Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ UYÊN VUI

CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ UYÊN VUI

CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ NGỌC HIỂN



HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Võ Thị Uyên Vui


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ
PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN .......................... 5
1.1. Khái quát về cổ phần ............................................................................................ 5
1.2. Khái niệm, đặc điểm của chuyển nhượng cổ phần ............................................ 13
1.3. Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần................................................................. 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ
PHẦN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CHUYỂN NHƯỢNG
CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................. 29
2.1. Các quy định về quyền của cổ đông trong việc chuyển nhượng cổ phần .............. 29
2.2. Các quy định về thủ tục và hình thức chuyển nhượng cổ phần ......................... 39
2.3. Hệ quả pháp lý của chuyển nhượng cổ phần ..................................................... 43
2.4. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần .................................................................... 55

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ CHUYỂN

NHƯỢNG CỔ PHẦN ............................................................................................. 65
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần ............................................................................................ 65
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần ............................................................................................ 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC THAM KHẢO


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

CTCP

Công ty cổ phần

2


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

3

CTHD

Công ty hợp danh

4

HĐQT

Hội đồng quản trị

5

TTCK

Thị trường chứng khoán

6

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

7


NXB

Nhà xuất bản

8

TNCN

Thu nhập cá nhân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chuyển nhượng phần vốn góp trong
công ty là hoạt động có ý nghĩa cả về mặt kinh tế và pháp lý. Hệ quả pháp lý của
chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty tạo ra khả năng chuyển quyền sở hữu
tài sản của thành viên, cổ đông sang cho người khác, đồng thời ràng buộc nghĩa vụ
và mang đến quyền lợi cho các thành viên, cổ đông của công ty đó. Xu hướng mua
bán phần vốn góp ngày càng phổ biến tại nước ta khi mà các doanh nghiệp trong
nước do thiếu vốn, thiếu nhân lực, kinh nghiệm có nguy cơ phá sản sẽ có nhu cầu
mở cửa cho các nhà đầu tư tham gia vào công ty của mình. Bên cạnh việc tăng thêm
nguồn vốn, việc có thêm chia sẻ kinh nghiệm sẽ giúp công ty phát triển hơn. Vì vậy,
hiện nay, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều có nhu cầu đầu tư vào các
công ty Việt Nam thông qua việc chuyển nhượng phần vốn góp.
Do xuất phát từ quan niệm coi CTCP là mô hình tổ chức theo hình thức đối
vốn, có tính chất đại chúng (phản ánh cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng chuyển đổi
dễ dàng mà không làm mất đi tính ổn định trong cấu trúc vốn) khác hẳn với mô hình
tổ chức theo hình thức đối nhân nên việc chuyển nhượng vốn trong CTCP dễ dàng
hơn so với công ty TNHH và CTHD. Chuyển nhượng cổ phần là hình thức chuyển
nhượng vốn phổ biến hiện nay.

Mặc dù nhu cầu thị trường về việc chuyển nhượng cổ phần đang diễn ra
thường xuyên, tuy nhiên pháp luật về chuyển nhượng cổ phần chỉ là một nội dung
trong pháp luật doanh nghiệp và chưa được quy định hướng dẫn chi tiết, dẫn đến
doanh nghiệp áp dụng chưa thực sự hiệu quả cũng như có những lỗ hổng dẫn đến
các doanh nghiệp bị mua lại, thôn tính. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Chuyển nhượng
cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu với mong
muốn phân tích bản chất của chuyển nhượng cổ phần, thực tiễn chuyển nhượng cổ
phần trong nền kinh tế hiện nay nhằm tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần.

