Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Bảo vệ cổ đông thiểu số theo pháp luật doanh nghiệp việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.48 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN HẢI

BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ THEO PHÁP LUẬT DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN HẢI

BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ THEO PHÁP LUẬT DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN NHƯ PHÁT

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế “Bảo vệ cổ đông thiểu số


theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Như Phát. Những kết quả, trích
dẫn và số liệu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cận và trung thực. Nội
dung bài viết này chưa ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm về sự cam đoan này.
Tác giả luận văn

Phạm Văn Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU
SỐ THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM................................ 7
1.1. Khái quát về cổ đông và cổ đông thiểu số.............................................. 7
1.1.1. Khái niệm về cổ đông..................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm về cổ đông thiểu số và nhóm cổ đông............................ 8
1.1.3. Đặc điểm và vai trò của cổ đông thiểu số trong quản trị công ty cổ
phần....................................................................................................... 11
1.1.4. Nhu cầu và bản chất của bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số . 12

1.2. Các phương thức bảo vệ quyền lợi của của cổ đông thiểu số theo pháp
luật Việt Nam.............................................................................................. 15
1.3. Quy định về các quyền của cổ đông thiểu số........................................ 17
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VỀ BẢO VỆ
CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM...24
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ của cổ đông thiểu số trong công ty cổ
phần tại Việt Nam....................................................................................... 24
2.1.1. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần tại Việt Nam........................................................ 24

2.1.2. Thực trạng các phương thức bảo vệ cổ đông thiểu số theo pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.................................................... 28
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty
cổ phần tại Việt Nam................................................................................... 41
2.2.1. Các kết quả đạt được................................................................... 41
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân...................................... 44
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ.............................................. 54
3.1. Nhu cầu, định hướng nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của cổ đông
thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam................................................. 54


3.2. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của
cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp tại Việt
Nam............................................................................................................. 56
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quyền của cổ đông thiểu số..............57
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ nội bộ đối với cổ đông thiểu số...........64
3.2.3. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ bên ngoài đối với cổ đông thiểu số.....68
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm quyền cổ đông.....................69
KẾT LUẬN....................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BKS

Ban kiểm soát

BCTC


Báo cáo tài chính

CĐTS

Cổ đông thiểu số

CTCP

Công ty cổ phần

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

LDN

Luật doanh nghiệp

HĐQT

Hội đồng quản trị



Giám đốc

TGĐ

Tổng giám đốc



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập,Việt Nam luôn chú trọng xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt pháp luật về các chủ thể kinh doanh. Chính
hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến không những có những tác động lớn đến hoạt động
đầu tư kinh doanh ở trong nước mà còn vấn đề bảo vệ cổ đông. Ngoài ra, Việt Nam
phải cam kết thực hiện những thông lệ quốc tế, chấp nhận cạnh tranh quốc tế, mở
cửa cho thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi theo
nguyên tắc đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
dưới các hình thức khác nhau. Muốn như vậy, thì chúng ta phải cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh, trong đó việc tăng cường các cơ chế biện pháp bảo vệ nhà đầu
tư, các cổ đông là thiết yếu.
Cổ đông thiểu số thường chiếm số lượng lớn và thậm chí trong nhiều công ty,
đặc biệt là các công ty đại chúng có thể có đến hàng ngàn CĐTS và tổng vốn cổ
phần của họ cũng thường chiếm tỷ lệ đa số trong vốn điều lệ. Nói cách khác, một
khi tập hợp được đa số cổ đông nhỏ, cũng có thể tạo được một nguồn vốn lớn góp
phần vào công ty cổ phần. Nên trong những năm qua, có sự xảy ra tình trạng các
ĐHĐCĐ thường niên tổ chức không thành công nhiều đợt trong nhiều năm, đơn cử
là trường hợp tranh chấp của các cổ đông của Ngân hàng Exim Bank dẫn đến nhiều
lần phải huỷ các cuộc họp ĐHĐCĐ hoặc sự mua bán chuyển nhượng cổ phần của
các cổ đông lớn và nhỏ như ở Sacombank, Sabeco, Vinaconex cũng gây nhiều lãng
phí và tranh chấp xảy ra kéo dài.
Hơn nữa việc quản lý công ty cổ phần thường chịu tác động từ phía các cổ
đông lớn, mặc dù họ có tỷ lệ vốn góp chưa chắc đã cao và quyết định. Tuy nhiên,
thực tế hoạt động của các công ty cổ phần cho thấy, đã có những trường hợp xãy ra
như cổ đông lớn chèn ép cổ đông nhỏ, không ít HĐQT và Ban GĐ thể hiện lộng
quyền trong vai trò quản lý công ty, xuất hiện trường hợp cổ đông có quyền kiểm
soát thông tin, điều hành có sự áp đảo CĐTS; trong khi đó ý thức bảo vệ quyền và

nghĩa vụ của các CĐTS còn thấp. Ngoài ra, thị trường chứng khoán là một kênh
1


không thể thiếu cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư và đang trên đà phát triển vì vậy
để phát triển thì vấn đề thiết lập, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên
quan để bảo vệ tốt quyền và đảm bảo tính cạnh tranh, hấp dẫn cũng như lợi ích của
các nhà đầu tư cổ phần là cấp thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Bảo vệ cổ đông thiểu số
theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” để tìm hiểu các quy định của
pháp luật hiện hành, thực trạng áp dụng về quyền và nghĩa vụ của CĐTS trong các
công ty cổ phần trong thời gian qua. Đồng thời, từ đó rút ra một số bất cập trong
quy định của pháp luật, có đề xuất một số hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
CĐTS trong công ty cổ phần tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc bảo vệ CĐTS trong công ty cổ phần là một nội dung trong pháp luật về
các chủ thể kinh doanh và pháp luật thương mại, được nhiều nhà khoa học, các nhà
doanh nghiệp nghiên cứu trong thời gian qua. Thông thường, các nhà nghiên cứu
khác nhau sẽ có cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, tại
từng thời điểm nghiên cứu sẽ có những nhận định khác nhau là điều không thể tránh
khỏi. Nhiều công trình đã xuất bản như: Sách, luận văn, báo, đề tài khoa học cấp bộ,
ngành, nhiều bài báo, tạp chí có đề cập đến nội dung nghiên cứu. Nhận thấy tầm
quan trọng của nó trong tình hình quản trị các doanh nghiệp và định hướng phát
triển kinh tế thị trường của đất nước, trong khả năng của người viết đã sưu tầm và
xin đề cập một vài nghiên cứu tiêu biểu như sau:
- Quách Thuý Quỳnh, 2010, “Quyền của cổ đông thiểu số theo pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí luật học, Hà Nội. Bài viết đưa ra hai luận điểm chính: thứ nhất, bảo
vệ quyền lợi CĐTS, đây là vấn đề quan trọng trong việc quản trị công ty trong các
nền kinh tế chuyển đổi; thứ hai, quyền cổ đông , một phương tiện và cơ sở pháp luật
để bảo vệ CĐTS. Từ đó đã đề ra một số định hướng và giải pháp nhằm tăng cường
bảo vệ CĐTS theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam..

