Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH LỮ HÀNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 84 trang )

NGUYỄN THỊ THÁI
KHÓA 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THÁI

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH LỮ HÀNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THÁI

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH LỮ HÀNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT



HÀ NỘI, NĂM 2020


LỜI CẢM ƠN
Để có được thành quả như ngày hôm nay, tôi vô cùng biết ơn gia đình, biết ơn
Ban giám đốc, các cán bộ quản lý, các nhân viên trong khoa Luật học của Học viện
Khoa học xã hội, các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt cho tôi những
kiến thức vô cùng bổ ích cho tôi mà trước đó tôi chưa từng được tiếp cận tới.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Như Phát người
đã dành nhiều thời gian, tâm huyết và tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn
này
Người thực hiện

Nguyễn Thị Thái


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình của nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Như Phát. Các số liệu trong luận
văn được tác giả thu thập dưới nhiều hình thức khác nhau, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng quy định. Trong luận văn, tác giả có sử dụng một số nhận xét,
đánh giá của một số tác giả khác, có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Kết quả
nghiên cứu của luận văn chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin
cam đoan và chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với nội dung nghiên cứu của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Nguyễn Thị Thái



MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT ĐIỀU
KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH LỮ HÀNH .......................................6
1.1. Khái quát về du lịch lữ hành và điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành ...........................6
1.2. Pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành................................................................... 20

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
DỊCH VỤ DU LỊCH LỮ HÀNH TỪ THỰC TIỄN TP. HỒ CHÍ MINH ..........29
2.1. Quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành ....................................... 29
2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành từ thực tiễn Tp.
Hồ Chí Minh .................................................................................................................................... 44
2.3. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật về điều kiện kinh
doanh dịch vụ du lịch lữ hành .......................................................................................................... 57

Chương 3. HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH LỮ HÀNH .......................... 62
3.1. Yêu cầu khách quan hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành.... 62
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật ...................................................................................... 65
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả pháp luật ..................................................................................... 71

KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Stt


Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

ASEAN

Hiệp hội các nước Đông Nam Á

2

AVFTA

Hiệp định thương mại Việt Nam - Liên minh Châu Âu

3

Cty

Công ty

4

CP

Cổ phần

5


DL

Du lịch

6

DV

Dịch vụ

7

DVLH

Dịch vụ lữ hành

8

ĐVT

Đơn vị tính

9

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

10


HĐQT

Hội đồng quản trị

11

HDV

Hướng dẫn viên

12

MTV

Một thành viên

13

TM&DV

Thương mại và dịch vụ

14

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

15


Tp.

Thành phố

16

USD

Đô la Mỹ

17

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH
Bảng 2.1. Số khách du lịch nội địa và quốc tế đến Tp. Hồ Chí Minh
Bảng 2.2. Top 10 doanh nghiệp lữ hành inbound hàng đầu Tp.Hồ Chí Minh
Bảng 2.3. Top 10 công ty du lịch – lữ hành uy tín năm 2019
Hình 2.1. Doanh thu của các cơ sở lữ hành tại Tp. Hồ Chí Minh, giai đoạn
2013 – 2017
Hình 3.1. Số khách du lịch quốc tế đến trên Thế giới, giai đoạn 1990 – 2016


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch đang là ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Tuy nhiên ngành du lịch của nước ta còn non trẻ, tỷ trọng đóng

góp trong GDP chưa cao, năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch trên trường quốc tế
còn hạn chế. Để phát huy những lợi thế vốn có của Việt Nam trong phát triển du
lịch như: lịch sử lâu đời, bản sắc văn hóa đa dạng, nhiều bãi tắm, hang động đẹp,
nhiều địa danh nổi tiếng, đồng thời tăng lợi thế cạnh tranh của ngành Du lịch với
các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới, và nhằm tạo hành lang pháp lý
an toàn cho ngành Du lịch, Luật du lịch ra đời là để đáp ứng các nhu cầu đó của xã
hội.
Kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành là một ngành kinh doanh có điều kiện, do
Luật Du lịch điều chỉnh; sản phẩm là các chương trình du lịch, tour du lịch, trong
đó, công ty lữ hành là cầu nối giữa khách du lịch với các dịch vụ khác để phục vụ
du khách.
Luật Du lịch 2005 ban hành cách đây không lâu nhưng đã bộc lộ những điểm
chưa phù hợp với thực tiễn xã hội. Do đó, Luật Du lịch 2017 ra đời thay thế cho
Luật du lịch 2005, tuy nhiên khi đi vào thực tiễn vẫn còn nhiều khiếm khuyết, cần
được sửa đổi, bổ sung.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch quốc gia, có nhiều tài nguyên để
phát triển du lịch, trong đó có lợi thế hơn hẳn về cơ sở vật chất, điều kiện để tổ chức
các hội nghị, hội thảo, triển lãm, các sự kiện thể thao hay các bệnh viện lớn để chữa
bệnh. Dựa trên các lợi thế này, có thể phát triển các loại hình du lịch kết hợp hội
nghị, hội thảo, triễn lãm, du lịch thể thao hay du lịch khám chữa bệnh. Là một trong
những thành phố phát triển năng động bậc nhất ở nước ta, hiện tại trên địa bàn Tp.
Hồ Chí Minh có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành hoạt động
nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, đội ngũ
HDV du lịch đông đảo cũng góp phần rất lớn vào sự phát triển của du lịch Thành
1