1


2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay có nhiều bài viết, luận án, luận văn… về vốn, về cấu trúc của công
ty cổ phần, nhưng nghiên cứu chuyên sâu về nội dung chuyển nhượng cổ phần
trong công ty cổ phần thì chưa có nhiều công trình. Trong khi đó, nền kinh tế thị
trường hiện nay với hội nhập kinh tế, chính sách thu hút đầu tư dẫn đến nhu cầu
mua bán, sát nhập giữa các công ty với nhau, trong đó việc thỏa thuận chuyển
nhượng cổ phần để các nhà đầu tư có thể nhanh chóng trở thành chủ sở hữu của
công ty cổ phần là một trong những hình thức chuyển nhượng vốn phổ biến hiện
nay. Mặc dù thực trạng nhu cầu ngày một tăng song quy định pháp luật trong luật
doanh nghiệp năm 2014 chưa có nhiều quy định chi tiết về nội dung này.
Kế thừa một số nhận định của giới chuyên ngành trên các tạp chí về nội dung
chuyển nhượng cổ phần, tác giả đã tham khảo thêm các quy định pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần để có cơ sở cho luận văn nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam. Từ đó, đưa
ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Để đạt được mục đích trên thì luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, phân tích khái niệm, đặc điểm của chuyển nhượng cổ phần và
pháp luật chuyển nhượng cổ phần.
- Thứ hai, đánh giá thực trạng và thực tiễn về chuyển nhượng cổ phần và
pháp luật chuyển nhượng cổ phần Việt Nam hiện nay.
- Thứ ba, đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển
nhượng cổ phần.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật và thực tiễn về chuyển
nhượng cổ phần.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực

2


tiễn về chuyển nhượng cổ phần thông qua việc nghiên cứu, đánh giá các quy định
pháp luật chuyển nhượng cổ phần Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm phương pháp luận để luận giải
những vấn đề lý luận và thực tiễn cho cả luận văn.
Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh được sử
dụng ở chương 1 để nghiên cứu những vấn đề lý luận về chuyển nhượng cổ phần
theo pháp luật chuyển nhượng cổ phần Việt Nam.
Phương pháp phân tích, phương pháp đối chiếu, phương pháp đánh giá được
sử dụng ở chương 2 để phân tích, đánh giá, bình luận về thực trạng chuyển nhượng
cổ phần theo pháp luật chuyển nhượng cổ phần Việt Nam hiện nay.
Phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn giải được sử dụng ở chương 3 để
khái quát hóa và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ

phần.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Qua nghiên cứu, luận văn này sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn về chuyển nhượng cổ phần. Từ đó, góp phần hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả về hoạt động chuyển nhượng cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam
hiện nay.
Là tư liệu tham khảo cho các cơ quan giảng dạy, các doanh nghiệp, doanh
nhân và các thành phần khác trong nền kinh tế thị trường liên quan đến hoạt động
chuyển nhượng cổ phần trong các CTCP.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được thực hiện trong 3 chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chuyển nhượng cổ phần và pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần và thực tiễn thực

3


hiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần.

4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN
1.1. Khái quát về cổ phần

1.1.1. Khái niệm cổ phần
Khái niệm công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời, tồn tại và phát
triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự hình thành và phát triển của
CTCP gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và thị trường tiền tệ. “Công ty
cồ phần là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là phương thức
phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và
qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển” [4, tr. 18].
Về mặt lịch sử hình thành trên thế giới, CTCP ra đời sau so với các loại hình
công ty đối nhân như Công ty TNHH, CTHD nhưng lại là công ty đầu tiên về đối
vốn. Khác với sự ra đời của hình thức công ty TNHH là sản phẩm của các nhà lập
pháp xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, CTCP được hình thành trong
hoạt động kinh doanh và do nhu cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được
pháp luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một chế định pháp lý.
Ở nước ta, do đặc thù phát triển kinh tế - chính trị, khái niệm công ty, đặc
biệt là CTCP được hiểu đúng bản chất muộn hơn so với các nước. Trước khi Luật
công ty được ban hành ngày 21/12/1990, các hình thức công ty nói chung và CTCP
nói riêng hầu như không được pháp luật thừa nhận. Sau đó, từ Luật Doanh nghiệp
1999, Luật Doanh nghiệp 2005, quy định CTCP được quy định dần tiệm cận với
chuẩn mực quy định chung của thế giới.
Khái niệm CTCP được quy định khá chi tiết, rõ ràng trong Điều 110 Luật
Doanh nghiệp 2014. Theo đó, CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn.
Vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Chủ sở hữu
cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân và tối thiểu phải có từ 03

