Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.53 MB, 109 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐĂNGMINH THẮ NG

NGUYỄN ĐĂNG MINH THẮNG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE

MẪU TRANG PHỤ BÌA LUẬN VĂN
CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
NGÀNHLU ẬTHỌ C

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
KHÓAIX -

TP.Hồ Chí Minh, năm 2020


Mẫu 2

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐĂNG MINH THẮNG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY


THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH

Chuyên ngành: Luật học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHAN ANH TUẤN

TP. HỒ CHÍ MINH, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan dưới đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi, dưới sự hướng dẫn của TS.Phan Anh Tuấn. Các trích dẫn trong luận văn
đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực, được chú thích đầy đủ. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Đăng Minh Thắng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Hình sự

BLHS


Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS

Cố ý gây thương tích

CYGTT

Cơ quan điều tra

CQĐT

Gây tổn hại

GTH

Hội đồng xét xử

HĐXX

Nhà xuất bản

Nxb

Tòa án nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân tối cao


TANDTC

Thành phố Hồ Chí Minh

TP.HCM

Viện kiểm sát nhân dân

VKSND


Mục Lục
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1:............................................................................................................ 8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC............................................................................................... 8
1.1.Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của áp dụng pháp luật hình sự đối
với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.........8
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác........................................................ 8
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác...................................................... 11
1.2.Cơ sở, nguyên tắc, nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.......................... 16
1.2.1. Cơ sở của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác............................................... 16
1.2.2. Nguyên tắc của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác............................18

1.2.3. Nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác............................................... 21
1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật hình sự tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác................................................... 25
1.3.1. Chất lượng của quy phạm pháp luật...................................................... 25
1.3.2. Chất lượng của cán bộ áp dụng pháp luật............................................. 26
Tiểu kết Chương 1................................................................................................. 28
CHƯƠNG 2........................................................................................................... 29


THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.................................. 29
2.1. Khái quát thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh............................................................................................................. 29
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh . 32

2.2.1. Thực trạng định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh......................32
2.2.2. Thực trạng định khung hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.........36
2.2.3. Thực trạng quyết định hình phạt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.........39
2.2.4. Thực trạng áp dụng các biện pháp xử lý hình sự khác đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh................................................................................. 42
2.2.5 Nguyên nhân của những thực trạng gặp phải trong quá trình áp dụng
pháp luật hình sự từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh..................................48

Tiểu kết Chương 2.............................................................................................. 50
CHƯƠNG 3........................................................................................................... 51
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TỘI
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH................... 51
3.1. yêu cầu về các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh..................................................................................... 51


3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác................................ 54
3.2.1. Giải pháp về pháp luật.......................................................................... 54
3.2.2 Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác..............63
Tiểu kết Chương 3.............................................................................................. 68
KẾT LUẬN............................................................................................................ 69


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: Tất cả mọi cá nhân đều được đảm
bảo quyền lợi về bất khả xâm phạm đến thân thể của mình, không có bất cứ ai
có quyền được xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác
dưới mọi hình thức. Quyền này đã được cụ thể hóa ở trong các văn bản quy
phạm pháp luật, nổi bật hơn cả chính là pháp luật hình sự. Các hành vi vi
phạm pháp luật dù là hành vi cố ý hay vô ý mà ảnh hưởng xấu đến tính mạng,
sức khỏe của người khác đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm, các cơ quan nhà nước
đã ra sức ngăn chặn các hành vi phạm tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe

của mọi người dân. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ ngoại giao với các
quốc gia trên thế giới thì tình hình tội phạm nói chung cũng như tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác diễn ra hết sức phức
tạp, tính chất thủ đoạn của tội phạm càng ngày tinh vi và liều lĩnh. Do đó, hoạt
động xét xử của Tòa án là vô cùng quan trọng, đảm bảo tính nghiêm minh
cũng như sự công bằng của pháp luật. Đây cũng chính là chủ trương của Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Theo đó, việc tăng cường công tác áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử đối với các vụ án hình sự nói chung cũng như tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác là trách nhiệm của những
người cầm cân nảy mực, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất lượng
của hoạt động xét xử.
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hội tụ nền kinh tế, chính trị, văn hóa và
giáo dục khu vực phía nam của Việt Nam. Cũng vì những thuận lợi trên mà
TPHCM luôn là thành phố được con người lựa chọn nhiều nhất sinh sống và
1