- Đỗ Thái Hán, 2012,“Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Trình bày những vấn
đề về quyền của cổ đông, sự cần thiết phải bảo vệ CĐTS, cơ chế bảo vệ CĐTS
2


và so sánh pháp luật một số nước trên thế giới với các nội dung nghiên cứu: thực
trạng bảo vệ CĐTS trong công ty cổ phần, thực tiễn quản lý và điều hành công ty cổ
phần, bảo vệ CĐTS ở một số nước như Nhật Bản, Pháp, Mỹ.. từ đó rút ra những
quan điểm và đề xuất một số nghiên cứu để áp dụng cho Việt Nam, giải pháp và
kiến nghị.
- Nguyễn Thị Thu Hương, 2015,“Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội,
Việt Nam. Luận án nghiên cứu về sâu về quan điểm và nhu cầu bảo vệ CĐTS, thông
qua đó góp phần làm rõ nhận thức về bảo vệ CĐTS; làm rõ vai trò về việc bảo vệ
CĐTS và các yêu cầu đối với pháp luật về bảo vệ CĐTS, những yếu tố tác động đến
pháp luật về bảo vệ CĐTS đối với công ty cổ phần, từ đó đề ra các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ CĐTS.
- Đỗ Quang Minh, 2018, “Bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số trong công ty cổ
phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện
Khoa học Xã hội, Việt Nam. Luận văn gồm 03 chương bao quát về: Những lý luận
về quyền cổ đông và sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của CĐTS trong CTCP; Đánh giá
thực trạng bảo vệ quyền lợi của CĐTS trong CTCP từ đó xây dựng phương hướng
và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi của CĐTS trong
CTCP trong thời gian sắp tới.
- Phan Hoàng Ngọc, 2018,“Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số công ty cổ
phần ở Việt Nam: nghiên cứu so sánh với Nhật bản và Hoa kỳ”, Luận án Tiến Sĩ
Luật, Học viện Khoa Học Xã hội, Việt Nam. Luận án khái quát về lý luận cơ bản về
bảo vệ CĐTS; phân tích và đánh giá pháp luật bảo vệ CĐTS, có liệt kê và đối chiếu
làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt với pháp luật của Nhật Bản và Hoa Kỳ,

từ đó rút ra những khuyến nghị để tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ CĐTS.
Ngoài ra những cuốn sách rất ý nghĩa đã mang đến nhiều kiến thức bổ ích
cho việc nghiên cứu công ty cổ phần tại Việt Nam
- PGS.TS Bùi Xuân Hải và Nhóm biên soạn (2017), “Giáo trình Pháp luật về
chủ thể kinh doanh”, Nhà xuất bản Hồng Đức.
3


- Bùi Thị Hằng Nga và nhóm biên soạn (2018), “Pháp luật doanh nghiệp:
quy định và tình huống”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP.HCM.
Những công trình trên đã có những đóng góp cơ bản cho khoa học pháp lý
Việt Nam đối với việc bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần. Tác giả luận văn kế
thừa những đóng góp khoa học đó, từ đó bổ sung thêm kiến thức khoa học pháp lý
kết hợp với tư duy nhận thức, kiến thức và thực tiễn để có thể hoàn thiện và viết
luận văn đạt chất lượng cao nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận pháp luật và thực trạng trong việc bảo vệ CĐTS theo
LDN, rút ra một số định hướng từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ CĐTS theo pháp luật Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm thực hiện và hoàn thiện các mục đích trên, luận văn giải quyết các vấn
đề sau:
Nghiên cứu lý luận về quyền và nghĩa vụ cổ đông thiểu trong công ty cổ
phần.
Phân tích các quy định cũng như thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện
hành điều chỉnh về bảo vệ CĐTS trong công ty cổ phần.
Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật để bảo vệ CĐTS trong
công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp cao học, người viết tập
trung vào việc phân tích LDN 2014 về các vấn đề cơ bản về CĐTS, quy định pháp
luật về bảo vệ CĐTS hiện nay, cơ chế bảo vệ CĐTS, giải pháp và kiến nghị về bảo
vệ CĐTS trong CTCP ở Việt Nam.
Luận văn không đề cập đến khía cạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
hoặc cổ đông với tư cách là người nắm giữ các loại chứng khoán khác như: trái
phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư; các loại chứng khoán khác. Không nghiên cứu toàn bộ
4


các quy định pháp luật về bảo vệ cổ đông của công ty, mà chỉ tập trung vào nghiên
cứu khía cạnh pháp luật về bảo vệ CĐTS trong công ty cổ phần.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin gồm
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là nghiên cứu lý luận chung về Nhà
nước và Pháp Luật. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp để xem xét một cách
toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn, cụ thể như sau:
- Phương pháp logic, phương pháp lịch sử: phương pháp này sử dụng chủ
yếu ở chương 1 nhằm phân tích quá trình phát triển để hình thành loại hình công ty
cổ phần tại Việt Nam. Làm rõ các khái niệm, cơ sở lý luận về vấn đề cổ đông, bảo
vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích luật viết: tập trung nghiên cứu những quy
định của pháp luật có liên quan đến bảo vệ quyền của cổ đông và CĐTS. Trên cơ sở
phân tích kết hợp với thực tiễn trong quá trình thực hiện trong thời gian qua liên
quan đến vấn đề bảo vệ CĐTS tại các công ty cổ phần ở Việt Nam.
- Phương pháp quy nạp, diễn dịch: chủ yếu được sử dụng ở chương 3 với
mục đích đánh giá các quy định của pháp luật có liên quan đến đề tài, đánh giá tình
hình chung của cả nước cũng như nêu lên những thực trạng về vấn đề bảo vệ CĐTS.
Qua đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ cổ đông thiểu số.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là cơ sở lý luận, tài liệu tham khảo cho
các công trình nghiên cứu có những nội dung có liên quan, cho các cơ quan quản lý,
các cổ đông và những người quản trị, điều hành công ty.
Những phân tích thực tiễn, kiến nghị những giải pháp trong luận văn sẽ là
định hướng và góp phần bổ sung các quan điểm lý luận khi các nhà làm luật hoàn
thiện pháp luật về góp vốn thành lập CTCP tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương chưa bao gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo theo quy định, kếu cấu như sau:
5


- Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền cổ đông và sự cần thiết bảo vệ
quyền lợi của cổ đông thiểu số trong công ty
- Chương 2: Thực trạng pháp luật doanh nghiệp về bảo vệ cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần tại Việt Nam.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông
thiểu số

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ THEO
PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1.1. Khái quát về cổ đông và cổ đông thiểu số
1.1.1. Khái niệm về cổ đông
Theo khoản 2 Điều 3 LDN 2014 “cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu ít
nhất một cổ phần của công ty cổ phần”. Cổ phần chính là vốn điều lệ được chia
thành nhiều phần bằng nhau, cũng chính là phần vốn nhỏ nhất của CTCP.

Theo quy định LDN 2014, tư cách cổ đông của tổ chức, cá nhân có thể được
xác lập trong các trường hợp sau: đăng ký mua cổ phần tại thời điểm đăng ký thành
lập doanh nghiệp; mua cổ phần do công ty chào bán trong phạm vi cổ phần được
quyền chào bán; nhận chuyển nhượng cổ phần từ cổ đông của công ty; thừa kế cổ
phần thuộc di sản của người để lại thừa kế; được cổ đông của công ty tặng cho; mua
cổ phần được bán đấu giá để thi hành án.
Tại Việt Nam, pháp luật không có quan niệm và công nhận về CTCP có một
cổ đông. Nhưng trên thực tế hoạt động của một số CTCP thì có loại hình CTCP chỉ
có một cổ đông chi phối hoặc biến tướng để phù hợp khi đăng ký thành lập nhưng
thực tế hoạt động điều hành chỉ có một cổ đông. Trong giáo trình Luật thương mại
của PGS.TS Ngô Huy Cương, “cũng có khái quát về pháp luật nhiều nước trên thế
giới có thừa nhận và điều tiết Công ty cổ phần một thành viên” [6, tr.229]. Tại Điểm
b, Khoản 1 Điều 110 LDN 2014 quy định “trong Công ty cổ phần bắt buộc phải có
tối thiểu 03 cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa.”.
Mọi CTCP đều phải lập sổ đăng ký cổ đông theo quy định, sổ đăng ký cổ
đông có thể là văn bản, tập dữ liệu điện tử hoặc cả hai loại này. Phải được lưu trữ tại
trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc trung tâm lưu ý chứng khoán. Cổ đông được
quyền kiểm tra, tra cứu, trích lục, sao chép nội dung sổ đăng ký cổ đông. Việc quy
định sổ cổ đông và cách thức quản lý sổ cổ đông và thông tin trao đổi được quy định
tại Khoản 2 Điều 121 LDN2014.

7


Tuỳ theo cách phân loại theo quyền và nghĩa vụ gắn liền với loại cổ phiếu mà
cổ đông sở hữu, cổ đông được phân thành như sau: cổ đông sáng lập, cổ đông phổ
thông và cổ đông ưu đãi.
Tuỳ theo tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ trong một công ty, cổ đông được
phân loại thành:
- Cổ đông lớn: do điều lệ công ty cổ phần quy định tỷ lệ để được coi là cổ

đông lớn trên cơ sở pháp luật hiện hành. Theo Điều 2, Thông tư số 155/2015/TTBTC về việc hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán quy định “cổ
đông lớn là nhóm người có liên quan sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu đang lưu
hành có quyền biểu quyết của công ty đại chúng; nhà đầu tư sở hữu từ 5% trở lên
chứng chỉ quỹ của quỹ đóng; cổ đông sáng lập trong thời gian bị hạn chế chuyển
nhượng của công ty đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng; thành viên
sáng lập của quỹ đại chúng”.
- Cổ đông nhỏ: Như đề cập định nghĩa về cổ đông lớn, thì có thể hiểu “cổ
đông nhỏ là những cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp dưới 5% số cổ phiếu có
quyền biểu quyết của tổ chức phát hành”.
Căn cứ vào khả năng chi phối của công ty, cổ đông được chia thành 02 loại:
Cổ đông đa số và CĐTS.
1.1.2. Khái niệm về cổ đông thiểu số và nhóm cổ đông
CĐTS là khái niệm trên thực tế còn tồn tại rất nhiều tên gọi khác nhau và có
nhiều quan điểm khác nhau chưa thống nhất như sau:
Quan điểm thứ nhất khái niệm CĐTS dựa trên khái niệm của cổ đông lớn.
Trong khi Luật doanh nghiệp không định nghĩa cổ đông lớn và cổ đông thiểu số, thì
Hiện nay có văn bản luật trực tiếp quy định về cổ đông lớn đó là Luật các tổ chức
tín dụng 2010. Khoản 26 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010 khái niệm“cổ đông
lớn của tổ chức tín dụng cổ phần là cổ đông sở hữu trực tiếp gián tiếp từ 5% vốn cổ
phần có quyền biểu quyết trở lên của tổ chức tín dụng cổ phần”. Như vậy, Luật đưa
ra một tỷ lệ là 5% để phân ranh giới giữa cổ đông lớn và loại cổ đông còn lại trong
CTCP, vì vậy có thể khái quát rằng cổ đông nhỏ hay còn gọi là CĐTS là cổ đông sở
8


