Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 112 trang )

TRẦN THỊ KIỀU HẠNH

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ KIỀU HẠNH

LUẬT KINH TẾ

ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA IX.1

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ KIỀU HẠNH

ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ NGỌC HIỂN
Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi – Trần Thị Kiều Hạnh cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các kết quả nghiên cứu chưa được công bố ở bất kỳ đâu. Các số liệu, các
nguồn trích dẫn trong luận văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi cam đoan chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Trần Thị Kiều Hạnh


Mục lục
CHƯƠNG 1..................................................................................................................... 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA
DOANH NGHIỆP .......................................................................................................... 7
Khái niệm và đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp 7
Khái niệm người đại diện theo pháp luật ....................................................... 7
Đặc điểm người đại diện theo pháp luật ...................................................... 10
Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...................... 15
Căn cứ xác lập thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp ................................................................................................. 18
1.3 Nghĩa vụ của người đại diện pháp luật của doanh nghiệp ............................ 20
1.4 Phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ....... 23
1.5 Trách nhiệm pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp . 24
1.6 Chấm dứt thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật .............. 25

CHƯƠNG 2................................................................................................................... 28
1.1
1.1.1
1.1.2
1.1.3
1.2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA
DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH............................................................................................................................. 28
Thực trạng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ... 28
Xác lập thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật ............................... 28
Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật ................................................ 37
Phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...... 41
Trách nhiệm pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp 48
Chấm dứt thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật ............. 49
Thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................. 53
CHƯƠNG 3................................................................................................................... 66
2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.1.4
2.1.5
2.2

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................... 66

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật ........ 66
Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh ......... 67
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 78
3.1
3.2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CTHD

Công ty Hợp danh

CTTNHH

Công ty trách nhiệm hữu hạn

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

GĐ/TGĐ

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc

HĐQT


Hội đồng quản trị

HĐTV

Hội đồng thành viên

LDN

Luật Doanh nghiệp

NĐDTPL

Người đại diện theo pháp luật


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong hoạt động kinh doanh, pháp luật được xem là “xương sống” của doanh
nghiệp. Một đất nước có những quy định tiến bộ về kinh doanh sẽ thúc đẩy, đưa một
nền kinh tế phát triển. Một doanh nghiệp am hiểu pháp luật, bám sát hành lang pháp lý
sẽ tồn tại và phát triển lâu dài. Ngược lại, một hành lang pháp lý không vững vàng,
doanh nghiệp thiếu hiểu biết, thiếu sự tuân thủ pháp luật sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn
lường.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay đổi cơ bản tính chất của các quan hệ
trong kinh doanh. Điều này cũng đưa đến yêu cầu tất yếu phải có sự thay đổi trong nội
dung của pháp luật kinh doanh cho phù hợp với thực tế khách quan. Sau sự đột phá của
“Luật Doanh nghiệp năm1999”, thì “Luật Doanh nghiệp năm 2014” được coi là cuộc

đột phá lần hai, thể hiện đúng tinh thần Hiến pháp 2013 về quyền tự do kinh doanh của
công dân, của doanh nghiệp, theo đó, những gì luật pháp không cấm thì người dân,
doanh nghiệp được tự do đầu tư, kinh doanh.
Trong đó, cơ chế pháp lý về vai trò Người đại diện theo pháp luật chiếm vai trò
cực kỳ quan trọng đối với LDN 2014 nói riêng và đối với pháp luật doanh nghiệp nói
chung cũng đã có một số sự thay đổi nổi bật. LDN 2014 ghi nhận một số loại hình
doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật. Bên cạnh đó, LDN 2014 còn
dành cho doanh nghiệp quyền tự quyết về số lượng, quyền và nghĩa vụ của từng
NĐDTPL quy định trong điều lệ doanh nghiệp…
Tuy nhiên, những quy định mới về NĐDTPL cũng bộc lộ một số điểm hạn chế,
một số điểm yếu trước đây của LDN 2014 đối với chế định NĐDTPL vẫn chưa được
khắc phục như: khái niệm NĐDTPL, thời điểm có thẩm quyền của NĐDTPL tại thời
điểm được ghi nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay tại thời điểm được
ghi nhận trong điều lệ có hiệu lực, phạm vi đại diện của NĐDTPL đặc biệt trong
trường hợp doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL, những bất cập từ thực tiễn giải quyết

1


tranh chấp, chế độ lưu giữ công bố tài liệu, đặc biệt là điều lệ doanh nghiệp, những bất
cập trong quá trình thực hiện thủ tục thay đổi NĐDTPL...
Chính những bất cập này đã góp phần làm cho hoạt động kinh doanh trở nên trì
trệ, một số tranh chấp kéo dài, tiền của tiêu tốn, doanh thu giảm sút, hoạt động kinh
doanh yếu kém hơn.
Vì các lý do nêu trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”
với mong muốn tìm hiểu các bất cập và thực tiễn thực hiện của LDN 2014 đối với chế
định người đại diện và đưa ra các lập luận giải pháp hoàn thiện.
2.


Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trên thực tế đã có một số bài viết, một số tờ trình của các cơ quan tổ chức như
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, bài viết trên Thời báo
tài chính – Cơ quan của Bộ Tài chính, bài viết trên Thời báo Ngân hàng – Cơ quan
thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đưa ra các bất cập của LDN 2014 và đề xuất sửa
đổi, bổ sung, tuy nhiên vẫn chưa có bất kỳ luận văn cấp độ Thạc sĩ nào nghiên cứu vấn
đề này một cách toàn diện.
Hiện nay, chế định về NĐDTPL của doanh nghiệp đã được nhiều tác giả quan
tâm và nghiên cứu, điển hình như các công trình sau:
Nguyễn Hợp Toàn (2017), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba
trong trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty cổ phần có nhiều
NĐDTPL, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9. Bài viết trình bày về ý nghĩa, các vấn đề
pháp lý đối với trường hợp công ty cổ phần có nhiều NĐDTPL của LDN 2014 và vấn
đề quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi có tình trạng xung đột thẩm quyền
giữa những người đại diện theo pháp luật của Công ty.
Phan Thành Nhân (2018), Thực trạng quy định của pháp luật về NĐDTPL của
doanh nghiệp và hướng hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7. Bài viết khái quát
về các khía cạnh pháp lý về NĐDTPL của LDN 2014, từ đó đưa ra một số điểm bất cập

2


và đề xuất phương án hoàn thiện.
Nguyễn Thị Thanh (2016), NĐDTPL của doanh nghiệp, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Số chuyên đề (tháng 8). Bài viết trình bày bao quát vấn đề pháp lý về
NĐDTPL, từ đó đưa ra một số vấn đề để hoàn thiện.
Bùi Đức Giang (2015), Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật
của Luật doanh nghiệp 2014, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 (326). Bài viết tập
trung phân tích các quy định mới của LDN 2014 về chế định NĐDTPL, đặc biệt về

việc chỉ định, quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL cùng trách nhiệm dân sự của chức danh
này.
Bùi Thị Tâm (2017), Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp từ thực tiễn
Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện khoa học Xã hội.
Đề tài này trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp, cũng như thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn của Tổng Công ty thuốc lá
Việt Nam về NĐDTPL.
Phạm Lâm Hải Nguyên (2014), Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo
pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học – Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực
tiễn áp dụng các quy định về người đại diện của doanh nghiệp theo LDN 2005. Từ đó,
đề xuất kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp
Việt Nam về chế định người đại diện của doanh nghiệp.
Vũ Thị Bích Thùy (2014), Đại diện theo pháp luật của CTCP ở Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học – Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài tập trung
nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật và áp dụng các quy định về
NĐDTPL của CTCP ở Việt Nam theo LDN 2015. Từ đó, đề xuất kiến nghị một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về chế định người đại diện
của CTCP ở Việt Nam.
Trần Hoàng Vũ, Quyền, nghĩa vụ của NĐDTPL trong CTCP theo LDN 2014,

3


Luận văn thạc sĩ Luật kinh tế, Học viện khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam. Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng pháp
luật về quyền, nghĩa vụ của NĐDTPL trong CTCP áp dụng các quy định về NĐDTPL
của CTCP ở Việt Nam theo LDN 2015. Từ đó, đề xuất kiến nghị một số giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về chế định về quyền, nghĩa vụ của
NĐDTPL trong CTCP.

Ngoài các công trình tiêu biểu trên, khoa học pháp lý còn tồn tại khá nhiều công
trình nghiên cứu về chế định NĐDTPL của doanh nghiệp. Mỗi công trình đều có phạm
vi và mục đích nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên, chưa có các nghiên cứu về NĐDTPL
trong doanh nghiệp một cách bao quát toàn diện các loại hình doanh nghiệp và thực
tiễn tại thành phố hiện đại kinh tế phát triển, tiến bộ bậc nhất Việt Nam – thành phố Hồ
Chí Minh. Đây được xem là “khoảng trống” để tác giả lựa chọn và nghiên cứu đề tài
này.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1

Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở nhận diện và đánh giá thực trạng các quy định của LDN 2014 về đại
diện theo pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật đó tại thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về NĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
3.2

Nhiệm vụ nghiên cứu:

Nghiên cứu về những vấn đề còn hạn chế của LDN 2014, từ đó, có thể hiểu một
cách sâu sắc hơn về LDN 2014 và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thông qua các
nhiệm vụ sau:
-

Nghiên cứu các quy định của LDN 2014, pháp luật liên quan của một số


nước khác;
-

Nghiên cứu khái niệm và đặc điểm, vai trò, căn cứ xác lập thẩm quyền,

nghĩa vụ, phạm vi, trách nhiệm pháp lý của NĐDTPL của doanh nghiệp;

4


-

Nghiên cứu, tìm hiểu, những bất cập, thực trạng của chế định NĐDTPL

của LDN 2014;
-

Đề xuất các giải hướng và giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp

dụng theo LDN 2014.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tiểu luận có đối tượng và
phạm vi nghiên cứu như sau:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Người Đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là:
(i) những vấn đề lý luận về NĐDTPL; (ii) thực trạng quy định của LDN 2014 về
NĐDTPL; (iii) thực tiễn trạng pháp luật và thực tiễn về NĐDTPL tại thành phố Hồ Chí

Minh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
Nghiên cứu quy định pháp luật về NĐDTPL theo LDN 2014 và Luật Doanh
nghiệp 2005.
-

Chế định đại diện pháp luật doanh nghiệp của một số nước trên thế giới.