xây dựng tương lai. Điều này đã tạo điều kiện cho các loại tội phạm phát triển
như ma túy, cướp giật tài sản và đặc biệt là tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại đến sức khỏe cho người khác. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe cho người khác đã một
phần nào đó đã đạt được kết quả nhất định đáng khích lệ, góp phần quan trọng
trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Mặc dù vậy, tình hình tội
phạm trên địa bàn TPHCM còn nhiều thách thức, khó khăn, gây bất an đời
sống nhân dân. Đối tượng phạm tội ngày càng có xu hướng trẻ, tính bạo lực
ngày gia tăng do nhiều nguyên nhân gây bức xúc, bất an trong dư luận. Vấn
đề đặt ra nữa là công tác xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến
sức khỏe của người khác trên địa bàn TPHCM vẫn còn nhiều sai sót, ảnh

hưởng đến uy tín của hệ thống Tòa án, tác động tiêu cực đến lòng tin của nhân
dân vào sự công minh, ảnh hưởng đến nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội
phạm.
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực chính thức từ
ngày 01/01/2018 đã giải quyết được rất nhiều vấn đề trong thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự. Tuy nhiên, nghiên cứu quy định của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác còn chưa được rõ ràng,
nhiều bất cập cần phải được làm rõ để tạo điều kiện thuận lợi trong công tác
áp dụng pháp luật hình sự về tội này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ những phân tích trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Áp
dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe cho người khác từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn
thạc sĩ Luật học.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2


Liên quan đến đề tài của luận văn có nhiều công trình khoa học pháp lý ở
các dạng tài liệu khác nhau. Một trong các công trình nghiên cứu được kể
đến:
*

Giáo trình, sách chuyên khảo:
Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự (phần các

-


tội phạm), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội;
Trường Đại học Luật TPHCM (2016), Giáo trình luật hình sự Việt Nam

-

(phần các tội phạm- quyển 1), Nxb Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam;
Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học

-

Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb Lao động;
Một số giáo trình và sách đã đề cập đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ở khía cạnh tổng quát, đặt tội này trong
tổng thể các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người. Hơn thế nữa, các công trình nghiên cứu này chủ yếu phục vụ cho công
tác giảng dạy nên chưa đề cập đến các bất cập trong quá trình áp dụng pháp
luật.
Tạp chí:
-

Đỗ Đức Hồng Hà (2004), “Phân biết tội giết người với tội cố ý gây

thương tích”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3;
-

Phạm Minh Tuyên (2018), “Một số ý kiến về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật
Hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1;
-


Nguyễn Văn Dũng (2018), “Bàn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19;
-

Lương Minh Phương (2013), “Áp dụng pháp luật xong xét xử sơ thẩm

các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe con người của Tòa án nhân dân tỉnh
3


Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh;
-

Lại Viết Quang (2015), “Nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện Kiểm

sát trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích do người chưa thành
niên gây ra”, Tạp chí Kiểm sát, số 25.
Mỗi một công trình nghiên cứu ở trên luận bàn các vấn đề xoay quanh tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới góc
độ lý luận cũng như thực tiễn. Trên cơ sở đó đã đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật hình sự. Tuy nhiên, một số công trình
nghiên cứu trên cơ sở Bộ luật hình sự năm 1999, hiện nay Việt Nam đang áp
dụng Bộ luật hình sự năm 2015, đã có một số thay đổi so với trước đây. Đa số
công trình chỉ tập trung bàn về quy định thực tiễn áp dụng của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các trường
hợp cụ thể mà không nghiên cứu một cách có hệ thống về áp dụng pháp luật

hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.
Điều đó cho phép tác giả khẳng định đề tài “Áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh” không trùng lặp với các công
trình đã nghiên cứu đã công bố
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở đi nghiên cứu ly lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh luận văn sẽ đưa ra các kiến nghị
góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự liên quan đến tội này và
đưa ra các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của luật hình sự về tội
4


cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, luận văn cần đặt ra những nhiệm vụ sau:
-

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm, cơ sở,

nguyên tắc của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
-

Phân tích và đánh giá áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của

BLHS năm 2015 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong việc quy định và áp dụng các
quy định của luật hình sự liên quan đến hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS năm 2015. Từ đó, đề xuất
các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.
-