hữu dưới 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết. Cách đề cập như trên là chưa hợp lý
bởi vì những tỷ lệ này chưa đủ phản ánh bản chất của CĐTS, mà tỷ lệ này được quy
định nhằm mục đích để ghi nhận các quyền lợi cho cổ đông lớn.
Quan điểm thứ hai cho rằng loại hình CTCP là loại công ty đối vốn, nên một
khi cổ đông góp nhiều vốn (cổ phần) thì sẽ có nhiều quyền hơn so với các cổ đông

khác và ngược lại. Nên từ đó hiểu rằng, CĐTS là những cổ đông sở hữu một tỷ lệ
phần trăm tương đối nhỏ cổ phần có quyền biểu quyết trong CTCP. Cách tiếp cận
này cũng có lý nhưng chưa đầy đủ, vì có những trường hợp các CĐTS tập hợp lại
thành nhóm cổ đông, đạt được một mức chi phối thì có thể chi phối được công ty,
trong khi đó các cổ đông được coi là cổ đông lớn lại có thể bị lép với bởi nhóm cổ
đông này. Ví dụ trong trường hợp có 40 cổ đông, trong đó có 01 cổ đông sở hữu
22% cổ phần của công ty và 39 cổ đông còn lại mỗi cổ đông sở hữu 2% cổ phần
công ty. Thông thường cổ đông có tỷ lệ cổ phần sở hữu đạt 22% thì được xem là cổ
đông lớn. Và cổ đông nắm giữ 2% là cổ đông nhỏ, các cổ đông này tập hợp lại cổ
phần của mình, tạo thành nhóm cổ đông sở hữu 78% cổ phần công ty thì cổ đông sở
hữu 22% cổ phần trong công ty lại ở vào vị trí CĐTS do bị hạn chế về khả năng chi
phối các quyền điều hành và định đoạt trong công ty.
Quan điểm thứ ba, theo quan điểm của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Xuân Hải
(2018) trong cuốn giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh định nghĩa “Cổ đông
thiểu số dựa trên cả hai yếu tố quan trọng: thứ nhất, là phần vốn góp của họ (tỷ lệ
phần trăm có quyền biểu quyết) hay phần vốn góp của họ trong vốn điều lệ của
công ty. Thứ hai là khả năng trong việc tác động và chi phối đến các vấn đề quan
trọng cũng như có quyền biểu quyết thông qua các vấn đề được đưa ra tại Đại hội
đồng cổ đông”.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàng Thuỳ Trang (2015) “nếu tỷ lệ cổ phần
của cổ đông mà không quyết định và kiểm soát công ty thì bản thân số lượng cổ
phần không thể nói lên được vị trí của cổ đông là cổ đông thiểu số hay cổ đông đa
số” hay theo như Luật sư Nguyễn Ngọc Bích và Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung trong
trang 349 sách Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp theo luật doanh nghiệp 2005 thì
9


cho rằng “được gọi là cổ đông ít vốn hay nhiều vốn là khi phải nói đến số lượng tiền
họ bỏ ra thực tế để góp vốn vào công ty và gọi là đa số hay thiểu số là khi họ thực
thi và khả năng thực hiện quyền biểu quyết”.

Từ những phân tích và nhận định trên, cho thấy việc xác định CĐTS nên theo
hướng mở tuỳ thuộc cơ cấu cổ đông từng doanh nghiệp, theo đó khi nhận định
CĐTS không nên chỉ căn cứ vào việc ấn định tỷ lệ sở hữu vốn cụ thể mà cần phải
xem xét khả năng chi phối của cổ đông trong việc thực hiện quyền điều hành công
ty. Nói một cách khác, CĐTS nên được hiểu và xác định chính xác tuỳ thuộc vào cơ
cấu sở hữu thực tế trong mỗi CTCP. Theo thông lệ quốc tế về quản trị công ty tốt thì
được xem là CĐTS (minority shareholders) khi mà cổ đông/nhóm cổ đông đó không
có quyền biểu quyết hoặc nắm tỷ lệ cổ phần có quyền biểu quyết dưới 50%, do quy
định tại luật pháp đa số các nước tiên tiến là các Nghị quyết ĐHCĐ được thông qua
khi có số cổ phần có quyền biểu quyết chỉ cần từ 51% trở lên là hợp pháp.
Thực tế cho thấy tỷ lệ phần vốn góp mà cổ đông nắm giữ quyết định khả
năng tham gia vào quá trình quản lý, kiểm soát CTCP. Theo đó, các cổ đông hoặc
nhóm cổ đông có tỷ lệ sở hữu cổ phần càng cao thì khả năng chi phối các vấn đề lớn
của công ty càng lớn và ngược lại. CĐTS với số vốn góp hạn chế sẽ gặp phải không
ít những bất lợi khi thực hiện quyền biểu quyết các vấn đề quan trọng trong công ty,
để tự bảo vệ mình những CĐTS có tiếng nói chung có thể tập hợp lại, thông qua
nhóm cổ đông thực hiện các quyền mà pháp luật cho phép. Về nhóm cổ đông, luật
quy định rõ tại Khoản 2 Điều 114 LDN như sau: “ Nhóm cổ đông là một tập hợp
các cổ đông thiểu số sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời
hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công
ty”. Nhóm cổ đông được hình thành một cách đơn giản và linh hoạnh như: chỉ cần
có từ hai cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa, khi tập hợp lại sở hữu ít nhất
10% tổng số cổ phần hoặc ít hơn theo Điều lệ công ty quy định, sở hữu cổ phần đó
liên tục ít nhất là 06 tháng. Nhờ đó, cổ đông tự mình hoặc được gộp các cổ đông
nhỏ lẻ thành nhóm cổ đông để thực hiện quyền đề cử, bầu, bổ nhiệm, miễn hội đồng
10


quản trị (HĐQT), ban kiểm soát (BKS); quyền triệu tập họp đại hội đồng cổ đông
(ĐHĐCĐ)…, những quy định này mang ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện

các biện pháp để bảo vệ CĐTS.
Trên cơ sở quan điểm về các quy định, phân tích trên về CĐTS và Nhóm cổ
đông. Tác giả đề xuất khái quát khái niệm CĐTS như sau: CĐTS còn gọi là cổ đông
nhỏ là cổ đông sở hữu một tỷ lệ cổ phần nhỏ trong CTCP, không có khả năng chi
phối, kiểm soát hoạt động của công ty một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
1.1.3. Đặc điểm và vai trò của cổ đông thiểu số trong quản trị công ty cổ
phần
CĐTS cũng là cổ đông phổ thông, do đó, quyền và nghĩa vụ của CĐTS cũng
giống như cổ đông phổ thông. Ngoài các quyền của cổ đông phổ thông, CĐTS còn
có những quyền rất đặc thù để họ có thể tự bảo vệ mình trước các cổ đông lớn đầy
quyền lực, như quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 114 LDN 2014. Về cơ bản, kế thừa
và tiếp thu các ý kiến sau khi vận dụng LDN 2005, LDN 2014 đã xây dựng thêm
một cơ chế để bảo vệ các CĐTS, vốn luôn là những nhóm có quyền và nghĩa vụ bé
nhỏ trong CTCP, bởi họ ít có khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình trước các cổ
đông lớn. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật này đã xảy ra
nhiều vấn đề cho những nhà làm luật tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định
của pháp luật. Thông qua đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho CĐTS bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình cũng có một cơ sở và cấu trúc hoàn chỉnh trong quản trị để
chính CTCP có thể hoạt động thuận lợi và hội nhập hơn.
LDN 2005 cũng như LDN 2014 gần như không có quy định nào liên quan
đến khái niệm cổ đông nhỏ hay cổ đông lớn, ngoại trừ một lần nhắc đến cụm từ “cổ
đông lớn”. Luật không quy định về CĐTS và cổ đông đa số, nhưng có thể coi cổ
đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu số cổ phần mà trong ĐHĐCĐ không đạt tỷ lệ biểu
quyết cần thiết để thông qua quyết định của ĐHĐCĐ là CĐTS. Như vậy, cổ đông
nhỏ và nhiều cổ đông lớn, thậm chí sở hữu tới 49% số cổ phần vẫn có thể thuộc vào
nhóm CĐTS, đây là đặc điểm để nhận biết CĐTS.

11



Về vai trò, cổ đông đa số hay CĐTS cũng đều phát sinh các vấn đề tương tự
nhau, trong đó có việc tranh chấp các vấn đề liên quan đến quyền lợi trong nội bộ
công ty. Chính vì vậy, cả LDN 2005 và LDN mới năm 2014 đều quy định, nguyên
tắc giải quyết tranh chấp nội bộ là một trong những vấn đề quan trọng bắt buộc phải
có trong Điều lệ của công ty.
Tuy nhiên, từ “tranh chấp” chỉ xuất hiện rất ít trong LDN 2014, chẳng hạn,
quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 120 về “Cổ phiếu”, LDN 2014: Cổ đông phải
“chịu trách nhiệm về những tranh chấp phát sinh từ việc cấp lại cổ phiếu mới”
trong trường hợp đề nghị công ty cấp lại cổ phiếu mới, nếu bị mất, bị huỷ hoại hoặc
hư hỏng khác. Nhưng, Luật lại có nhiều quy định khác xử lý vấn đề tranh chấp nội
bộ công ty, trong đó có việc khởi kiện đối với người quản lý công ty.
1.1.4. Nhu cầu và bản chất của bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, bảo vệ có nghĩa là: chống lại mọi sự hủy hoại,
xâm phạm để giữ gìn cho được nguyên vẹn; bênh vực bằng lý lẽ để giữ vững ý kiến
hay quan điểm; bảo vệ quyền lợi có nghĩa là bảo vệ các lợi ích được hưởng, mà
người khác không được xâm phạm đến. Do vậy, bảo vệ quyền lợi CĐTS trong
CTCP được hiểu là: hoạt động pháp lý được thực hiện bởi những chủ thể có nghĩa
vụ bảo vệ các lợi ích được hưởng của CĐTS trong CTCP nhằm phòng ngừa, trừng
trị hành vi vi phạm quyền của CĐTS, đồng thời phục hồi những quyền đã bị hạn
chế, tước bỏ bởi hành vi vi phạm quyền của CĐTS.
Bảo vệ CĐTS là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của pháp
luật CTCP. CĐTS thường chiếm số lượng lớn và thậm chí nhiều công ty đặc biệt
trong các công ty đại chúng có CĐTS lên đến hàng ngàn người và tổng vốn cổ phần
của họ cũng thường chiếm tỷ lệ đa số trong vốn điều lệ. Nói cách khác, một khi tập
hợp được lại các cổ đông nhỏ thì cũng có thể tạo một nguồn vớn lớn góp vào CTCP,
chứ để từng cổ đông nhỏ riêng lẽ sẽ không có tiếng nói trong CTCP. Cho nên, thông
thường việc quản lý CTCP lại thường chịu tác động từ các cổ đông lớn, trong khi
chúng chưa chắc có một tỷ lệ vốn cổ phần cao. Như vậy, việc bảo vệ quyền lợi của
các cổ đông nhỏ sẽ tạo ra một sự phát triển bền vững trong mộ hình quản trị CTCP,
12