phố nói riêng và ngành Du lịch của cả nước nói chung. Tuy nhiên trên thực tế, các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành cũng như Hướng dẫn viên du lịch tham
gia hoạt động trong ngành Du lịch vẫn còn nhiều vấn đề, vì vậy công tác kiểm tra,

giám sát để hoạt động theo pháp luật là điều cần phải chú trọng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để điều chỉnh các hoạt động Du lịch, nhà nước đã ban hành các văn bản pháp
lý từ năm 1960, trải qua năm tháng, các văn bản pháp luật này đã có những thay
đổi, chủ yếu điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tiễn phát triển của xã hội. Tuy
nhiên, dưới góc độ pháp lý, Luật Du lịch nói chung và các điều kiện kinh doanh về
dịch vụ du lịch lữ hành nói riêng còn có nhiều kẽ hở, nhiều nội dung chưa đi vào
thực tiễn, vì vậy đã có nhiều công trình khoa học khác nhau nghiên cứu về các nội
dung này. Đối với đề tài này đã có có các công trình nghiên cứu như sau:
Luận văn thạc sĩ của Lê Công Bằng: Pháp luật kinh doanh lữ hành (2014) Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh. Ở luận văn này đã có những đánh giá đúng đắn về tầm
quan trọng của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động du lịch
lữ hành, bàn đến phát triển du lịch bền vững, tuy nhiên, luận văn này cơ sở pháp lý
thực tiễn là luật Du lịch 2005 nên ở thời điểm hiện tại đã có nhiều điểm không còn
phù hợp.
Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Tâm: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch
theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình (2018) Học viện Khoa học xã
hội. Luận văn này chủ yếu mới chỉ hệ thống hóa các văn bản pháp luật, nêu một
cách chung chung, chưa có những đánh giá cụ thể. Đặc biệt, đối với luận văn này
đang đánh giá hoạt động du lịch nội địa nói chung, bao gồm hoạt động lữ hành và
hoạt động lưu trú, phạm vi về không gian trong địa bàn tỉnh Ninh Bình nên có thể
xem là không trùng lặp với đề tài của học viên.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Minh Thảo: Điều kiện kinh doanh du lịch lữ
hành theo pháp luật Việt Nam hiện nay (2018) Học viên Khoa học xã hội. Đối với
luận văn này đã có nhiều đóng góp có giá trị thực tiễn, tuy nhiên, tác giả của luận

2


văn đang đánh giá các văn bản pháp luật chung, trên phạm vi toàn quốc, đề tài có

nhiều bảng biểu nêu lên chưa được xử lý triệt để.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Loan: Pháp luật về kinh doanh lữ
hành – Thực trạng và hướng hoàn thiện (2010) Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh. Luận
văn này đánh giá khá tốt về hoạt động du lịch lữ hành, đề ra các phương án cho
TP.Hồ Chí Minh nhưng cơ sở pháp lý thực tiễn là luật du lịch 2005, tức là người
viết đã viết khi Luật du lịch 2017 chưa ra đời.
Ngoài ra, học viên còn tham khảo them một số đề tài luận văn của các tác giả
khác, nhưng về “Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành theo Pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” không trùng lặp và cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến điều kiện kinh doanh
dịch vụ du lịch lữ hành, từ đó phân tích, đánh giá các quy định pháp luật liên quan
đến doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành áp dụng thực tiễn trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
Từ kết quả nghiên cứu, luận văn chỉ ra những khó khăn, vướng mắc của các
quy định pháp luật và đề xuất các biện pháp tháo gỡ để nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý thuyết về điều kiện kinh doanh và pháp luật về
điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực lữ hành;
- Hệ thống hóa các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch
lữ hành, bao gồm các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, điều kiện trở thành hướng
dẫn viên du lịch theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành và chỉ
ra những ưu điểm cũng như hạn chế trong quá trình thực hiện pháp luật của các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lich lữ hành từ thực tiễn Tp. Hồ Chí Minh.

3



- Đề xuất các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, nâng cao hiệu quả thực hiện và
thi hành pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về điều kiện kinh
doanh dịch vụ du lịch lữ hành ở Việt Nam hiện nay, bao gồm Luật du lịch 2005,
Luật Du lịch 2017, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014 và các Nghị định,
Thông tư hướng dẫn liên quan khác.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành,
bao gồm các điều kiện về thành lập doanh nghiệp lữ hành như điều kiện về ký quỹ,
về người phụ trách kinh doanh; điều kiện về hướng dẫn viên; các điều kiện kinh
doanh của đại lý lữ hành, điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài qua thực tiễn Tp. Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên nền tảng cơ sở lý luận về pháp luật Du lịch, đặc
biệt là những vấn đề về kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành, từ đó làm rõ các vấn đề
lý thuyết được nêu ra trong luận văn.
Đề tài được triển khai nghiên cứu với phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vậy biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm:
phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh, nhận xét, phương pháp lịch sử
để hoàn thành luận văn.
Phương pháp tổng hợp và phân tích: nhằm làm sang tỏ những vấn đề lý luận
của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành.
Phương pháp so sánh: so sánh các quy định pháp luật cũ và pháp luật mới, so
sánh giữa luật Du lịch với các pháp luật lien quan khác có cùng quy định về điều
kiện kinh doanh, từ đó đưa ra các hạn chế, chồng chéo, thiếu sót của pháp luật.