5


cổ đông trở lên, không giới hạn số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vi cổ phần mà họ sở hữu. Cổ đông có các

quyền và nghĩa vụ tương ứng với phần cổ phần mà mình nắm giữ trong công ty.
Khái niệm cổ phần
“Cổ phần” là khái niệm đặc trưng của CTCP và được sử dụng rộng rãi trên
thế giới. Có hai cách định nghĩa khái niệm cổ phần. Tại các nước theo truyền thống
dân luật, khái niệm cổ phần được định nghĩa là đơn vị để phân chia quyền sở hữu
công ty. Do đó, cổ phần không có mối liên hệ đến vốn điều lệ của công ty. Giá trị
thực của cổ phần phụ thuộc vào khả năng phát triển của công ty cũng như nhu cầu
đầu tư của xã hội vào công ty. Bên cạnh đó, tại một số nước Châu Âu, khái niệm cổ
phần lại được định nghĩa như sau: “Vốn điều lệ khi được chia nhỏ thành những
phần bằng nhau thì mỗi phần đó gọi là cổ phần, vì vậy cổ phần là một phần của vốn
điều lệ”. Tuy nhiên, trong thực tế, cổ phần cũng phản ánh mức độ quyền sở hữu đối
với công ty của một cổ đông nào đó. Cổ đông góp vốn vào CTCP bằng cách mua cổ
phần; khi mua cổ phần người mua sẽ trở hành chủ sở hữu công ty. [11, tr 11].
Ở Việt Nam, quan điểm về “cổ phần” được tiếp cận theo hướng thứ hai,
nghĩa là cổ phần là một phần của vốn điều lệ.
Trong từ điển Pháp – Việt pháp luật hành chính của Học viện Hành chính
Quốc gia, NXB Thế giới, năm 1992 ghi nhận: “Cổ phần là giấy nhận thực biểu thị
một phần vốn và cụ thể hóa những quyền của hội viên trong một công ty vô danh
hoặc công ty cổ phần. Giá trị danh nghĩa của cổ phần chỉ rõ giới hạn trách nhiệm
của cổ đông. Cổ đông không chịu trách nhiệm với công ty vượt quá số tiền cổ phần.
Cổ phần có thể chuyển dịch, có ghi tên hoặc thuộc người giữ phiếu. Với cổ phần, cổ
đông có quyền tham gia các Đại hội đồng của công ty và được quyền biểu quyết”.
Từ điển Bách Khoa Việt Nam của Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách Khoa
Việt Nam, năm 1995, định nghĩa về cổ phần như sau: “Cổ phần là tư bản (vốn)
bằng nhau mà mỗi thành viên (cổ đông) tham gia công ty cổ phần phải đóng góp
dưới hình thức mua cổ phiếu”.
Khái niệm cổ phần được quy định lần đầu tiên tại Điều 30, Khoản 2, Luật