bởi nó sẽ đảm bảo tính cạnh tranh, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư cổ phần. Tuy
nhiên, thực tế trên thị trường có những trường hợp xảy ra như sau:
- Cổ đông lớn chèn ép CĐTS: bảo vệ cả cổ đông lớn và CĐTS là phù hợp với
tinh thần của pháp luật doanh nghiệp, mọi cổ đông đều có quyền được đối xử công
bằng. Trong một công ty đối vốn như công ty cổ phần, cổ đông lớn với số lượng cổ
phần mà họ nắm giữ đã được pháp luật bảo vệ rất nhiều, ưu thế về vốn giúp họ
không chỉ tự bảo vệ quyền lợi của mình mà còn có thể dễ dàng chi phối công ty, trục
lợi thông tin, cá nhân, đẩy thiệt hại cho CĐTS. Nếu quyền lợi của CĐTS không bị
xâm phạm và bị xem thường từ thì sẽ không nêu ra vấn đề bảo vệ CĐTS. Lý do
khiến cổ đông lớn lạm quyền, xâm phạm quyền lợi của CĐTS chủ yếu là vì mục
đích tư lợi. Thực tế cho thấy các cổ đông lớn có những quyền lợi, tìm cách thâm
tóm công ty để dành quyền quản lý, từ đó không khó để họ thực hiện điều chèn ép
CĐTS bởi họ có trong tay sức mạnh quyền lực. Các CĐTS dù có biết mình bị xâm
phạm, nhưng do thời gian, thông tin tiếp cận khó nên phần lớn vẫn phải cam chịu
chấp nhận. Các thủ đoạn, cách thức mà cổ đông lớn hay dùng trong việc lấn quyền
phổ biến là việc cổ đông lớn trực tiếp điều hành công ty với quyền kiểm soát
HĐQT, thậm chí cả Ban giám đốc nên thông qua HĐQT bành trướng quyền lực, xây
dựng những quyết định có lợi cho mình tước bỏ quyền CĐTS hoặc lợi dụng quyền
hạn của mình và sử dụng các thông tin của công ty để thực hiện tối đa các giao dịch
tư lợi, chiếm đoạt tài sản của công ty.
- Sự lộng quyền của HĐQT, Ban giám đốc trong vai trò quản lý, thực tế rất
nhiều công ty không có sự tách bạch giữa sở hữu và quản lý là một dấu hiệu đặc
trưng của CTCP. Chính vì vậy, có những người được làm quản lý công ty rồi có
những hành động cá nhân mà không vì mục tiêu tối đa hóa của cải cho các cổ đông.
- Sự áp đảo của cổ đông có quyền kiểm soát thông tin, điều hành với CĐTS
trong CTCP, họ có quyền để giữ tài sản với số vốn đã góp vào công ty và lòng tham
nổi lên. Do vậy, về mặt lý thì các cổ đông góp nhiều vốn sẽ có nhiều ưu thế hơn
trong việc ứng cử và tham gia quản lý, từ đó quản lý được phần vốn của mình một

cách chính đáng và trục lợi phần vốn của các cổ đông nhỏ, gây ra bất công cho
13


những cổ đông nhỏ khi mà quyền của họ không được chính những người quản lý
bảo vệ.
- Ngoài ra ý thức tinh thần tham gia đầu tư góp vốn theo kiểu đám đông, nên
ý thức tự bảo vệ chính mình của CĐTS ở Việt Nam còn thấp. CĐTS thường không
hiểu biết hoặc ít hiểu biết về các quy định pháp luật hiện hành. Đa số họ xuất phát từ
nhiều thành phần khác nhau, vì vậy có trình độ, nhận thức, kiến thức, phương thức
đầu tư chủ yếu quan tâm đến khoản lời. Họ chỉ quan tâm đến việc tăng giá, giá giá
trị cổ phiếu hằng ngày, không quan tâm đến những nguy cơ gây thất thoát trong vấn
đề quản trị doanh nghiệp đó. Trong khi đó, các cổ đông lớn có thể biết nhau nên họ
gắn kết và liên minh dễ dàng để có thể kiểm soát công ty, từ đó có những xâm hại
đến lợi ích chung của định hướng phát triển của doanh nghiệp cũng như lợi ích của
các CĐTS.
Ngoài ra, sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của CĐTS nói chung và cổ đông nói
riêng xét theo khía cạnh mục đích hoạt động của công ty: Các cổ đông với vai trò là
chủ sở hữu công ty sẽ được bảo đảm bảo lợi ích tốt nhất, công ty cũng có trách
nhiệm bảo vệ các quyền lợi và lợi ích của những chủ thể có có liên quan khác như
khách hàng, ngân hàng, nhân viên và đối tác của công ty.
Vì vậy có thể nói rằng, bản chất của việc bảo vệ CĐTS là:
- Đối với nhà đầu tư: Đảm bảo quyền lợi của các CĐTS, các CĐTS khi tham
gia góp vốn vào công ty cổ phần mà được bảo vệ thì sẽ có quyền lợi. Việc pháp luật
bảo vệ CĐTS sẽ giúp các nhà đầu tư có thể thực hiện được các quyền có cơ sở hơn.
Ngoài ra tránh được sự chèn ép, đối xử không công bằng của các cổ đông lớn, và
cuối cùng là nhận được quyền lợi công bằng của các cổ đông lớn và xứng đáng với
số vốn mình bỏ ra.
- Đối với công ty cổ phần: Khi bảo vệ quyền lợi CĐTS, thì sẽ khuyến khích
nhà đầu tư tin tưởng bỏ vốn thêm khi công ty có nhu cầu huy động. Cũng như các

CĐTS sẽ giữ đầu tư dài hạn, tạo sự bền vững trong phát triển của công ty và thị
trường chứng khoán nếu công ty lên sàn chứng khoán. Bảo vệ CĐTS, giúp nhà đầu
tư tin tưởng, lựa chọn tham gia góp vốn thay vì công ty phải đi vay ngân hàng,
14


chính sự minh bạch có thể phát huy giá trị của công ty thông qua kêu gọi góp vốn..
- Đối với quốc gia: Bảo vệ CĐTS sẽ làm cho môi trường đầu tư vốn được
minh bạch, lành mạnh từ đó thu hút đầu tư trong và ngoài nước, giúp tăng trưởng
kinh tế bền vững. Muốn phát triển kinh tế thì cần phải có chính sách thu hút nguồn
vốn nhàn rỗi từ xã hội và các nhà đầu tư. Vì vậy việc xây dựng một cơ chế pháp lý
hoàn chỉnh trong việc bảo vệ CĐTS không chỉ giữ được chân các nhà đầu tư trong
nước mà lựa chọn đầu tư tại Việt Nam mà còn ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút
đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường vốn của chúng ta.
Vì vậy, có thể thấy trên phương diện bảo vệ quyền lợi của cổ đông, đặc biệt
là CĐTS, pháp luật cần phải bảo vệ cổ đông qua các cơ chế hay phương thức bảo
đảm vì lợi ích tốt nhất và công bằng để có quyền lợi cho cổ đông.
1.2. Các phương thức bảo vệ quyền lợi của của cổ đông thiểu số theo
pháp luật Việt Nam.
Ở Việt Nam, cơ chế tự bảo vệ CĐTS bao gồm 03 phương thức như sau:
- Cơ chế tự vệ của cổ đông (thông qua quyền)
Cơ chế tự vệ của cổ đông là dựa trên quyền của chính mình để CĐTS tự bảo
vệ quyền lợi bằng các quy định mà pháp luật trao quyền cho họ, đó chính là các quy
định về quyền của cổ đông. Theo tiến sĩ Quách Thuý Quỳnh“quyền của cổ đông
chính là công cụ duy nhất mà cổ đông có thể tự mình sử dụng để thực quyền và đảm
bảo quyền cho mình”. Mỗi loại cổ đông có một quy khái niệm, đặc trưng và được
pháp luật xây dựng một quy định riêng biệt., LDN 2014 có phân ra các loại cổ đông
khác nhau căn cứ vào việc nắm giữ: cổ đông phổ thông; cổ đông ưu đãi. Trong cổ
đông ưu đãi thì có cổ đông có quyền biểu quyết, cổ đông ưu đãi cổ tức, cổ đông ưu
đãi hoàn lại và cổ đông có ưu đãi khác theo điều lệ công ty.