4


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về mặt khoa học, đề tài nghiên cứu có tính hệ thống từ lý luận đến thực tiễn,
đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành
và các nguyên tắc trong kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành, là cơ sở để những
người làm khoa học làm tài liệu tham khảo nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật kinh
doanh dịch vụ du lịch lữ hành.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở các vấn đề lý luận đã được phân tích, đánh giá và
đại diện áp dụng trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh, đề tài có thể được dùng để tham
khảo cho các doanh nghiệp đề xuất các biện pháp áp dụng pháp luật để hợp tác,
kinh doanh có hiệu quả.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
các từ ngữ viết tắt, kết cấu luận văn được chia làm 3 chương chính.
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về điều kiện kinh doanh
dịch vụ du lịch lữ hành.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ
hành từ thực tiễn Tp. Hồ Chí Minh.
Chương 3. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật về điều kiện kinh doanh
dịch vụ du lịch lữ hành.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT ĐIỀU KIỆN
KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH LỮ HÀNH
1.1. Khái quát về du lịch lữ hành và điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch

lữ hành
1.1.1. Khái niệm dịch vụ du lịch lữ hành và kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành
1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ du lịch lữ hành
Với mục tiêu đến năm 2030 ngành du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước [3] của Bộ Chính trị cho thấy Nhà nước đã chú trọng đến
việc đầu tư, phát triển ngành Du lịch nhằm làm cho ngành Du lịch có vị trí quan
trọng trong sự phát triển kinh tế nước nhà.
Dịch vụ du lịch lữ hành là một hình thức kinh doanh của ngành Du lịch, sự
phát triển của kinh doanh dịch vụ lữ hành góp phần quan trọng vào sự phát triển của
ngành Du lịch nói riêng và sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung. Dịch vụ có
nhiều cách định nghĩa khác nhau, dựa vào từng cách tiếp cận ta có:
Dịch vụ là một hoạt động sáng tạo nhằm bổ sung giá trị cho phần vật chất và
làm đa dạng hóa, phong phú hóa, khác biệt hóa… mà cao nhất là trở thành những
thương hiệu, những nét văn hóa kinh doanh và làm hài lòng người tiêu dùng để họ
sẵn sàng trả tiền cao, nhờ đó kinh doanh có hiệu quả [31].
Dịch vụ là hàng hóa có tính vô hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng không
tách rời nhau, bao gồm các loại dịch vụ trong hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam
theo quy định của pháp luật [21].
Theo Philip Kotler, dịch vụ là bất kỳ hoạt động hay lợi ích nào mà chủ thể này
cung cấp cho chủ thể kia, trong đó đối tượng cung cấp nhất thiết phải mang tính vô
hình và không dẫn đến quyền sở hữu một vật nào cả, còn việc sản xuất dịch vụ có
thể hoặc không có thể gắn liền với một sản phẩm vật chất nào.
Theo định nghĩa thứ nhất, dịch vụ là một hoạt động bổ sung nhằm làm đa
dạng, phong phú và khác biệt hơn từ những sản phẩm vật chất đã có sẵn nào đó, từ

6


đó người sử dụng dịch vụ họ sẵn sàng chi trả một mức chi phí cao hơn cho sản
phẩm vật chất thông qua các hoạt động dịch vụ.

Ở định nghĩa thứ 2, Luật Giá 2012 tại khoản 2 điều 4 thì dịch vụ là hàng hóa
có tính vô hình.
Định nghĩa thứ 3, Philip Kotler cho rằng, dịch vụ là một sản phẩm vô hình,
trong quá trình chủ thể cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ không có sự
chuyển giao quyền sở hữu cho nhau, việc sản xuất dịch vụ thì có thể hoặc không có
thể gắn liền với một sản phẩm vật chất nào, nhưng cả người cung cấp dịch vụ và
người sử dụng dịch vụ đều sẵn sàng chi trả - đón nhận tiền từ dịch vụ mà mình được
cung cấp và đã cung cấp.
Như vậy ở cả 3 định nghĩa nói trên, điểm chung nhất mà tất cả đều công nhận
là “dịch vụ là sản phẩm vô hình”. Đúng vậy, dịch vụ nó có tính cầu nối, xúc tiến
giữa sản xuất và tiêu dùng, nó không thể cầm nắm được nhưng lại làm tăng giá trị
sản phẩm hàng hóa, là các sản phẩm hữu hình mà chúng ta sử dụng.
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu
cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết
hợp với mục đích hợp pháp khác [26]
Du lịch là một hoạt động của con người, đi tới một nơi ngoài môi trường
thường xuyên trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ
chức Du lịch đã quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành
các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng đến thăm”[17].
Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi ở
thường xuyên [10,tr.15]
Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động hướng dẫn du lịch,
sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các
nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác
của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế - chính trị - xã hội
thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp[14].
7