5.

Nghiên cứu các bản án, tranh chấp liên quan đến NĐDTPL, thành viên

công ty trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các vụ án tiêu biểu trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh; Nghiên cứu cách xử lý hồ sơ hành chính liên quan đến NĐDTPL tại các cơ
quan hành chính trên cả nước đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh.Cơ sở lý luận và
phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Luận văn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
-

Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê: đây là phương pháp chính đề

tài sử dụng trong quá trình nghiên cứu; phân tích để tiếp cận và có những hiểu biết nhất
định đối với vấn đề nghiên cứu; dùng làm căn cứ để hình thành các luận điểm, luận cứ,
xác lập các lập luận làm cơ sở phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài hướng tới.

5


-


Phương pháp so sánh: từ việc so sánh, đối chiếu các khía cạnh về quan

điểm, tư tưởng, mục tiêu, chính sách,… và đặc biệt là hệ thống pháp luật điều chỉnh đối
với vấn đề nghiên cứu của các quốc gia có liên quan; tìm ra được mặt lợi cũng như mặt
hại để tìm ra hướng đi, hướng giải quyết đối với tình hình trong nước.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là kết quả của một quá trình nghiên cứu pháp luật, thực thi pháp luật
trên thực tế, đồng thời tham khảo pháp luật doanh nghiệp của một số nước trên thế
giới, qua đó luận văn này không chỉ mang về ý nghĩa lý luận mà còn đem đến các ý
nghĩa thực tiễn, cụ thể như sau:
-

Luận văn nêu ra một số nội dung của LDN 2014 và các nội dung có liên

quan đến LDN 2014 qua đó cho người đọc một cái nhìn bao quát tổng thể về pháp luật
doanh nghiệp từ Việt Nam nhìn ra thế giới.
-

Luận văn là công trình nghiên cứu đúc kết từ thực tiễn, từ nhiều bài viết

khoa học qua nhìn nhận và đánh giá của tác giả, do đó, luận văn không chỉ là ý kiến cá
nhân của tác giả mà còn ý kiến của các chủ thể doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu lập
pháp.
-

Luận văn cũng đưa ra những đề xuất giải pháp hoàn thiện LDN 2014


mong muốn đưa ra những giải pháp hữu ích cho quá trình sửa đổi LDN 2014 sắp tới.
7.

Kết cấu của luận văn

Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm có 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về người đại diện pháp luật của
doanh nghiệp
Chương 2. Thực trạng pháp luật về người đại diện pháp luật theo LDN 2014
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1

Khái niệm và đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của doanh

nghiệp
1.1.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Ở một số nước trên thế giới, khái niệm Người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp quy định cũng không giống nhau. Chẳng hạn, Luật Công ty Anh quy định
NĐDTPL của công ty là: “Một thành viên cá nhân được ủy quyền bởi công ty có quyền

thực hiện các quyền hạn tương tự công ty có thể thực hiện”. [50, Điều 323.2] LDN của
Úc quy định: “Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân do doanh nghiệp
chỉ định để thực hiện tất cả hoặc bất kỳ quyền hạn nào mà doanh nghiệp có thể thực
hiện”. [51, Điều 250D] Pháp luật Nhật Bản tiếp cận NĐDTPL thông qua chức năng
quản lý, đó là: “Người quản lý có quyền thực hiện bất kỳ và tất cả các hành vi pháp lý
và phi tư pháp nhân danh công ty liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình”. [52,
Điều 11.1]. Riêng đối với Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn không đưa ra khái niệm
một cách rõ ràng, mà theo hướng khẳng định: “Công ty sẽ do các Giám đốc làm đại
diện. Nếu một công ty không có Giám đốc, công ty sẽ được đại diện bởi các cổ đông
bất cứ khi nào có tuyên bố ý định hoặc các tài liệu được cung cấp trên đó”. [53, Điều
35.2] Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản là quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL
trong các Công ty trách nhiệm hữu hạn ở Đức được thể hiện thông qua quyền và nghĩa
vụ của Giám đốc và các cổ đông (nếu công ty không có giám đốc).
Khảo sát quy định về NĐDTPL của một số nước trên thế giới, chúng ta có thể
khẳng định thuật ngữ “NĐDTPL của doanh nghiệp” mang những nội dung khác nhau,
tùy thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tựu chung lại thì pháp luật của
các nước vẫn có điểm giao thoa nhau về khái niệm NĐDTPL, đó là người được doanh
nghiệp chỉ định để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nhân danh doanh nghiệp.