Bên cạnh hình thức để bảo vệ: các CĐTS có quyền tham gia trực tiếp; thông
qua đại diện theo uỷ quyền, hình thức khác do pháp luật, điều lệ công ty quy định.
LDN chưa có hướng dẫn làm rõ “Các hình thức khác” sẽ áp dụng như thế nào,
nhưng quy định này đã trao quyền chủ động cho các doanh nghiệp trong việc tổ
chức họp ĐHĐCĐ, bảo đảm các quyền và lợi ích của toàn bộ các cổ đông.
15


Về tỷ lệ quy định đối với điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông và tỷ
lệ biểu quyết thông qua tại Đại hội đồng cổ đông được triển khai theo hướng bảo vệ
tiếng nói của CĐTS, cụ thể như sau:
Theo khoản 1 và 2 Điều 141 LDN năm 2014, điều kiện tiến hành họp
ĐHĐCĐ lần lượt với các tỷ lệ tương ứng với lần thứ nhất, lần thứ hai là 51%, 33%
và lần thứ ba giữ nguyên không phụ thuộc vào tổng số phiếu biểu quyết của các cổ
đông dự họp. Việc quy định tỷ lệ theo LDN 2014 rõ ràng tạo điều kiện cho các
CĐTS thực hiện quyền tiến hành họp ĐHĐCĐ được dễ dàng hơn.
Điều kiện thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ trong LDN 2014 là 51% và
65%. Quy định này cho thấy quyền của CĐTS được nâng cao, khi đã đủ điều kiện
tiến hành họp ĐHĐCĐ, thì có thể dễ dàng quyết định các vấn đề lớn của công ty.
- Cơ chế bảo vệ bên trong (cơ chế tổ chức nội bộ để bảo vệ cổ đông thiểu số)

Được hiểu là CĐTS được bảo vệ bởi các chủ thể bên trong CTCP như Đại
hội đồng cổ đông, thành viên HĐQT, thành viên BKS, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ.
Để bảo vệ quyền của cổ đông, ĐHĐCĐ phải có hiệu quả, LDN 2014 đã quy
định cụ thể về thủ tục, trình tự tiến hành họp ĐHĐCĐ, trách nhiệm thông báo, báo
cáo thông tin cho các tổ chức trước cuộc họp, quyền của các cổ đông đưa ra các vấn
đề bàn bạc tại cuộc họp, thủ tục bỏ phiếu,… Việc quy định ngày càng cụ thể, chi
tiết, rõ ràng cho thấy LDN 2014 đã mang lại một bước tiến dài trong vấn đề bảo vệ
CĐTS ở Việt Nam.

Các quyền và nghĩa vụ của HĐQT theo LDN 2014 không thay đổi so với
LDN 2005 trừ quy định: HĐQT có quyền “thông qua hợp đồng mua bán, vay, cho
vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được
ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty…”. Mặc dù quy định này giảm đi
quyền của HĐQT nhưng về cơ bản trong quan hệ pháp luật về bảo vệ CĐTS , thì
quy định này có phần chi phối, kiểm soát mạnh và phục vụ cho lợi ích của đa số so
với quy định quyền của HĐQT theo LDN 2005..

16


Về cơ bản các chế định liên quan đến Giám đốc/Tổng giám đốc theo LDN
2014 không có sự thay đổi so với LDN 2005. Pháp luật đặt ra những tiêu chí lựa
chọn giám đốc, phân định quyền lực rõ ràng giữa cổ đông với HĐQT để công ty có
thể phát triển bền vững cũng như CĐTS được bảo vệ. Nhưng thực tế Giám
đốc/Tổng giám đốc có thể là những cá nhân không có cổ phần, lại do chính HĐQT
tuyển dụng và bổ nhiệm, nên Giám đốc/Tổng giám đốc vẫn có xu hướng đứng về
phía một vài thành viên HĐQT và đặc biệt là Chủ tịch HĐQT.
- Cơ chế bảo vệ bên ngoài (kiểm soát bên ngoài để bảo vệ CĐTS)
Được hiểu là quyền lợi của CĐTS được các chủ thể bên ngoài của CTCP bảo
vệ, bao gồm: cơ chế hành chính của Nhà nước, cơ chế khởi kiện và các thiết chế
thực thi khác. Theo quy định tại Điều 147 LDD 2014, theo đó CĐTS hoặc nhóm cổ
đông theo quy định tại khoản 2 Điều 113 có quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài
huỷ bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ bởi các lý do nêu tại điều này, đây là một quyền khá
quan trọng có tác dụng bảo vệ cho cổ đông. Như vậy, cổ đông mà đặc biệt là CĐTS
có thể tự chủ động lên tiếng, yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài can thiệp để bảo vệ
quyền lợi và tài sản của mình. Điều này cũng hạn chế được sự thụ động trong việc
cổ đông chỉ biết trông chờ vào sự giám sát của cơ quan nhà nước, bởi vì quyết định
của ĐHĐCĐ là những vấn đề mang tính nội bộ của doanh nghiệp, hơn ai hết cổ
đông sẽ là người tiếp cận và bị tác động nhanh nhất, do đó trao quyền năng này cho

cổ đông để tự họ chủ động bảo vệ mình là hoàn toàn hợp lý
1.3. Quy định về các quyền của cổ đông thiểu số
Dù sở hữu một tỷ lệ vốn góp hay cổ phần nhỏ vốn điều lệ, CĐTS vẫn được
hưởng các quyền cơ bản của một thành viên, cổ đông như quyền biểu quyết và được
chia lợi nhuận. Khi CĐTS đạt đến một tỷ lệ sở hữu vốn nhất định, họ sẽ có những
quyền tương ứng với mức sở hữu đó. Một số mốc tỷ lệ chính được quy định bởi luật
có liên quan mật thiết đến quyền của CĐTS.