Đối tượng nghiên cứu: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của
luật hình sự Việt Nam hiện hành.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+

Về không gian: với đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu hoạt động

áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
+

Phạm vi thời gian: Đề tài của tác giả nghiên cứu trong giới hạn của

pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe cho người khác từ năm 2015 đến năm 2019


5


+

Nội dung: Nội dung nghiên cứu của luận văn là vấn đề áp dụng pháp

luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người. Bao gồm các hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án: Định tội danh, định khung hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, hoạt
động kiểm sát điều tra, truy tố.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên
cứu 5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin

với phép duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2.
-

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này tác giả sử dụng để

phân tích các quy định của pháp luật hiện nay cũng như phân tích các vụ án
xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp tổng hợp được tác
giả sử dụng song song với phương pháp phân tích để tổng hợp và khái quát
kết quả nghiên cứu của mình. Đây cũng được coi là phương pháp trọng tâm

tác giả sử dụng xuyên suốt bài luận văn của mình.
-

Phương pháp so sánh: Được tác giả sử dụng để so sánh đối chiếu các bản

án xét xử liên quan đến việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh. Phương pháp này được tác giả sử dụng nhiều nhất ở nội dung
chương 2 của luận văn.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Với đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cũng như thực tiễn xoay quanh việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trên cơ sở đó,

6


đưa ra được những kiến nghị nhất định nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
hình sự.
- Những kết quả tác giả nghiên cứu được thông qua luận văn còn có thể
làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo cho chính
mình và cho những người có quan tâm trong quá trình công tác, học tập và
nghiên cứu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội
dung của luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

7


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1.Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của áp dụng pháp luật hình
sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác
Quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong
những quyền đã được pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia thừa
nhận là quyền của con người. Nếu tính mạng và sức khỏe của con người
không được được Nhà nước và pháp luật thừa nhận, bảo vệ thì con người
không thể yên tâm học tập, lao động và xây dựng đất nước. Sức khỏe của con
người là vô giá. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 của Đại hội
đồng Liên hiệp quốc là văn kiện pháp lý ghi nhận các quyền cơ bản của con
người. Điều 3 Tuyên ngôn có quy định: “Ai cũng có quyền được sống, tự do
và an toàn thân thể”. Điều 20 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và

nhân phẩm”. Trên cơ sở đó, quyền được bảo hộ sức khỏe được ghi nhận ở các
ngành luật dân sự, hành chính và hình sự. Điều 134 BLHS năm 2015 quy định
về tội CYGTT hoặc GTH cho người sức khỏe của người khác.
BLHS năm 2015 không đưa ra bất kỳ một khái niệm nào về tội này,
nhưng theo Từ điển Tiếng viết của Viện ngôn ngữ, chúng ta có thể hiểu như
sau: “Cố ý” có nghĩa là định sẵn từ trước và thực hiện ý định đó [31, tr.205];
“Gây” có nghĩa là làm cho nảy sinh, phát ra [31, tr.377]; “Thương tích” là
dấu vết để lại trên thân thể do bị thương [31, tr.976]; “Tổn hại” là làm mất
8


mát, hư hại lớn; “Sức khỏe” nghĩa là sức mạnh của thân thể do không bị bệnh
tật gì [31, tr.1012]. Còn theo Từ điển của Bộ Tư pháp thì “Cố ý gây thương
tích” là hành vi xâm phạm thân thể, gây tổn hại cho sức khỏe người khác dưới
dạng thương tích cụ thể [1, tr.172]. Tác giả Nguyễn Ngọc Điện lại cho rằng
“Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” được hiểu là hành vi dùng thủ
đoạn tác động vào cơ thể nạn nhân làm mất hoặc giảm chức năng các bộ phận
trên cơ thể nạn nhân [2, tr.59].
Dựa vào những phân tích ở trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm về tội
CYGTT hoặc GTH cho sức khỏe của người khác như sau: “Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, tác động trái pháp luật đến
thân thể của người khác nhằm gây thiệt hại về sức khỏe cho người đó dưới
dạng thương tích hoặc sự mất, suy giảm chức năng của các cơ quan, bộ phận
trên cơ thể nạn nhân”.
Trên đây, là khái niệm về tội CYGTT hoặc GTT cho sức khỏe của
người khác. Còn để có thể xây dựng được khái niệm áp dụng pháp luật hình
sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, trước hết chúng ta cần phải làm rõ khái niệm áp dụng pháp luật là gì?