7


Ở Việt Nam, theo quy định tại Bộ luật Dân sự, đại diện là việc một người nhân
danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi
đại diện.1
Quan hệ đại diện được xác lập theo hai hình thức cơ bản: Đại diện có thể là đại
diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền2. Đại diện theo pháp luật bao gồm các
trường hợp sau: (i) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; (ii) Người có thẩm
quyền đại diện theo quy định của pháp luật;(iii) Người do Tòa án chỉ định trong quá
trình tố tụng tại Tòa án”.3

Đại diện theo ủy quyền là hình thức đại diện mà quyền đại diện được xác lập
trên cơ sở thỏa thuận giữa người được đại diện và người đại diện.
Bên cạnh đó, còn có đại diện theo ủy quyền lại: Người đại diện theo ủy quyền
có thể ủy quyền lại cho một người thứ ba đại diện cho doanh nghiệp, nếu như trong nội
dung ủy quyền ban đầu có nội dung cho phép ủy quyền lại hoặc do sự kiện bất khả
kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được 4. Khi tiếp nhận hồ sơ ủy quyền
lại, cần lưu ý hình thức ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu và
nội dung không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu.
Ví dụ: Chủ tịch HĐQT là đại diện đương nhiên, ủy quyền cho Tổng Giám đốc
ký hợp đồng và cho phép Tổng Giám đốc được ủy quyền lại cho các Phó tổng Giám
đốc hay Giám đốc các chi nhánh ký hợp đồng. Trường hợp này thường xuyên xuất hiện
ở các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp có chi nhánh lớn rộng khắp trên cả nước.
NĐDTPL sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ, theo quy định tại điều lệ doanh
nghiệp và theo LDN 2014. Người đại diện theo ủy quyền và người được ủy quyền lại
sẽ có phạm vi quyền hạn theo nội dung được ủy quyền.
Khoản 1, Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015,
Điều 85, Bộ luật Dân sự 2015
3
Khoản 1 Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015
4
Khoản 1, Điều 564 Bộ luật Dân sự 2015
1
2

8


Ngoài ba trường hợp nêu trên thì việc ủy quyền đại diện sẽ không tới người thứ
tư vì Bộ luật Dân sự chỉ quy định trường hợp ủy quyền lại cho người thứ ba.

Như vậy, “đại diện theo pháp luật” là sự thiết lập người đại diện của những
thành viên công ty, cổ đông hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.
Trước đây LDN 2005 không đưa ra khái niệm NĐDTPL của doanh nghiệp, mà
quy định về NĐDTPL của doanh nghiệp chỉ nằm rải rác ở các điều luật quy định về cơ
cấu tổ chức, quản lý của các loại hình doanh nghiệp. 5 Tuy nhiên, đến LDN 2014 đã
thể hiện bước tiến khi có một điều khoản dành riêng để quy định về NĐDTPL. Theo
đó, khoản 1 Điều 13 LDN 2014 quy định: “NĐDTPL của doanh nghiệp là cá nhân
đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch
của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật”. Với quy định này, LDN 2014 đã ghi nhận chức
năng đại diện theo pháp luật trong tố tụng của NĐDTPL được quy định từ Điều 85 đến
Điều 90 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015. Tuy nhiên, khái niệm trên
chỉ mới đề cập đến việc “thực hiện” giao dịch nhân danh doanh nghiệp mà chưa đề cập
đến chức năng “xác lập” giao dịch nhân danh doanh nghiệp – vốn là một trong các
quyền hạn then chốt của chế định NĐDTPL. Mặc dù, khoản 1 Điều 13 LDN 2014 có
thêm quy định mở, đó là NĐDTPL được thực hiện “các quyền và nghĩa vụ khác theo
quy định của pháp luật”, tức là được thực hiện quyền xác lập giao dịch, song việc
không quy định cụ thể quyền hạn này trong văn bản luật chuyên ngành cũng là một hạn
chế

6

[1, Tr18]. Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự

(BLDS) năm 2015 thì người đại diện là người nhân danh và vì lợi ích của người được

Chẳng hạn, Công ty trách nhiệm hữu hạn (khoản 5 Điều 67, khoản 1 Điều 74); CTCP (khoản 1 Điều 116); Công
ty hợp danh (khoản 1 Điều 137); Doanh nghiệp tư nhân (khoản 4 Điều 143).
5


Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về NĐDTPL của Luật doanh nghiệp năm 2014”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 6/2015, tr. 18.
6

9


đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Chính vì vậy, vai trò “xác lập” giao dịch
dân sự là một trong những vai trò không thể thiếu trong việc xác định ai là NĐDTPL
của doanh nghiệp.
1.1.2 Đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Một là, NĐDTPL của doanh nghiệp là người được ghi nhận trên Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Theo quy định tại Điều 29 LDN 2014, trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp gồm các nội dung sau: Tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp; Địa chỉ trụ
sở chính của doanh nghiệp, Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước
công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp
khác của NĐDTPL của doanh nghiệp đối với CTTNHH và CTCP….”. Như vậy, trong
các nội dung đăng ký kinh doanh phải có thông tin NĐDTPL của doanh nghiệp. Hay
nói cách khác, cơ sở để xác định NĐDTPL của một doanh nghiệp chính là Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, thông tin người đại diện theo quy định pháp luật còn được ghi nhận
trên các tài liệu khác như: Quyết định của HĐQT, Quyết định của ĐHĐCĐ, Điều lệ
của doanh nghiệp… Tuy nhiên các văn bản này là văn bản nội bộ của doanh nghiệp
nên khả năng chứng minh đối với đối tác không cao như Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
Bên cạnh đó, hiện nay Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh không nhất thiết
phải nộp lại cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi đăng ký nội dung thay đổi. Do đó, để
kiểm tra chính xác thông tin NĐDTPL, cần phải đối chiếu thông tin người đại diện trên

Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và thông tin tra cứu trên trang thông tin điện tử
Cổng

thông

tin

quốc

gia

về

đăng



doanh

nghiệp

( và cả điều lệ doanh nghiệp.
Hai là, NĐDTPL của doanh nghiệp là cá nhân có đủ năng luật pháp luật dân
sự và năng lực hành vi dân sự

10


Doanh nghiệp là một tổ chức thành lập để sản xuất, đầu tư, kinh doanh. Bản
thân doanh nghiệp vẫn là khái niệm trừu tượng bao gồm nhiều cá nhân, bộ phận, sản

phẩm, dịch vụ, vì vậy không phải ai, bộ phận nào cũng có thể tự mình thể hiện ý chí
của doanh nghiệp ra bên ngoài. Quyết định của doanh nghiệp phải được thể hiện thông
qua một hoặc nhiều cá nhân nhất định được doanh nghiệp bầu chọn, chỉ định theo các
thủ tục hành chính. Do đó, NĐDTPL của tổ chức nói chung, doanh nghiệp nói riêng
phải là cá nhân. Đây là một đặc điểm phân biệt với đại diện theo ủy quyền vì người đại
diện theo ủy quyền có thể cá nhân hoặc tổ chức, chẳng hạn, doanh nghiệp có thể ủy
quyền cho một doanh nghiệp khác nhân danh và vì lợi ích của mình để xác lập, thực
hiện giao dịch theo cơ chế đại diện cho thương nhân theo Luật Thương mại.
Để có thể thể hiện ý chí của doanh nghiệp, NĐDTPL phải có đầy đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Theo quy định tại BLDS 2015, năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự và
có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Khi cá nhân nhân danh
doanh nghiệp để thực hiện giao dịch trong phạm vi cho phép thì các quyền và nghĩa vụ
từ giao dịch phát sinh cho doanh nghiệp chứ không phát sinh cho cá nhân đó.
Ba là, NĐDTPL của doanh nghiệp nhân danh doanh nghiệp thực hiện các
quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp
Bản chất của quan hệ đại diện nói chung là người đại diện nhân danh và vì lợi
ích của người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, khác với các
người đại diện theo ủy quyền chỉ xác lập, thực hiện các công việc theo phạm vi ủy
quyền, NĐDTPL nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là, NĐDTPL có quyền
nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện mọi giao dịch của doanh nghiệp, ngoại trừ
trường hợp có giới hạn phạm vi, thẩm quyền do pháp luật hoặc điều lệ quy định.
Bốn là, CTTNHH và CTCP có thể có một hoặc nhiều NĐDTPL
Trước đây, theo quy định của pháp luật, một doanh nghiệp chỉ có một cá nhân là

11


người đại diện theo pháp luật. Theo BLDS 2015 và LDN 2014, hiện nay, doanh nghiệp

có thể có nhiều cá nhân là người đại diện theo pháp luật. Việc quy định doanh nghiệp
có thể có nhiều cá nhân là người đại diện theo pháp luật là phù hợp với thực tiễn và hài
hòa với pháp luật của nhiều nước trên thế giới hiện nay.
CTTNHH và CTCP có thể có một hoặc nhiều NĐDTPL. 7 Đây là một trong
những điểm mới của LDN 2014 đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền quyết định số
lượng NĐDTPL, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể hội nhập nhanh hơn, tận dụng
được mọi cơ hội kinh doanh thông qua các đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, quy định
mới này chưa áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp tư
nhân… Về phía CTHD, luật không quy định nhiều người đại diện pháp luật, nhưng
mỗi thành viên hợp danh đều có quyền nhân danh doanh nghiệp để thực hiện giao dịch.
Do đó, mỗi thành viên hợp danh có thể coi là mỗi “NĐDTPL”.
LDN 2014 quy định rõ một công ty có thể có nhiều NĐDTPL mà không quy
định cụ thể một cá nhân có thể là NĐDTPL của nhiều công ty hay không. Khoản 3
Điều 141 BLDS 2015 quy định “Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá
nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng
là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Qua đó, có thể thấy rằng một cá nhân được phép là NĐDTPL của nhiều công ty
chỉ cần không vi phạm điều cấm về việc nhân danh người được đại diện để xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người
đại diện của người đó8. Trên thực tiễn các cơ quan đăng ký kinh doanh vẫn cho phép
một người làm đại diện theo pháp luật của nhiều doanh nghiệp. Tại thành phố Hồ Chí
Minh cũng vậy, rất nhiều cá nhân làm đại diện pháp luật cho nhiều Công ty. Ví dụ: bà
Nguyễn Vũ Thiên Diễm, đồng thời là NĐDTPL của các công ty sau: Công ty TNHH

7
8

Khoản 2, Điều 13 Luật Doanh Nghiệp 2014,
Khoản 3, Điều 141 BLDS 2015


12


Đầu tư & Phát triển DHT (Mã số thuế:: 0315156480, trụ sở tại 136H Đường Nguyễn
Tri Phương, Phường 09, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam); Công ty Cổ
phần

Đầu



Bất

động

sản

Thiên

Minh,

(Mã

số

thuế:

