tác phẩm tiến ngày
càng gần tới loài vật: đƣời ƣơi, lạc đà, con vật gây chết ngƣời, con rùa, con
vật lƣỡng cƣ, con chuột… Từ ngoại diện của các nhân vật, Oe khái quát lên
thành hình dạng, bộ mặt của thế giới ngƣời nói chung. Vẫn qua cái nhìn biểu
cảm của Điểu, thế giới ngƣời hiện ra dƣới hình dạng “những con vật nhớp
nhúa đang nằm ngửa hay ngồi trên giường nhìn anh bằng đôi mắt lạnh như
tiền” [12,136]. Bƣớc đi của thời gian càng hƣớng tới tƣơng lai thì ngoại diện
của các nhân vật lại càng giống với loài vật. Có thể nói, đó là quá trình tiến
hóa ngƣợc của con ngƣời Nhật Bản hậu chiến nói riêng và con ngƣời chịu ảnh
hƣởng của chiến tranh nói chung. Khác với quá trình tiến hóa tự nhiên, con
ngƣời ngày càng phát triển và có những đƣờng nét khác hẳn loài vật, ngƣời ta
dần quên đi việc con ngƣời là một động vật bậc cao mà luôn nghĩ tới con
ngƣời với định nghĩa là một sinh thể tách biệt hoàn toàn với động vật, càng
tiến hóa thì càng mất đi những đặc tính loài vật nói chung. Oe đề cập đến quá

15



trình tiến hóa ngƣợc của nhân vật nhƣ một cách để lên án sự hủy diệt của bom
nguyên tử, của những cuộc chiến tranh đã dẫn đến sự tha hóa về ngoại diện
của con ngƣời. Chất phóng xạ trong bom nguyên tử không chỉ là sự tàn phá
đối với vật chất bên ngoài mà nó còn đi vào cơ thể con ngƣời, đi vào máu và
truyền sang cả những thế hệ sau. Con ngƣời chịu ảnh hƣởng của bom nguyên
tử tƣởng nhƣ lại sắp trở về với thời sơ khai. Đó là một sự hủy diệt văn minh
ghê gớm mà Oe đã thấm đẫm trong từng trang viết của mình.
1.3.1.2. Ngoại diện già nua, khô héo thiếu sức sống
Ngoại diện của các nhân vật bị biến dạng theo chiều hƣớng già trƣớc
tuổi. Điểu “đã già trƣớc tuổi”. Ngoại diện gầy gò, chỉ toàn xƣơng với da, tay
chân lòng thòng và vai thì co rút. Anh chẳng khác nào một “ông già còm cõi”
khi nhìn mình qua ô kính của gian hàng. Sự già nua ở nhân vật càng đƣợc
khẳng định khi Điểu thử sức với một trò chơi bằng sắt mà bọn trẻ con đang
chơi. Kết quả là Điểu - hai mƣơi bảy tuổi bốn tháng, mà kẹp kéo không hơn
một ngƣời bốn mƣơi tuổi. Ngoại diện của Điểu giống nhƣ “một thây ma chết
đuối”, vừa đầy ghê rợn, vừa vật vạ không còn chút sức sống. Himiko hay cô
bạn cũ của Himiko tuy vẫn đang ở độ thanh xuân nhƣng những nỗi niềm
không lối thoát trong cuộc sống đã ghi dấu thành những nếp nhăn già nua trên
gƣơng mặt, trên khóe mắt của họ. Kikuhiko, ngƣời bạn ấu thơ của Điểu lại
mang ngoại diện có sự pha trộn tuổi già - tuổi trẻ một cách quái gở. Ngoại
diện chi phối bởi ranh giới tuổi tác khắc nghiệt ấy còn hằn lên trên gƣơng mặt
những đứa trẻ sơ sinh trong bệnh viện, vừa sinh xong mà đã có cái nét già
nua, điềm tĩnh, vô hại. Sự già nua không còn đợi tuổi già mới đến, nó đã xuất
hiện ngay từ khi con ngƣời mới chào đời. Trong nỗi ám ảnh về bom nguyên
tử, trong xã hội thay đổi chóng mặt, những đứa trẻ mới sinh hay những ngƣời
trẻ dƣờng nhƣ đã trở thành những ngƣời già đợi chờ một ngày lìa đời, họ
không còn là thế hệ hân hoan chào đón cuộc sống, hăng hái lao động xây