Khi ban hành các quy phạm pháp luật, Nhà nước luôn hướng tới việc
vận dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, thiết lập trật tự xã hội đáp
ứng nhu cầu và lợi ích của nhân dân lao động và sự tiến bộ của xã hội. Mục
đích đó chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện pháp luật một cách nghiêm
minh trong đời sống thực tế. Trong khoa học, có nghiên cứu cho rằng áp dụng
pháp luật là quá trình diễn ra ngay sau quá trình xây dựng pháp luật, bao gồm:
“toàn bộ những việc làm, những hoạt động, những phương thức nhằm thực
hiện những yêu cầu đặt ra trong pháp luật, trong việc điều chỉnh các quan hệ
9


xã hội” [30, tr.227]. Dựa vào tính chất của hoạt động, của hành vi thực hiện
pháp luật, khoa học pháp lý chia thực hiện pháp luật ra thành bốn hình thức cơ
bản: Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, và hình thức
chúng ta đang quan tâm ở đây chính là áp dụng pháp luật.
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước
thông qua các cơ quan thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các tổ
chức và cá nhân thực hiện những quy định của pháp luật [33, tr.335]. Ở đây
các chủ thể áp dụng pháp luật luôn có sự tham gia của Nhà nước, hay nói cách
khác không phải mọi chủ thể đều có thể áp dụng pháp luật như các hình thức
thực hiện pháp luật khác.
Trong các hoạt động giải quyết các án về dân sự, lao động, kinh tế hay
hành chính là hoạt động mang tính chất độc lập. Nhưng giải quyết án hình sự
là cả một quá trình có sự kết hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Từ
khái niệm áp dụng pháp luật, cho phép chúng ta hiểu áp dụng pháp luật hình
sự là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các tổ chức
và cá nhân thực hiện các quy định của pháp luật hình sự, đảm bảo các quy
định của pháp luật hình sự đi vào đời sống thực tế. Thiếu đi sự đảm bảo này
thì các quy phạm pháp luật hình sự không thể được thể hiện trong đời sống
thực tế. Thực tế đã chứng minh rằng, có rất nhiều trường hợp đã không có sự

can thiệp của Nhà nước và nhiều quy phạm pháp luật hình sự không được
thực hiện hoặc thực hiện không đúng. Và việc áp dụng pháp luật hình sự cũng
chỉ được đặt ra trong những trường hợp cụ thể và của một số cơ quan nhất
định. Như vậy, pháp luật hình sự quy định sự hình thành pháp lý về tội phạm
và hình phạt, trong khi đó áp dụng pháp luật hình sự đóng vai trò quan trọng
hơn là đưa những quy định hay thủ tục vào đời sống thực tế.
Dựa vào khái niệm của áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật hình sự,
chúng ta có thể xây dựng khái niệm áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý
10


gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: “Là
một hình thức của áp dụng pháp luật do người có thẩm quyền tiến hành và áp
dụng những quy phạm pháp luật hình sự liên quan đến tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để giải quyết theo một
trình tự, thủ tục do pháp luật hình sự quy định”.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác
Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại sức khỏe cho người khác là một trong các loại áp dụng pháp luật, do đó
cũng mang đặc điểm của áp dụng pháp luật. Cụ thể:
Thứ nhất, là hoạt động mang tính tổ chức- quyền lực nhà nước.
Đặc điểm này thể hiện ở chỗ chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành thể hiện mệnh lệnh quyền uy phục tùng của Nhà nước đối với
các chủ thể bị áp dụng. Nếu như tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật và sử
dụng pháp luật là các hình thức thực hiện pháp luật được thực hiện bởi bất kỳ
chủ thể nào thì áp dụng pháp luật thì lại không dành cho tất cả. Mỗi một cơ
quan nhà nước sẽ được tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật trong các
lĩnh vực khác nhau. Đối với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự thì Tòa án,
Viện kiểm sát và Cơ quan Điều tra được coi là cơ quan tiến hành Tố tụng hình