0308964984,


136H Nguyễn Tri Phương, Phường 09, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam),
Công ty TNHH Tập đoàn Đầu tư Thiên Minh, mã số thuế: 0315834143, Khu Thương
mại Dịch vụ Tầng 1 Khu 1.12, Tòa nhà The EverRich Infinity, Số 290 An Dương
Vương, Phường 04, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.9Riêng đối với doanh
nghiệp tư nhân, do đặc thù phải chịu trách nhiệm bằng tất cả tài sản cá nhân đối với
hoạt động doanh nghiệp, mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư
nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành
viên CTHD. Bên cạnh đó, chủ Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành
lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong CTHD, CTTNHH hoặc CTCP.
Tương tự chủ Doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Do đó, thành
viên hợp danh có một số hạn chế như sau:
“1. Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành
viên hợp danh của CTHD khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên
hợp danh còn lại.
2. Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh
người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi
hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
3. Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần
vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các
thành viên hợp danh còn lại.”10
Như vậy, chủ Doanh nghiệp tư nhân thì không được làm người đại diện pháp
Tra cứu theo tên NĐDTPL của doanh nghiệp, tại
/>10
Điều 175, Luật Doanh nghiệp 2014
9

13



luật của doanh nghiệp khác. Thành viên hợp danh thì không được làm người đại diện
pháp luật của doanh nghiệp khác trong cùng ngành, nghề kinh doanh.
Năm là, NĐDTPL là người quản lý doanh nghiệp
Theo quy định tại Điều 137, Bộ luật Dân sự về đại diện theo pháp luật của pháp
nhân, những người sau đây có thể làm đại diện theo pháp luật của công ty:
-

Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;

-

Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;

-

Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

LDN 2014 tiếp tục quy định về chủ thể có thể làm đại diện theo pháp luật cho
từng loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:
-

NĐDTPL trong CTTNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu là

Chủ tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác
(khoản 2 Điều 78 LDN).
-

Trong trường hợp CTCP chỉ có một NĐDTPL, thì Chủ tịch HĐQT hoặc

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là NĐDTPL của công ty; trường hợp Điều lệ không có

quy định khác thì Chủ tịch HĐQT là NĐDTPL của công ty. Trường hợp có hơn một
NĐDTPL thì Chủ tịch HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là
NĐDTPL của công ty (khoản 2 Điều 134 LDN 2014).
-

Đối với CTHD, các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật

và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty theo quy định tại
khoản 1 Điều 179 LDN 2014. Tuy nhiên, chỉ có Chủ tịch HĐTV, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc CTHD có các nhiệm vụ đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà
nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kiện,
tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác (theo điểm đ khoản 4 Điều 179 LDN
2014).
-

Đối với doanh nghiệp tư nhân: Chủ doanh nghiệp tư nhân là NĐDTPL

của doanh nghiệp theo quy định tại khoản 4 Điều 185, LDN 2014.

14


Tóm lại: Từ những quy định trên ta có thể hiểu NĐDTPL của doanh nghiệp,
ngoài 02 chức danh: Chủ tịch HĐQT, Chủ tịch HĐTV, Giám đốc (hoặc Tổng Giám
đốc) là đương nhiên, thì có thể do người khác đảm nhiệm. Tuy nhiên người này, được
ngầm hiểu phải đáp ứng 2 yêu cầu sau: phải là người thứ 03 và không đồng thời nắm
giữ các vị trí xung đột với quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL như kế toán, kiểm sát
viên…
Thứ sáu, NĐDTPL là điều kiện để thành lập doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 20, 21, 22 hồ sơ đề nghị thành lập doanh nghiệp phải có

giấy đề nghị thành lập doanh nghiệp. Theo quy định tại khoản 8, khoản 9, Điều 24
LDN 2014, giấy đề nghị doanh nghiệp phải có thông tin NĐDTPL.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 13 LDN 2014, doanh nghiệp phải
đảm bảo luôn có ít nhất một NĐDTPL cư trú tại Việt Nam. Trong trường hợp doanh
nghiệp vi phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo hình thức phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Nghị định
50/2016/NĐ-CP.
Như vậy, có thể thấy NĐDTPL của doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan
trọng, là điều kiện cần để thành lập một doanh nghiệp, cũng như điều kiện để duy trì sự
tồn tại phát triển của một doanh nghiệp.
1.1.2 Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
NĐDTPL của doanh nghiệp được ví như “cây nêu” của doanh nghiệp để mọi
người nhìn vào, là một cơ chế pháp lý đặc biệt quan trọng đối với công ty. Thông qua
người đại diện để xác định được tư cách hợp pháp của người thay mặt cho doanh
nghiệp thực hiện các giao dịch kinh tế, dân sự.
Trong quá trình hoạt động, bằng các thủ tục pháp lý, doanh nghiệp có thể thay
NĐDTPL, nhưng người mới làm đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp vẫn tiếp tục
kế thừa việc tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công ty mà người
đại diện trước đó đã và đang thực hiện. Nếu doanh nghiệp muốn, hoặc buộc phải thay