16



dựng đất nƣớc, họ e dè một ngày mai tất cả những gì mới dựng xây lại hóa tro
tàn, bụi vƣơng. Những cảm xúc tƣởng nhƣ có thể giấu kín tận sâu bên trong
nay lại in ra cả bên ngoài trên ngoại diện của nhân vật.
Không chỉ là ngoại diện của những ngƣời đang già đi, lăng kính của
Điểu còn khám phá ra một chân dung ghê sợ của ngƣời mà nhƣ xác chết. Đó
là diện mạo của ngƣời đàn ông mà con của ông ta không có lá gan. “Chiếc áo
quá rộng so với tấm thân gầy nhom của ông, trông giống như một miếng vải
tạm bọc xác chết khô. Đôi cánh tay trần và cổ ông ta cháy đen như một miếng
da trâu…đôi mắt lờ đờ” [12,129]. Con ngƣời sống mà đƣợc ví với “xác chết
khô”, cằn cỗi, thiếu sức sống. Ngoại diện nhƣ xác chết này cộng hƣởng với
ngoại diện già nua càng tô đậm sự tồn tại vô nghĩa của con ngƣời. Con ngƣời
dƣờng nhƣ đang sống mà cũng dƣờng nhƣ đang chết. Nét vẽ của Oe khiến
cho những bức tranh ngoại diện trở nên thê thiết khác hẳn những nét vẽ đẹp
đẽ, kì vĩ về con ngƣời khổng lồ thời Phục hƣng.
Những ngoại hình “ngƣợc” này càng tô đậm nỗi đau của ngƣời Nhật,
rằng tháng năm có thể trôi đi nhƣng những vết rạn về tâm hồn vẫn còn mãi in
dấu trên ngoại diện của con ngƣời. Đó là nỗi ám ảnh bởi bom nguyên tử đã
cƣớp đi những gì sinh động nhất của con ngƣời, khiến con ngƣời trở nên vô
hồn, héo hon nhƣ xác khô. Trong thời hậu chiến, con ngƣời trải qua bao nhiêu
đau thƣơng, mất mát, cùng với sự biến đổi chóng mặt của nền công nghiệp
hóa, của thời đại kỹ trị, đang phải đối mặt với sự hủy mòn về nhân hình.
1.3.1.3. Ngoại diện biến dạng, kì quái của những đứa trẻ
Những đứa trẻ trong Một nỗi đau riêng mang gƣơng mặt dị dạng nhƣ
nỗi ám ảnh về tình trạng tha hóa, qua trình tiến hóa ngƣợc sẽ còn tiếp diễn
không biết đến điểm dừng của xã hội Nhật Bản ở hiện tại và tƣơng lai. Những
đứa trẻ sơ sinh đã phải chào đời trong một hình hài kì quái. Con trai Điểu vừa
mới sinh ra đã đƣợc gọi bằng cái tên mĩ miều: “của quí”. Nhƣng trong ý nghĩ