sự xuyên suốt quá trình từ lúc bắt đầu cho đến giai đoạn ban hành ra văn bản
áp dụng pháp luật. Cũng vì đặc điểm này, mà có ý kiến đã cho rằng “áp dụng
pháp luật không chỉ là hình thức thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật
mà còn là một phương tiện để tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật
trong đời sống...”và “áp dụng pháp luật như là hình thức pháp luật thứ hai
để quản lý xã hội” [11, tr.422].
Ngoài ra, đặc điểm này còn được thể hiện ở chỗ ADPLHS được tiến
hành theo ý chí đơn phương của Nhà nước. Tức là không tồn tại sự thỏa thuận
11


giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra với bị can, bị cáo và không bị
ảnh hưởng bởi ý chí của chủ thể bị áp dụng pháp luật. Suy cho cùng, Tòa án,
Viện kiểm sát hay Cơ quan điều tra họ không nhân danh họ mà họ đang nhận
danh Nhà nước, đại diện cho ý chí của Nhà nước cho tính tối cao của quyền
lực nhà nước. Và ý chí của Nhà nước được thể hiện rất rõ trong các văn bản
quy phạm pháp luật. Họ đang thực hiện chức trách chuyển hóa các quy định
của pháp luật hình sự để giải quyết vụ án một cách khách quan nhất.
Thứ hai, áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động được tiến hành theo
những hình thức và thủ tục được pháp luật hình sự quy định rất rõ ràng và
chặt chẽ.
Cũng giống như áp dụng pháp luật thì ADPLHS cũng không thể áp
dụng một cách tùy tiện. Để giải quyết một vụ án hình sự cần phải có một quy
trình rất rõ ràng từ giai đoạn điều tra, khởi tố hay là xét xử đều phải cơ sở,
điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình áp
dụng. Tất cả các quy trình, thủ tục được cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng hình
sự. Và điều này đồng nghĩa với việc ADPLHS không phải một hoạt động tùy
tiện mà phải theo quy trình chặt chẽ.
Thứ ba, ADPLHS là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với quan
hệ pháp luật hình sự.

Nếu như việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực và có hiệu lực gần như phổ biến
cho mọi chủ thể thì đối tượng của áp dụng pháp luật là sự điều chỉnh cá biệt,
cụ thể cho quan hệ xã hội khi có sự kiện phạm tội. Bằng hoạt động ADPLHS ,
những quy định về pháp luật hình sự được cá biệt hóa, cụ thể hóa vào đời
sống của xã hội.
Thứ tư, áp dụng pháp luật hình sự đòi hỏi tính sáng tạo.

12


Khi nói đến áp dụng pháp luật là nói đến đặc điểm cá biệt cụ thể và
ADPLHS cũng không ngoại lệ đặc điểm này. Khi giải quyết một vụ án hình
sự nào đó, có nghĩa là khi cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự
họ phải nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, khách quan các tình tiết của vụ án, làm
sáng tỏ cấu thành tội phạm để lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp, ra văn
bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành văn bản đó. Khi mà các quy định
của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng mang tính chất khái
quát cao trong khi đó thực tế thì muôn màu muôn vẻ nên khi chuyển hóa các
quy định của pháp luật hình sự vào đời sống, bản thân các chủ thể áp dụng
pháp luật phải sáng tạo và sự sáng tạo này nằm trong giới hạn sự cho phép của
nhà nước. Để áp dụng pháp luật hình sự tốt, Tòa án, Viện kiểm sát hay Cơ
quan Điều tra phải có ý thức pháp luật cao, có kiến thức tổng hợp, có kinh
nghiệm sống phong phú và có bản lĩnh nghề nghiệp.
Thứ năm, hình thức thể hiện chính thức của hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự chính là văn bản áp dụng pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, nhà chức trách ban hành trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật, áp
dụng vào từng trường hợp cụ thể nhằm xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ
thể. Thiếu nó, nhiều quy phạm pháp luật cụ thể không thực hiện được. Nó

luôn mang tính bổ sung trong trường hợp khi có yếu tố khác của vụ án xuất
hiện. Văn bản áp dụng pháp luật được thể hiện dưới những hình thức pháp lý
nhất định.
1.1.3. Mục đích áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác
Pháp luật muốn thực sự đi vào đời sống xã hội ngoài các yếu tố như
điều kiện kinh tế, lịch sử, trình độ dân trí thì Nhà nước còn phải hết sức quan
tâm đến công tác tổ chức áp dụng pháp luật một cách nghiêm minh. Suy cho
13