Trong 4 định nghĩa nói trên, có đến 3 định nghĩa cho rằng, Du lịch là “những
chuyến đi”, rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để đến nơi khác khám phá, tham quan,
trải nghiệm, không có mục đích kiếm tiền ở hoạt động du lịch này.
Đối với định nghĩa thứ 4, định nghĩa Du lịch trên khía cạnh kinh tế, dưới cách
nhìn của người quản lý kinh tế, nó vẫn đảm bảo chung là “đáp ứng nhu cầu đi lại,
trao đổi, lưu trú, ăn uống, tham quan giải trí….”. Nghĩa là vẫn có điểm giống với 3
định nghĩa kể trên.
Như vậy có thể hiểu Du lịch là ngành kinh tế mà ở đó chủ thể của nó bao gồm
khách du lịch, các nhà quản lý kinh tế, những người tham gia vào các hoạt động
khác xúc tiến cho những chuyến tham quan của khách du lịch được thỏa mãn một
số nhu cầu nhất định nào đó của khách tham quan. Qua các hoạt động này, các nhà
quản lý kinh tế địa phương sẽ thu được nguồn lợi từ khách du lịch mang lại.
Lữ hành có nhiều cách hiểu khác nhau, lữ hành là một từ Hán Việt, theo Đại
từ điển Hán Việt thì Lữ hành có nghĩa là đi đường xa [35,tr.1067]
Lữ hành là tất cả những hoạt động di chuyển của con người cũng như những
hoạt động liên quan đến sự di chuyển đó [16,tr.48]
Theo nghĩa rộng, lữ hành là tất cả sự di chuyển của con người từ nơi này đến
nơi khác, bằng bất kỳ phương tiện gì, với bất kỳ lý do gì. Ở nghĩa rộng này, cho
thấy lữ hành có tương đồng với du lịch như đã phân tích ở trên, tuy nhiên không
phải tất cả các hoạt động của lữ hành đều là du lịch, bởi quá trình vận chuyển đó
hành khách có nhiều mục đích khác nhau, có thể là những chuyến công tác, có thể
là học sinh sinh viên, có thể là thăm khám, chữa bệnh hay một lý do nào khác,
không vì mục đích kiếm tiền trong chuyến đi đó.
Cũng từ những phân tích của khái niệm du lịch ở trên, ta thấy không phải tất
cả các hoạt động của Du lịch đều là lữ hành, bởi kinh doanh Du lịch còn có cả nhà
hàng, khách sạn và các dịch vụ khác. Như vậy, trong lữ hành có Du lịch, và trong
Du lịch có cả lữ hành.
Từ những khái niệm kể trên, có thể định nghĩa về “Dịch vụ du lịch lữ hành” là
một ngành kinh tế mà ở đó các sản phẩm du lịch được tổ chức trọn gói, dịch vụ
8



cung cấp cho khách bao gồm dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống,
dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ hướng dẫn du lịch và các dịch vụ khác nhằm thỏa
mãn các nhu cầu liên quan trong chuyến đi của du khách [13,tr.6]. Trong giới hạn
của đề tài, du lịch lữ hành được hiểu là dịch vụ du lịch lữ hành, hay nói gọn lại là
dịch vụ lữ hành để thống nhất với các nội dung văn bản pháp luật điều chỉnh các
hoạt động liên quan.
1.1.1.2. Khái niệm kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành
Dịch vụ du lịch lữ hành như phân tích và thống nhất ở mục 1.1.1.1, ta hiểu
dịch vụ du lịch lữ hành như dịch vụ lữ hành, từ đó Kinh doanh dịch vụ du lịch lữ
hành cũng sẽ hiểu như Kinh doanh dịch vụ lữ hành.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh thì Kinh doanh dịch vụ lữ hành là việc
doanh nghiệp đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các công việc trong quá
trình tạo ra và chuyển giao sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng du
lịch nhằm mục đích hưởng hoa hồng hoặc lợi nhuận… có thể kinh doanh một hoặc
nhiều hơn một hoặc tất cả các dịch vụ và hàng hóa thỏa mãn hết tất cả các nhu cầu
thiết yếu, đặc trưng và các nhu cầu khác của khách du lịch [16,tr.48]. Việc kinh
doanh có thể bao gồm các dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống, tổ chức tour, cho
thuê dịch vụ vận chuyển, thông qua các dịch vụ này, doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành sẽ hưởng được hoa hồng hoặc lợi nhuận. Ở định nghĩa này, ta sẽ thấy dịch vụ
lữ hành nó rộng lớn như dịch vụ du lịch nói chung, giống như cách hiểu của các nhà
khoa học phương Tây về việc xem lữ hành là du lịch.
Ở một định nghĩa khác về kinh doanh dịch vụ lữ hành là việc “làm nhiệm vụ
giao dịch, ký kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây
dựng và thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch [10,tr.77].
Định nghĩa này chỉ ra tương đối rõ về các nhiệm vụ cụ thể của kinh doanh dịch vụ
lữ hành, đó là “làm nhiệm vụ giao dịch, ký kết” nghĩa là doanh nghiệp kinh doanh
lữ hành có hợp đồng với các công ty du lịch, các tổ chức du lịch trong và ngoài
nước để thực hiện các chương trình du lịch. Để làm được công việc này chỉ có thể là

doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, các đại lý lữ hành. Các tour di lịch, chương trình
9