15


NĐDTPL thì phải bằng một thủ tục pháp lý và đăng ký với cơ quan đăng ký kinh
doanh, đồng thời phải thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng
ký doanh nghiệp theo trình tự, thủ tục và phải trả phí theo quy định.
Có thể nói, NĐDTPL của doanh nghiệp có vai trò quan trọng. Cụ thể:
Một là, NĐDTPL của doanh nghiệp là một trong các điều kiện pháp lý để công
ty thành lập và hoạt động bình thường.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, ngay từ khi thành lập và đăng ký, doanh

nghiệp phải đăng ký chức danh NĐDTPL. Trừ những việc do ĐHĐCĐ hoặc HĐQT
quyết định, các quyền và nghĩa vụ còn lại của doanh nghiệp sẽ do một hoặc nhiều
NĐDTPL trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện. Do đó, pháp luật quy định
trường hợp công ty chỉ có duy nhất một người đại diện nhưng người này xuất cảnh
khỏi Việt Nam thì phải ủy quyền cho người khác thực hiện nhiệm vụ của NĐDTPL,
nếu NĐDTPL duy nhất của công ty vắng mặt khỏi Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy
quyền cho người khác đại diện hoặc trường hợp NĐDTPL chết, mất tích, bị tạm giam,
bị kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; từ chức hoặc bị bãi miễn thì
công ty phải cử người đại diện khác.
Hai là, NĐDTPL thay mặt doanh nghiệp duy trì mối quan hệ với các chủ sở hữu
doanh nghiệp (cổ đông), với Nhà nước, khách hàng, đối tác, người lao động… của
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một thực thể được hình thành từ nguồn vốn của các thành viên,
cổ đông (chủ sở hữu). Quá trình hoạt động doanh nghiệp không tồn tại đơn lẻ mà có sự
gắn kết và quan hệ mật thiết với các chủ thể khác như: Quan hệ với chủ sở hữu (kiểm
soát hoạt động của doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận, quyết định phương án kinh
doanh, phương án phân chia lỗ…); quan hệ với Nhà nước (quan hệ đăng ký kinh
doanh, đóng thuế, tố tụng, nộp phạt…); quan hệ với khách hàng, các đối tác, người lao
động, với chủ nợ và các con nợ của công ty. Các mối quan hệ này luôn kiềm chế đối
trọng và thúc đẩy nhau cùng phát triển, trường hợp các mối quan hệ này mâu thuẫn sẽ

16


dễ dẫn đến tranh chấp và chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp
phải thiết lập thành một bộ máy thông suốt, một tổ chức chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng
giữa các phòng ban để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thu lợi
nhuận.
Ba là, NĐDTPL của doanh nghiệp nhân danh doanh nghiệp để xác lập, thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp là một tổ chức có các quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, có
quyền tham gia các quan hệ pháp luật. Doanh nghiệp là một tổ chức có nhiều cá nhân,
nhưng không phải mọi cá nhân đều có thể tự mình nhân danh công ty thực hiện được
quyền và nghĩa vụ của mình, do vậy, NĐDTPL của doanh nghiệp có vai trò đặc biệt
quan trọng, trong việc thay mặt công ty, nhân danh công ty để thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp. NĐDTPL cũng có thể ủy quyền cho người khác xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự.11 Khi người đại diện theo ủy quyền thực hiện các công việc
đại diện trong phạm vi ủy quyền, NĐDTPL vẫn phải chịu trách nhiệm cá nhân về nghĩa
vụ đại diện theo pháp luật.
Bốn là, tổ chức thực hiện các trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp
Bản thân doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh, có thể chịu các trách nhiệm
hành chính, lao động, dân sự và cả trách nhiệm hình sự về các vi phạm của doanh
nghiệp do NĐDTPL gây ra. Khi một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động có các
hành vi vi phạm pháp luật (do hành vi của NĐDTPL hoặc của những người khác trong
doanh nghiệp gây ra), chẳng hạn như gây ô nhiễm môi trường, vi phạm pháp luật về
thời hạn nộp thuế… Lúc này, quyết định xử phạt ghi rõ chủ thể vi phạm là “doanh
nghiệp”, nghĩa vụ nộp phạt cũng là của doanh nghiệp. NĐDTPL có nghĩa vụ tổ chức
thực hiện quyết định xử phạt của cơ quan có thẩm quyền đối với công ty mà mình đang
thực hiện nghĩa vụ đại diện theo pháp luật, đồng thời, doanh nghiệp cũng sẽ quy trách
nhiệm cá nhân đối với người có hành vi để xảy ra vi phạm gây thiệt hại cho doanh
11