cùng, Nhà nước muốn duy trì được sự ổn định cần phải ban hành pháp luật.
Nhưng nếu ban hành rồi để đó thì chứng tỏ một điều sự quản lý của Nhà nước
không mang lại hiệu quả. Mục đích trực tiếp của áp dụng pháp luật nói chung
cũng như ADPLHS nói riêng là bảo đảm cho các quy phạm pháp luật được
thực hiện trong đời sống thực tế. Thiếu đi hoạt động này coi như các quy
phạm về tội phạm hay hình phạt của BLHS không có giá trị.
Việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe cho người khác có vai trò cơ bản như sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật hình sự đối với tội danh này giúp bảo vệ
sức khỏe của con người trước nguy cơ bị xâm hại của tội phạm, đồng thời răn
đe và giáo dục người phạm tội.
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Mọi người có quyền sống. Tính
mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai tước đoạt tính mạng trái
pháp luật; Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh sự, nhân phẩm.” Sức khỏe là thứ vô giá của con người.
Mọi hành vi xâm phạm tới sức khỏe của con người thông qua việc làm cho
người nào đó mất đi một phần hay toàn bộ sức lực của chính người đó đều bị

lên án và phải chịu trách nhiệm. Hiện nay, tình trạng cố ý gây thương tích cho
người khác chúng ta có thể bắt gặp bất cứ nơi đâu với bất kỳ thủ đoạn nào và
ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sức khỏe thậm chí là cả tính mạng của con
người. Nếu áp dụng pháp luật không hợp lý, không khách quan đúng người
đúng tội dẫn đến hình phạt được áp dụng tương ứng không đủ mạnh để răn đe
giáo dục và dẫn đến tình trạng tái phạm nhiều lần và càng ngày càng quy mô.
Việc áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan có thẩm quyền mang lại
hiệu quả một phần nào đó có thể củng cố được niềm tin của người dân đối với
14


Nhà nước. Làm hạn chế được tình trạng xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe
của con người và nâng cao được ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
Thứ hai, ADPLHS đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác bảo vệ an toàn, trật tự xã hội.
Hành vi xâm phạm tới sức khỏe của người khác bên cạnh làm ảnh
hưởng tới nền kinh tế thì nó đặc biệt ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội
cũng là nguồn gốc phát sinh ra nhiều hệ lụy nguy hiểm. Thực tế cho chúng ta
thấy các cuộc ẩu đả, gây gổ đánh nhau thường xuyên xảy ra tại nơi đông
người xâm phạm an toàn, trật tự xã hội. Bên cạnh đó, nó cũng có thể là
nguyên nhân cho hành vi giết người, phá hoại tài sản làm mất trật tự. Nếu
APLHS đạt hiệu quả sẽ phần nào giảm bớt những tác hại mà do tội phạm này
gây ra.
Thứ ba, hoạt động ADPLHS đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác có vai trò trong việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật hình sự.
Thực tiễn là cái chứng minh quy định của pháp luật phù hợp hay không
phù hợp. Thông qua hoạt động đưa các quy phạm pháp luật hình sự về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác rút ra được quy
định này đã toàn diện hay chưa? Có lỗ hổng nào không? Hay việc quy định

pháp luật mà mỗi người hiểu khác nhau không thống nhất dẫn đến tình trạng
lúng túng, áp dụng pháp luật một cách tùy tiện. Trong quá trình ADPLHS còn
giúp phát hiện ra những vi phạm mới nhưng chưa có quy phạm pháp luật điều
chỉnh, hay quy phạm lỗi thời không còn phù hợp với xã hội ngày nào. Và trên
cơ sở đó, nảy sinh những tư duy pháp lý phù hợp đóng góp với việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.