Nhóm quyền tài sản

Quyền nhận cổ tức: Cũng như những cổ đông lớn, CĐTS có quyền nhận cổ
tức với mức theo quyết định của ĐHĐCĐ, so với LDN 2005, Khoản 4, Điều 132
17


LDN 2014 quy định rõ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày kết thúc họp ĐHĐCĐ
thường niên CTCP phải thanh toán cổ tức cho cổ đông. Điều này sẽ góp phần hạn
chế tình trạng nợ cổ tức, củng cố thêm niềm tin của nhà đầu tư khi đầu tư vào
CTCP.
Trường hợp CTCP vi phạm các quy định về trả cổ tức, cổ đông có quyền
khởi kiện để yêu cầu tòa án buộc CTCP phải tuân thủ. Nếu các cổ đông có bằng
chứng chứng minh CTCP vi phạm các quy định về trả cổ tức thì ngoài việc khởi
kiện yêu cầu tòa án buộc công ty thanh toán cổ tức, các cổ đông còn có quyền yêu
cầu tòa án đưa ra phán quyết buộc công ty phải thanh toán thêm phần lãi chậm trả
cổ tức cho các cổ đông.
Các quyền liên quan đến chuyển nhượng cổ phần, yêu cầu công ty mua lại cổ
phần: LDN 2014 duy trì nguyên tắc tự do chuyển nhượng (trừ trường hợp 03 năm
của cổ đông sáng lập) từ LDN 2005, ngoài ra, cũng có quy định mới cho phép Điều
lệ công ty được quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần. Theo đó, các cổ đông

đã có ý tưởng sáng lập ra công ty thường là những cổ đông lớn, họ phải có trách
nhiệm gắn bó với công ty, không được tùy ý từ bỏ công ty. Việc một cổ đông sáng
lập rời khỏi công ty phải được sự đồng ý của các cổ đông khác, cụ thể là được
ĐHĐCĐ chấp thuận, điều này cũng không nằm ngoài vấn đề bảo vệ CĐTS, đặc biệt
là những cổ đông đến mua cổ phần sau khi công ty thành lập.
Bên cạnh đó, cũng giống như các cổ đông khác trong công ty, CĐTS cũng có
các quyền khác về tài sản như quyền nhận một phần tài sản khi công ty giải thể hoặc
phá sản, quyền ưu tiên mua cổ phần mới chào bán…


Nhóm quyền quản trị công ty

Về hình thức tham dự và thực hiện quyền biểu quyết: Theo Điểm a, Khoản 1,
Điều 114 LDN 2014, bên cạnh hình thức tham dự và thực hiện quyền biểu quyết
trực tiếp hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền thì còn có “các hình thức khác” do
pháp luật, điều lệ công ty quy định. Mặc dù “các hình thức khác” chưa được làm rõ,
nhưng quy định này không những đã thể hiện được sự chủ động của công ty trong
việc lựa chọn các hình thức tham dự cuộc họp phù hợp với tình hình hoạt động
18


(VD: họp trực tuyến, bỏ phiếu điện tử…) còn góp phần đảm bảo quyền và lợi ích
của toàn bộ cổ đông, đặc biệt là các CĐTS trong việc tham dự và thực hiện quyền
biểu quyết của mình.
Về điều kiện tiến hành họp: Nếu như trước đây, LDN 2005 quy định tỷ lệ cổ
đông dự họp lần thứ nhất, lần thứ hai (khi lần thứ nhất không đủ điều kiện) lần lượt
là: ít nhất 65% và ít nhất 51% thì Điều 141 LDN 2014 giảm xuống còn: ít nhất 51%
và ít nhất 33%. Như vậy, việc thực hiện quyền tiến hành họp ĐHĐCĐ dễ dàng tiến
hành hơn vì chỉ cần phối hợp với nhau để tạo thành nhóm cổ đông đạt tỷ lệ đủ điều
kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ lần thứ hai mà không cần phải triệu tập và làm quy

trình ĐHCĐ lần thứ ba.
Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, LDN 2005 bảo vệ quyền dự họp của
CĐTS được tốt hơn, hạn chế sự chi phối công ty của những cổ đông lớn. Tuy nhiên
theo chúng tôi, dù việc bảo vệ CĐTS là cần thiết nhưng phải trên cơ sở hợp lí, bởi
thực tế trong thời kỳ LDN 2005 có hiệu lực do CĐTS không tham dự họp ĐHĐCĐ
xảy ra khá nhiều, gây khó khăn không nhỏ trong việc họp ĐHĐCĐ tại CTCP.
Về tỉ lệ biểu quyết trong cuộc họp: Điều 144 LDN 2014 quy định tỷ lệ thông
qua các quyết định của ĐHĐCĐ từ 51% đối với quyết định thông thường, từ 65%
đối với quyết định quan trọng (LDN 2005 quy định tỷ lệ cũ là 65% và 75%). Xét
trên phương diện bảo vệ CĐTS việc giảm tỉ lệ trên dường như gây bất lợi hơn cho
CĐTS so với LDN 2005, tuy nhiên đây chỉ là những tỷ lệ tối thiểu; trong trường
hợp các bên có thỏa thuận một tỷ lệ lớn hơn thì sẽ áp dụng theo tỷ lệ đó. Do vậy,
nếu các cổ đông nhỏ có thể gôm lại để có một tỷ lệ đủ để quyết định thì vẫn hợp
pháp và sẽ bảo vệ quyền lợi của cổ đông tốt hơn. Mặt khác, việc giảm tỷ lệ biểu
quyết theo quy định tại LDN 2014 còn hạn chế được những trường hợp chỉ vì lợi ích
của một CĐTS trong công ty mà ngăn cản những chính sách lớn có lợi cho đa số cổ
đông.
Về việc bầu thành viên HĐQT, BKS: So với LDN 2005, LDN 2014 quy định
bầu dồn phiếu không còn là phương thức bắt buộc trong việc thực hiện bầu thành
viên HĐQT, BKS, việc lựa chọn bầu bằng phương pháp bầu dồn phiếu hay không
19


×