Khoản 1, Điều 138 BLDS

17


nghiệp.
1.2


Căn cứ xác lập thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp

luật của doanh nghiệp
Theo quy định của BLDS 2015, thẩm quyền đại diện của NĐDTPL theo pháp
luật được xác lập dựa trên một trong các căn cứ: (i) Người được pháp nhân chỉ định
theo điều lệ; (ii) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; (iii) Người
do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án (Điều 135, Điều 137 BLDS
2015). Việc đại diện thông qua cá nhân chỉ được thực hiện trong các trường hợp và
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định (Điều 98 BLDS 2015).
Thứ nhất, theo điều lệ doanh nghiệp
Khi kê khai hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp bắt buộc doanh nghiệp phải
kê khai NĐDTPL và những thông tin cá nhân của người này trên Giấy đề nghị đăng ký
hoạt động và quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của NĐDTPL, cũng như những thông
tin cụ thể của người này trong điều lệ doanh nghiệp. Theo quy định khoản 2 Điều 13
LDN 2014 điều lệ doanh nghiệp quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền,
nghĩa vụ của NĐDTPL của doanh nghiệp.
Đây được cho là một trong những bước tiến mới của doanh nghiệp, khi mà
doanh nghiệp được quyền tự quyết định về số lượng, chức danh, quyền và nghĩa vụ
NĐDTPL. Điều này thể hiện nguyên tắc tự do kinh doanh của doanh nghiệp cũng như
quyền định đoạt của chủ sở hữu doanh nghiệp [45, Tr. 7]. Tuy nhiên, điều lệ doanh
nghiệp phải quy định trong phạm vi cho phép pháp luật. Các quy định trong Điều lệ
công ty không được vi phạm điều cấm, vi phạm quy tắc đạo đức xã hội.
Thứ hai, căn cứ theo quy định của pháp luật
Có một số trường hợp căn cứ quy định pháp luật để xác định NĐDTPL như:
Khoản 4, Điều 13 LDN 2014 quy định trường hợp hết thời hạn ủy quyền theo
khoản 3 Điều này mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt
Nam và không có ủy quyền khác người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các

18



quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong phạm vi
đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của công ty trở lại…
Thực tế, doanh nghiệp sẽ quy định cụ thể NĐDTPL và chức danh của
NĐDTPL. Thông thường sẽ là Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Tuy nhiên đối với
trường hợp điều lệ công ty không có quy định thì việc xác định NĐDTPL sẽ dựa trên
quy định pháp luật và căn cứ vào chức danh của người đó như sau:
Đối với Công ty cổ phần chỉ có một NĐDTPL, thì Chủ tịch HĐQT hoặc Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc là NĐDTPL của công ty; trường hợp Điều lệ không có quy
định khác thì Chủ tịch HĐQT là NĐDTPL của công ty. Trường hợp có hơn một
NĐDTPL, thì Chủ tịch HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là
NĐDTPL của công ty (khoản 2 Điều 134 LDN 2014).
NĐDTPL trong CTTNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu là Chủ
tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác
(khoản 2 Điều 78 LDN 2014).
Thứ ba, theo quyết định của Tòa án
Theo khoản 7, Điều 13, LDN 2014, trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm
bảo cho quá trình tố tụng tại Tòa án diễn ra theo đúng trình tự thủ tục, Tòa án có thẩm
quyền sẽ có quyền chỉ định NĐDTPL của doanh nghiệp. Theo quy định của luật
chuyên ngành về thủ tục tố tụng của Tòa án, khoản 1 Điều 87 và khoản 1 Điều 88 Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định rằng Tòa án phải chỉ định NĐDTPL của doanh
nghiệp để tham gia tố tụng tại Tòa án trong trường hợp (i) Nếu NĐDTPL của doanh
nghiệp cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với doanh nghiệp mà quyền và lợi ích
hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp; (ii) Nếu
NĐDTPL đang là NĐDTPL trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp trong cùng một vụ việc. Quy định này của pháp luật tố tụng nhằm tránh xung
đột lợi ích giữa NĐDTPL và doanh nghiệp mà họ làm đại diện. [45, Tr. 8]

19



Bên cạnh đó, theo Luật Phá sản 2014 quy định khá chi tiết đối với trường hợp
công ty bị mở thủ tục phá sản (khoản 2 Điều 47). Trường hợp xét thấy NĐDTPL của
doanh nghiệp không có khả năng điều hành, doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm khoản
1 Điều 48 của Luật Phá sản 2014 thì Thẩm phán ra quyết định thay đổi NĐDTPL của
doanh nghiệp theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ hoặc Quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản.
Những trường hợp thay đổi NĐDTPL nêu trên, không phụ thuộc vào điều lệ
công ty hay chỉ có ý chí của cổ đông, Tòa án có quyền chỉ định NĐDTPL để bảo vệ
quyền và lợi ích của doanh nghiệp tại Tòa án. [45, Tr. 8]
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là hai trường hợp cụ thể có quy định về việc Tòa án chỉ
định NĐDTPL. Trên thực tế còn rất nhiều trường hợp khác cần phải được Tòa án chỉ
định NĐDTPL tuy nhiên vẫn chưa có quy định hướng dẫn cụ thể khoản 7, Điều 13
LDN.
1.3

Nghĩa vụ của người đại diện pháp luật của doanh nghiệp

Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam, nghĩa vụ dân sự là việc
mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc
khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ
thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền) (Điều 274 Bộ luật dân sự 2015). Đặc
điểm nghĩa vụ dân sự: Các bên chủ thể trong nghĩa vụ dân sự được xác định cụ thể; Là
một loại quan hệ tài sản; Có sự ràng buộc pháp lý giữa các chủ thể; Vì lợi ích bên có
quyền. Nghĩa vụ dân sự gồm có: nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng, nghĩa vụ dân sự
ngoài hợp đồng. Đối tượng thực hiện là các bên trong quan hệ dân sự, vì mục đích của
chủ thể có quyền.
Theo như cách luận giải đã phân tích về các khía cạnh của người đại diện và

mối quan hệ về đại diện trong doanh nghiệp tại nhiều quốc gia khác nhau và Việt Nam
đều thừa nhận rằng, người đại diện có quyền và nghĩa vụ làm tất cả mọi thứ mà pháp

20


×