d lịch có thể được khách hàng mua trực tiếp tại các doanh nghiệp dịch vụ lữ hành
hoặc thông qua các đại lý lữ hành, tùy vào cách tiếp cận của khách du lịch.
Còn theo Luật du lịch 2017, Kinh doanh dịch vụ lữ hành là việc xây dựng,
bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du
lịch [36]. Theo đó, kinh doanh dịch vụ lữ hành phân biệt với các hoạt động kinh
doanh dịch vụ du lịch khác như kinh doanh nhà hàng, kinh doanh dịch vụ lưu trú,
vui chơi giải trí. Trong Luật Du lịch 2017, kinh doanh dịch vụ lữ hành chú trọng
vào việc xây dựng, tổ chức một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch. Hay nói
gọn lại, kinh doanh dịch vụ lữ hành là kinh doanh chương trình du lịch. Cũng theo
Luật Du lịch 2017 thì “Chương trình du lịch là văn bản thể hiện lịch trình, dịch vụ
và giá bán được định trước cho chuyến đi của khách du lịch từ điểm xuất phát đến
điểm kết thúc chuyến đi [26].
Muốn thực hiện được các chương trình du lịch, các công ty du lịch, đại lý du
lịch đã khai thác nhu cầu của khách du lịch, liên kết các dịch vụ ăn uống, vui chơi
giải trí, tham quan, lưu trú ở các địa phương để tạo thành các tour du lịch trọn gói,
bán với giá gộp cho khách du lịch. Du khách thường sử dụng các dịch vụ của các
công ty lữ hành, đại lý lữ hành, bởi vì sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí cho việc
tìm kiếm thông tin, tổ chức các chuyến du lịch. Đó cũng là lý do tại sao các doanh
nghiệp hằng năm cho nhân viên đi du lịch họ thường đăng ký qua các công ty lữ
hành, để sử dụng các dịch vụ trọn gói. Không phải những người quản lý công đoàn
các công ty, xí nghiệp, đoàn thể không thể tự tìm kiếm các danh tham thắng cảnh,
các nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí, mà việc thực hiện các công việc này
làm cho họ mất nhiều thời gian, lại không được giá rẻ như mong muốn, hoặc có thể
có giá rẻ, nhưng lại mang đến những phiền phức không đáng có (thanh toán tiền các
dịch vụ ăn uống, mua vé các dịch vụ vui chơi giải trí, thanh toán tiền lưu trú…).
Trên thực tế, kinh doanh dịch vụ lữ hành tồn tại hai hoạt động phổ biến: Kinh

doanh lữ hành (Tour operator) và kinh doanh đại lý lữ hành (Travel agency)
- Kinh doanh lữ hành là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường,
thành lập các chương trình du lịch trọn gói, hay từng phần; Quảng cáo và bán các
10


chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện,
tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch [10,tr.77].
- Kinh doanh lữ hành là kinh doanh các chương trình du lịch, nó được tổng
hợp từ các dịch vụ riêng lẻ, có giá cả cao hơn, khi các công ty lữ hành tổ chức
nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của khách du lịch, liên kết các sản phẩm riêng lẻ lại
với nhau, thay vì bán lẻ, họ bán sỉ với giá thành thấp hơn so với giá bán lẻ các sản
phẩm, điều này giúp cho việc đăng ký khách đoàn thường có giá thấp hơn so với
khách lẻ. Với mỗi loại hình du lịch người làm chương tình sẽ chia ra các loại hình
du lịch khác nhau như du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch nghỉ ngơi.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp lữ hành, Luật Du lịch
2017 chia kinh doanh dịch vụ lữ hành ra làm 2 loại: Kinh doanh dịch vụ lữ hành nội
địa và Kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế.
Kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa là doanh nghiệp xây dựng, quảng cáo, bán
và thực hiện các chương trình du lịch cho khách nội địa, các doanh nghiệp lữ hành
nội địa không được kinh doanh lữ hành quốc tế [26].
Kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế phục vụ khách quốc tế đến Việt Nam
(inbound) và khách du lịch Việt Nam ra nước ngoài (outbound). Các doanh nghiệp
lữ hành quốc tế thực hiện việc quảng bá, tổ chức các chương trình du lịch cho khách
quốc tế. Các doanh nghiệp lữ hành quốc tế được thực hiện các tour lữ hành quốc tế
và các tour lữ hành nội địa.
- Kinh doanh đại lý lữ hành (Travel agency): là việc tổ chức, cá nhân nhận bán
chương trình du lịch của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành cho khách du
lịch để hưởng hoa hồng [26]. Kinh doanh đại lý lữ hành chủ yếu làm trung gian để
bán các chương trình du lịch cho khách du lịch nhằm hưởng hoa hồng. Các Đại lý

lữ hành không làm tăng giá trị sản phẩm, không được phép xây dựng các chương
trình du lịch để bán cho khách du lịch. Các đại lý hoạt động với vai trò là trung
gian, thông qua đại lý lữ hành khoảng cách giữa cơ sở kinh doanh du lịch và khách
du lịch được xích lại gần nhau hơn.