15


Thứ tư, ADPLHS đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác là một trong các hình thức phổ biến và tuyên truyền
giáo dục pháp luật cho người dân.
Khi cơ quan nhà nước áp dụng pháp luật nói chung và ADPLHS nói
riêng họ sẽ tiến hành phân tích, giải thích pháp luật chỉ ra những gì người
phạm tội đã thực hiện và các chế tài tương ứng với hành vi phạm tội đó. Nhờ
đó, mà có thể chuyển tải kiến thức pháp luật cho người dân đặc biệt thông qua
các phiên tòa xét xử công khai đến tận nơi xảy ra vụ án hoặc vùng sâu vùng
xa.
1.2.Cơ sở, nguyên tắc, nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.2.1. Cơ sở của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Hoạt động áp dụng pháp luật nói chung cũng như ADPLHS đối với tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải dựa
trên cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý. “Ở lĩnh vực khác, nếu như pháp luật có
thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau (không chỉ bằng cách áp
dụng pháp luật) thì cần nhấn mạnh rằng, không tồn tại những cơ sở riêng của
ADPL mà chỉ tồn tại những cơ sở chung của thực hiện pháp luật. Bất cứ một
hình thức thực hiện pháp luật nào khi được tiến hành cũng đều dựa trên hại

cơ sở là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế” [26, tr.24].


Cở sở pháp lý
Pháp luật hình sự được coi là cơ sở pháp lý của việc ADPLHS. Các quy

phạm pháp luật được Nhà nước ban hành với mục đích xây dựng một hành
lang pháp lý cho hành vi xử sự của chủ thể. Các quy định của pháp luật hình
sự có thể đơn lẻ hoặc đã được pháp điển hóa, có thể là đạo luật hay các văn
bản hướng dẫn của cơ quan lập pháp hay cơ quan tư pháp. Điều 2 BLHS năm
16


2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định rõ: “1. Chỉ người nào phạm một tội
đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm pháp lý; 2. Chỉ
pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của
Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Như vậy, muốn áp dụng pháp luật hình sự phải dựa vào các quy phạm
hình sự, và các quy phạm này có thể nằm trong các văn bản đơn lẻ nhưng
trọng tâm nhất chính là BLHS năm 2015. Hiện nay, BLHS hiện hành quy định
hàng trăm quy phạm điều chỉnh về hai nhóm đối tượng đó là tội phạm và hình
phạt.
Cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là cấu thành tội này được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015.
Đương nhiên, muốn làm rõ các dấu hiệu của cấu thành tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì ngoài quy định tại Điều
134

BLHS thì còn phải dựa vào các quy định khác ở Phần Chung và Phần các


tội phạm của Bộ luật hình sự. Cụ thể: Điều 134. Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác ■ Cơ sở thực tiễn
Những tình huống xảy ra trên thực tế, xuất hiện trong đời sống hằng
ngày chính là cơ sở thực tế của việc áp dụng pháp luật. Trong thực tiễn, hành
vi do người đủ năng lực trách nhiệm pháp lý cố ý xâm phạm tới sức khỏe gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chính là căn cứ để
cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự đối với cá nhân
đã thực hiện hành vi đó. Như vậy, cơ sở thực tiễn của hoạt động ADPLHS đối
với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
chính là hành vi trái pháp luật của chủ thể gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
17


1.2.2. Nguyên tắc của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Những nguyên tắc ADPLHS là những tư tưởng chỉ đạo làm nền tảng
cho quá trình vật chất hóa quy phạm pháp luật vào việc giải quyết vụ án hình
sự thông qua việc chi phối các giai đoạn của quá trình ADPLHS [29, tr.75].
Nhìn chung, những nguyên tắc của ADPLHS trước hết được quy định bởi
chính pháp luật được áp dụng, bao gồm luật hình thức và luật nội dung. Việc
ADPLHS nói chung và đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người nói riêng được dựa trên những nguyên tắc của luật hình
sự và những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Cụ thể:
Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế là việc tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh và triệt để
từ phía các cơ quan nhà nước, tổ chức, công dân [27, tr. 26]. Trong luật hình
sự, nguyên tắc này có nghĩa là chỉ có luật hình sự mới có thể quy định hành vi

nào là tội phạm và hậu quả pháp lý có thể xảy ra đối với người phạm tội.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc “có luật, có tội; không có luật, không
có tội”. Như vậy, nếu như chủ thể không cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác sẽ không bị coi là tội phạm của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và cũng không phải
chịu trách nhiệm pháp lý về tội phạm này.
Trong hoạt động ADPLHS , nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi việc
xét xử đúng người, đúng tội; “Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp
thời, xử lý nhanh chóng” (khoản 1, Điều 3, BLHS năm 2015). Để đảm bảo
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức xã hội và công dân
trong quá trình giải quyết vụ án. Việc tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh trong
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan Điều
18


×