17


thật của tất cả mọi ngƣời, nó là “quái vật”, quái thai chứ không phải là một
con ngƣời, một đứa bé. Trạng thái bất bình thƣờng của “một đứa bé xấu xí với
cái mặt nhỏ thó, đỏ au phủ đầy vết nhăn và lem luốc chất nhờn. Đôi mắt của
nó nhắm nghiền như hai vỏ sò…miệng nó bị xoắn lại, phát ra tiếng kêu không
thành tiếng, để lộ ra cái màng nhầy bên trong…bên dưới lớp băng, cái sọ
được chôn kín dưới đống bông gòn thấm máu, nhưng không giấu được một
cái gì ở đó có hình dạng lớn và bất thường” [12,47-48]. Khuôn mặt của đứa
bé không chỉ xấu xí mà còn dị dạng với khối u đƣợc chôn kín dƣới đống bông
gòn. Đứa trẻ không giống bất kì một đứa bé nào trong khu điều trị bởi nƣớc
da “đỏ như tôm luộc và bóng láng một cách bất bình thường”, khối u phiền
toái nhô ra không thể dứt bỏ đƣợc, nặng trịch “như một mỏ neo buộc và đầu
đứa bé”. Khối u trên cái đầu dài và nhọn nhƣ “đầu cá trê” của thằng bé lớn
hơn, nó đỏ hơn, bóng lƣỡng, sƣng phù. Đôi mắt của thằng bé còn có vẻ biểu
cảm chút ít với cái nhìn héo hon, cổ kính của những nhà tu khổ hạnh trong
các bức tranh cuộn của phái Nam tông. Nhƣng đôi mắt ấy không kéo lại đƣợc
vẻ mặt “khác ngƣời”. Diện mạo ấy khiến Điểu cũng phải thốt lên, “nó chẳng
giống ai, ngay cả người cũng không”.
Đứa trẻ không có lá gan giống “như một chú gà bị vặt lông với làn da
nức nẻ, nhớp nhúa một cách kì quặc”. Còn những đứa trẻ khác thì “trần
truồng và lồ lộ. Ánh sáng gay gắt độc hại đã làm chứng khô héo, chúng giống
như một đàn gia súc ngoan ngoãn nhất thế giới… Tất cả bọn chúng đều gây
ấn tượng về những người bị xiềng xích. Vài đứa bé bị buộc chặt cùm tay vào
giường…những đứa bé này trông càng giống những tù nhân ốm yếu, nhỏ
bé…giống như những con rùa đau khổ không thèm ăn, tất cả chúng đều ngậm
miệng” [12,125]. Sự tiến hóa ngƣợc không chỉ xuất hiện ở thế hệ hiện tại mà
nó còn tiếp diễn với những thế hệ tƣơng lai. Đó là nỗi lo đau mà Oe thể hiện
qua những trang văn của mình. Với thế giới của những tù nhân bé nhỏ ấy, Oe


18


cay đắng đặt ra câu hỏi: Tƣơng lai nƣớc Nhật sẽ đi về đâu? Đứa bé không có
gan, đứa trẻ “hai đầu”…chính là những di chứng đau đớn, nghiệt ngã từ hai
quả bom nguyên tử, từ chiến tranh thế giới, sẽ vẫn còn đè nặng lên đôi vai
nhiều thế hệ ngƣời Nhật. Di chứng ấy vẫn còn và sẽ còn hằn dấu trên gƣơng
mặt, hình hài của nhiều thế hệ trẻ thơ - những thế hệ bị biến dạng, xa lìa nhân
hình quen thuộc. Mất mát ấy lớn hơn rất nhiều những mất mát về vật chất.
Những đổ nát, hoang phế không thể so bì đƣợc với nỗi đau trƣớc sự biến dạng
của giống nòi, của những thế hệ măng non mang sứ mệnh xây dựng và phát
triển đất nƣớc. Đó là tiếng kêu thống thiết lên án sự tàn khốc của bom nguyên
tử, của chiến tranh.
1.3.2. Những con người cô đơn, sợ hãi và bất an
1.3.2.1. Định mệnh cô đơn
Trong thời hiện đại, cô đơn đã hiện hữu nhƣ một định mệnh, bất kì bản
thể nào hiện hữu trong thế giới loài ngƣời đều mang sẵn nỗi cô đơn không thể
cƣỡng lại, ở đâu cũng bắt gặp những con ngƣời cô đơn. Con ngƣời Nhật Bản
hiện đại không tránh khỏi định mệnh này và nhân vật trong Một nỗi đau riêng
dƣờng nhƣ cũng định sẵn mang nỗi cô đơn.
Các nhân vật trong tác phẩm luôn sống trong cảm giác cô đơn. Có thể
nhận thấy, Điểu cô đơn ngay trong chính gia đình của mình. Ngƣời vợ đầu gối
tay ấp không bao giờ đồng tình, lắng nghe những chia sẻ về ƣớc vọng tới châu
Phi của anh, nơi mà với nàng, “mớ thổ ngữ swahili... nghe rất giống tiếng gào
của loài dã thú mà ngôn ngữ văn minh không có”. Bố mẹ vợ thì thƣờng tỏ ra
thất vọng về Điểu. Thậm chí, bố mẹ của Điểu còn không hề đƣợc nhắc đến
trong tác phẩm. Điểu trở thành cá thể đơn độc đến lạnh lẽo, cô đơn bủa vây
nhƣ một tất yếu. Cùng với Điểu, hình ảnh của mẹ vợ Điểu và vợ Điểu cũng
đƣợc khắc họa mang nỗi cô đơn thầm kín. Đồng thời gặp biến cố là đứa trẻ dị

tật nhƣng Điểu, mẹ vợ Điểu và vợ Điểu không thể chia sẻ với nhau tâm sự u

19


×