11


1.1.2. Khái niệm điều kiện kinh doanh và điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành
1.1.2.1. Khái niệm điều kiện kinh doanh
Mọi người có quyền tự do kinh doanh mọi ngành nghề mà pháp luật không
cấm [21]. Tuy nhiên, quyền tự do kinh doanh luôn gắn liền với một hệ thống pháp
luật cụ thể, một quốc gia nhất định và trong một nước có pháp luật tự do nghĩa là
làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm [1,tr.101]
Trong bối cảnh đó quan niệm về tự do kinh doanh và giới hạn quản lý của nhà nước
đối với sự phát triển của thị trường luôn có những bước phát triển mới. Với mỗi giai
đoạn phát triển, pháp luật lại có những thay đổi trong việc nhận định lại nội hàm
của quyền tự do kinh doanh. Một lẽ đương nhiên khi quyền tự do kinh doanh của cá
nhân được mở rộng, pháp luật phải thay đổi cách thức và nội dung quản lý nhà nước
đối với thị trường [28,tr.52]. Mỗi quốc gia khác nhau đều xây dựng cho mình những
khung pháp lý nhất định để quản lý kinh tế - xã hội nước nhà. Tùy vào trình độ phát
triển của mỗi quốc gia, giới hạn của sự tự do là khác nhau, không quốc gia nào hoàn
toàn giống quốc gia nào cả.
Để hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh, Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật
Đầu tư 2014 đã được xây dựng với phương thức tiếp cận theo hướng đơn giản hóa
điều kiện và thủ tục đăng kí kinh doanh, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy
định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết, tự chủ trong hoạt động của doanh
nghiệp[15,tr.36]. Tại khoản 1, Điều 7, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định doanh
nghiệp có quyền được “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không
cấm”[24]. Quyền tự do kinh doanh được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiện

hành cho phép doanh nghiệp được quyền lựa chọn để kinh doanh tất cả các ngành,
nghề; trừ một số ngành nghề có thể gây ảnh hưởng xấu tới an ninh quốc phòng, trật
tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục được liệt kê trong danh mục
ngành nghề cấm kinh doanh [15,tr.36]. Tuy nhiên, quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp không thể là tuyệt đối, trong một số trường hợp cần thiết vẫn phải có
những giới hạn cụ thể, các giới hạn pháp luật đưa ra để quy định cho những ngành
nghề đặc thù ta gọi là điều kiện kinh doanh.
12


Điều kiện kinh doanh là điều kiện mà pháp luật yêu cầu chủ thể kinh doanh
phải có khi kinh doanh trong một số ngành nghề nhất định. Điều kiện kinh doanh
được thể hiện dưới hai hình thức:
1) Giấy phép kinh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
2) Các điều kiện quy định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn
thực phẩm, quy định về phòng cháy, chữa cháy, trật tự xã hội, an toàn giao thông và
quy định về các yêu cầu khác đối với hoạt động kinh doanh.
Tại Điều 7, luật Doanh nghiệp 2005 quy định Đối với ngành, nghề mà pháp
luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định phải có điều kiện thì doanh nghiệp
chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện theo quy định [18].
Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện
khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác [18].
Như vậy, mặc dù doanh nghiệp được tự do kinh doanh, nhưng sự tự do này
nằm dưới khung pháp lý nhất định do nhà nước ban hành và quản lý, Nhà nước đưa
ra những công cụ pháp lý để can thiệp nhất định vào hoạt động kinh doanh để phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. “Điều kiện kinh doanh được xem
như là công cụ quản lý kinh tế của nhà nước, là nội dung không thể thiếu của các
quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy định cụ thể về

điều kiện kinh doanh để phù hợp với yêu cầu quản lý kinh tế và môi trường pháp lý
riêng của quốc gia mình” [32,tr.19].
Theo Luật Đầu tư 2014 thì Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là
ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó
phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng [23].
Tại Khoản 7 Điều 2 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư thì
điều kiện đầu tư kinh doanh là điều kiện mà cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy
13


định của luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Mặt
khác, các quy định này giúp thực hiện các yêu cầu của nhà nước về quản lý hoạt
động kinh tế tốt hơn đối với các nhóm ngành nghề kinh doanh, tạo khung pháp lý để
các chủ thể kinh doanh có quyền tự do kinh doanh trong đó [32,tr.32]. Cũng theo
quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định này thì các điều kiện đầu tư kinh doanh
được áp dụng theo các hình thức sau:
1. Giấy phép; 2. Giấy chứng nhận đủ điều kiện; 3. Chứng chỉ hành nghề; 4.
Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; 5. Văn bản xác nhận; 6. Các hình
thức văn bản khác theo quy định của pháp luật ngoài các hình thức điều kiện trên;
7. Các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để thực hiện hoạt động
đầu tư kinh doanh mà không cần phải có xác nhận, chấp thuận dưới các hình thức
văn bản [24].
Tại Khoản 3 Điều 7 của Luật Đầu tư năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2016)
thì điều kiện đầu tư kinh doanh đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
phải được quy định tại các Luật, Pháp lệnh, Nghị định và Điều ước quốc tế mà
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên [23]. Do vậy, chỉ có Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ mới được ban hành quy định về điều kiện

đầu tư kinh doanh.
Từ những quy định pháp luật cũng như những phân tích ở trên, ta có thể rút ra
khái niệm điều kiện kinh doanh như sau:
Điều kiện kinh doanh là những quy định pháp luật do cơ quan quản lý nhà
nước ban hành để quy định đối với một số ngành nghề đặc thù, ngành nghề đặc thù
đó cần phải có những điều kiện cụ thể để các doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh
phải đảm bảo đủ điều kiện mới được cấp phép kinh doanh, nếu không đủ hoặc chưa
đủ điều kiện thì việc kinh doanh các ngành nghề đó sẽ bị đình chỉ. Khi ban hành các
quy định này là công cụ pháp lý nhằm mục đích quản lý các ngành nghề một cách
có hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà quản lý kinh tế trong bối cảnh
kinh tế thị trường ngày càng biến đổi sâu sắc. Kinh doanh dịch vụ lữ hành là một
14


trong số 243 ngành nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại khoản 2, điều 7,
Luật Đầu tư 2014.
1.1.2.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành
- Đặc điểm của kinh doanh dịch vụ lữ hành
Thứ nhất: Kinh doanh dịch vụ lữ hành là một hoạt động dịch vụ.
Tại khoản 5, Điều 3, Luật Du lịch 2017 sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch
vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên du lịch để thỏa mãn nhu cầu của khách du
lịch [26]. Như vậy, việc cung cấp sản phẩm du lịch chính là cung cấp dịch vụ cho
du khách trong các chuyến du lịch. Kinh doanh dịch vụ lữ hành chính là kinh doanh
chương trình du lịch, và Chương trình du lịch là văn bản thể hiện lịch trình, dịch vụ
và giá bán được định trước cho chuyến đi của khách du lịch từ điểm xuất phát đến
điểm kết thúc chuyến đi [26]. Chương trình du lịch là sản phẩm của hoạt động kinh
doanh lữ hành, nó được hình thành từ sự sắp xếp các dịch vụ riêng lẻ để tạo thành
một dịch vụ tổng hợp, giá cả của nó từ những sự tổng hợp riêng lẻ đó tạo thành giá
bán gộp cho khách du lịch, khách du lịch mua chương trình du lịch sẽ mua tất cả
các sản phẩm dịch vụ riêng lẻ kia sau khi được các doanh nghiệp lữ hành thiết kế,

tổng hợp. Sản phẩm của chương trình du lịch mang tính phi vật chất, không lưu kho
bãi và không chuyển quyền sở hữu. Đây chính là các đặc điểm của sản phẩm dịch
vụ.
Thứ hai: Kinh doanh dịch vụ lữ hành là ngành nghề trung gian.
Như trên vừa nói, kinh doanh dịch vụ lữ hành là một hoạt động dịch vụ, vì là
hoạt động dịch vụ nên chắc chắn nó có tính trung gian trong việc tạo ra một sản
phẩm du lịch trọn gói. Việc liên kết các sản phẩm dịch vụ riêng lẻ thành các sản
phẩm dịch vụ có tính chất tổng hợp, đưa hàng hóa dịch vụ có tính riêng lẻ thành
hàng hóa có tính chất tổng hợp, sản phẩm bán lẻ trở thành sản phẩm bán buôn. Để
làm được việc này, các nhà kinh doanh dịch vụ lữ hành đã phải lên kế hoạch một
cách tỷ mỷ, nghiên cứu kỹ càng từng hoạt động riêng lẻ, nghiên cứu tâm lý, thị hiếu
của khách du lịch, từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa phù hợp với nhu cầu của khách
du lịch. Khách du lịch họ có thể tự thiết kế chuyến đi cho riêng mình hay cho tập
15


thể mình, nhưng việc chuyên môn hóa trong xã hội đã làm cho những du khách
riêng lẻ hay những đoàn khách du lịch họ muốn được hưởng thụ những giá trị thật
sự của nó, đó là việc thông qua một công ty kinh doanh dịch vụ lữ hành, khách du
lịch mua sản phẩm du lịch và trả giá cho các công việc mà nhà cung cấp dịch vụ đã
dày công kết nối để tạo thành.
Thứ ba: kinh doanh dịch vụ lữ hành có tính thời vụ.
Tính thời vụ của kinh doanh dịch vụ lữ hành chịu sự tác động của cả yếu tố tự
nhiên cũng như yếu tố kinh tế xã hội. Lao động phục vụ cho hoạt động lữ hành chủ
yếu vào mùa du lịch. Việc làm ăn chụp giật, cạnh tranh không lành mạnh và sử
dụng các hành vi sai trái để thực hiện mục đích trong kinh doanh dịch vụ lữ hành
xảy ra cũng do tính thời vụ - đặc thù của ngành nghề. Các yếu tố như không gian,
thời gian, lịch sử, thời tiết, địa hình hay yếu tố kinh tế xã hội khác cũng ảnh hưởng
lớn tới tính thời vụ trong du lịch. Các công ty lữ hành, khách du lịch chịu ảnh
hưởng trực tiếp bởi tính thời vụ của kinh doanh dịch vụ lữ hành, chính tính thời vụ

cũng đã ảnh hưởng đến chính quyền địa phương và dân cư sở tại, làm mất cân đối
trong sự tập trung cư dân, ảnh hưởng đến giao thông, an ninh trật tự và gây khó
khăn cho việc quản lý nhà nước của chính quyền địa phương sở tại khi mùa du lịch
đến. Chính vào mùa vụ du lịch, khách hàng thường bị các doanh nghiệp lữ hành
kinh doanh không lành mạnh quảng cáo sai sự thật nhằm lừa gạt du khách để trục
lợi bất chính. Tính thời vụ ảnh hưởng đến quyền lợi của khách du lịch cũng như ảnh
hưởng tới sự cạnh tranh của các công ty lữ hành [2,tr.17].
Thứ tư: Kinh doanh dịch vụ lữ hành là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Hiến pháp 2013 quy định, quyền tự do kinh doanh và quyền con người, là
quyền cơ bản của công dân, phát huy tinh thần của Hiến pháp 2013, tại khoản 1,
Điều 7, Luật Doanh nghiệp 2014 cũng ghi nhận chủ thể kinh doanh có thể “tự do
thực hiện các hoạt động kinh doanh mà pháp luật không cấm” thế nhưng quyền tự
do đó vẫn có những giới hạn nhất định, bởi vì quyền tự do kinh doanh chỉ bảo đảm
khi quyền của chủ thể này không làm phương hại đến quyền tự do của chủ thể khác.
Kinh doanh dịch vụ lữ hành là một ngành nghề đặc thù, tác động đến nhiều lợi ích
16


chung của cộng đồng cũng như tác động đến nhiều doanh nghiệp kinh doanh Du
lịch khác [2,tr.18]. Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh cũng như hài hòa các quyền
lợi khác như kinh tế, an ninh, trật tự xã hội, môi trường, danh lam thắng cảnh, việc
đăng ký kinh doanh Lữ hành cần phải đảm bảo điều kiện cần thiết do pháp luật quy
định, đó là yêu cầu đảm bảo các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 31, Luật Du
lịch về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa, điều kiện kinh doanh lữ hành
quốc tế và điều 40 Luật Du lịch 2017, điều kiện kinh doanh đại lý lữ hành. Do đặc
thù của kinh doanh dịch vụ lữ hành, nên người quản lý doanh nghiệp lữ hành cũng
cần phải đảm bảo những yêu cầu nhất định do Luật định giống như điều kiện về ký
quỹ; điều kiện về hành nghề hướng dẫn viên cũng là những yêu cầu đặt ra đối với
hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành.
- Điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành

Như đã phân tích ở trên, Kinh doanh dịch vụ lữ hành là ngành nghề kinh
doanh đặc thù, là một trong số 243 ngành nghề kinh doanh có điều kiện do Luật đầu
tư 2014 quy định, ở hoạt động kinh doanh dịch vụ lữ hành có đầy đủ các đặc điểm
như ngành nghề trung gian, mang tính dịch vụ và có tính thời vụ. Chính từ những
đặc điểm này yêu cầu Kinh doanh dịch vụ lữ hành phải có những điều kiện nhất
định để đảm bảo cho kinh doanh dịch vụ lữ hành phát triển, góp phần vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Là một hoạt động dịch vụ, vì thế việc các doanh nghiệp lữ hành tổ chức các
chương trình du lịch phải có sự sắp xếp khéo léo, tài tình để các dịch vụ riêng lẻ
được liên kết lại với nhau, đưa ra một chương trình du lịch trọn gói, từ đó quảng cáo
cho khách du lịch biết được sản phẩm mình lựa chọn gồm có những dịch vụ gì,
dừng chân ở đâu, tham quan chỗ nào. Tuy nhiên khách du lịch muôn hình vạn trạng,
để thiết kế được các chương trình du lịch trọn gói với giá hấp dẫn, người điều hành
các doanh nghiệp dịch vụ lữ hành phải là những người có trình độ chuyên môn và
kinh nghiệm nhất định về kinh doanh lữ hành, vì thế Điều 31, điểm c khoản 1 và
điểm c khoản 2 Luật Du lịch 2017 đã quy định cụ thể về yêu cầu này.
Tính thời vụ của kinh doanh dịch vụ lữ hành đã tạo nên sự tập trung quá đông
17


khách du lịch cho địa phương có du lịch. Sự tập trung quá đông này làm mất đi sự
cân đối trong quản lý của địa phương, gây ra sự khó khăn trong quản lý lưu trú,
quản lý các dịch vụ an toàn vệ sinh thực phẩm, an ninh trật tự xã hội, tài nguyên du
lịch bị khai thác quá mức, ô nhiễm môi trường, các doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành không lành mạnh sẽ có những chiêu trò để níu kéo khách, ảnh hưởng đến
quyền lợi của khách du lịch, cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp lữ
hành khác.
Khách du lịch là đối tượng vô cùng quan trọng của kinh doanh dịch vụ lữ
hành, vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho khách du lịch yêu cầu đặt ra đối với các
doanh nghiệp lữ hành là phải ký quỹ, nguồn ký quỹ này nhằm giải quyết các vấn

đề phát sinh trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ đối với khách du lịch. Việc ký quỹ còn được hiểu là để xác định
năng lực tài chính của doanh nghiệp, là sự cam kết trách nhiệm với du khách và cơ
quan quản lý nhà nước. Thêm vào đó, phần lớn các nước trên thế giới quy định
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành phải ký quỹ để bảo đảm nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại cho khách du lịch trong trường hợp bị thiệt hại hoặc trong trường
hợp doanh nghiệp bị phá sản.
Luật Du lịch không đặt HDV du lịch là điều kiện cần để thành lập doanh
nghiệp du lịch, tuy nhiên HDV là yếu tố vô cùng quan trọng để cho chương trình du
lịch được thực hiện hiệu quả. Khách du lịch hài lòng hay không một phần không
nhỏ dựa vào HDV, vì vậy mặc dù không quy định bắt buộc trong điều kiện kinh
doanh nhưng HDV là thành phần không thể thiếu trong sự phát triển của doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành.
Ngoài những điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành, những hành vi bị cấm
cũng được nhắc đến, ta có thể xem như là giới hạn của điều kiện kinh doanh dịch vụ
lữ hành, các quy định này được ghi rõ tại Điều 9, Luật Du lịch 2017
Như vậy, việc quy định các điều kiện kinh doanh đối với hoạt động kinh
doanh dịch vụ lữ hành xuất phát từ sự phức tạp của ngành du lịch nói chung, kinh
doanh dịch vụ lữ hành nói riêng nên pháp luật đã có những quy định cụ thể về điều
18


×