6



Công ty (1990): “Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần”. Khái niệm này được các nhà lập pháp xây dựng khá chính xác và
được tiếp tục kế thừa tại Luật Doanh nghiệp (2005) và Luật Doanh nghiệp (2014)
(Điều 110, Khoản 1, Điểm a).
Theo đó vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng
nhau được gọi là cổ phần. Cổ phần là đặc điểm pháp lý đặc trưng mà chỉ có CTCP
mới có, đó là công cụ tài chính đặc biệt và đóng vai trò quan trọng trong CTCP khi
huy động vốn.
1.1.2. Đặc điểm của cổ phần
Theo phân tích khái niệm về cổ phần và CTCP, nhìn chung cổ phần có
những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, cổ phần là biểu hiện quyền sở hữu tài sản trong CTCP
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, cổ đông là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất
một cổ phần của CTCP. Nó là căn cứ pháp lý xác lập tư cách thành viên của CTCP,
bất kể họ có tham gia thành lập CTCP hay không. Khi họ nắm giữ cổ phần họ sẽ trở
thành cổ đông của công ty, được hưởng các quyền và nghĩa vụ như những thành
viên CTCP khác. Cổ phần xác lập quyền sở hữu của cổ đông như một tài sản thuộc
sở hữu của cổ đông, cổ đông sẽ có quyền tuyệt đối để định đoạt tài sản của mình,
đồng thời sử dụng cổ phần như là quyền biểu quyết với tất cả các hoạt động của
công ty.
Thứ hai, CTCP quyết định mệnh giá của cổ phần và thể hiện nó trên cổ phiếu.
Theo Khoản 1, Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2014 thì cổ phiếu là chứng chỉ
do CTCP phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu
một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Như vậy, để có căn cứ xác nhận quyền sở
hữu cổ phần, CTCP sẽ cung cấp cổ phiếu với các thông tin của cổ đông, số lượng cổ
phần, mệnh giá… cho các cổ đông.
Mệnh giá cổ phần có thể khác với giá chào bán cổ phần. Giá chào bán cổ
phần do HĐQT của CTCP quyết định nhưng không được thấp hơn giá thị trường tại
thời điểm chào bán. Giá trị của cổ phần có thể được ghi trong sổ sách của công ty


7


tại thời điểm gần nhất, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác. (Khoản 1,
2, 3, 4, Điều 125 Luật Doanh nghiệp 2014).
Thứ ba, cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng.
Chuyển nhượng cổ phần là đặc điểm đặc trưng của công ty đối vốn như
CTCP. Việc chuyển nhượng cổ phần dễ dàng sẽ tạo sự năng động trong việc chuyển
giao quyền sở hữu, cho phép nhiều người có thể tham gia vào công ty dễ dàng
nhưng lại không làm thay đổi cấu trúc vốn của công ty.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh nên kể từ ngày đăng ký vốn điều lệ thành lập công ty, tài sản
này của công ty sẽ tách bạch với tài sản thành viên góp vốn vào đó. Nghĩa là cổ
đông không thể rút vốn ra trừ khi CTCP giải thể. Như vậy cổ đông chỉ có thể yêu
cầu công ty mua lại cổ phần hoặc chuyển nhượng cổ phần cho người khác. Việc
mua lại cổ phần sẽ làm giảm vốn của CTCP nhưng việc chuyển nhượng cổ phần thì
cổ đông vừa có thể thu hồi vốn, công ty vẫn bảo toàn tài chính hoạt đông. Đây là
đặc trưng giúp mô hình công ty này mở rộng quy mô và phát triển.
1.1.3. Các loại cổ phần
Cổ phần của CTCP được chia làm hai loại: Cổ phần phổ thông và cổ phần ưu
đãi. Cổ phần ưu đãi bao gồm các loại: Cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ
tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phần ưu đãi khác do điều lệ CTCP quy
định. Mỗi loại cổ phần sẽ có những quy định về quyền lợi đặc thù riêng mà cổ đông
sẽ lựa chọn mua theo nhu cầu riêng của mình.
Ở nước ta, vào những ngày đầu, CTCP không được phát hành nhiều loại cổ
phần. Theo Luật công ty năm 1990 thì CTCP chỉ có thể phát hành cổ phiếu dưới
dạng cổ phiếu có ghi tên và cổ phiếu không ghi tên. Cổ phiếu có ghi tên là cổ phiếu
của các thành viên sáng lập và các thành viên của HĐQT. Loại cổ phiếu này chỉ
được phép tự do chuyển nhượng khi được sự đồng ý của HĐQT và sau hai năm, khi

thành viên đó thôi giữ chức thành viên HĐQT. Sự hạn chế trong việc chuyển
nhượng các loại cổ phiếu làm cơ cấu vốn điều lệ trong CTCP cứng nhắc, không hấp
dẫn nhà đầu tư và kìm hãm sự phát triển của TTCK.

8


Mỗi thành riêng khi tham gia vào CTCP sẽ có những nhu cầu đầu tư riêng,
cổ đông có mục đích là tham gia vào quản lý doanh nghiệp sẽ lựa chọn cổ phần ưu
đãi biểu quyết, cổ đông chỉ quan tâm đến lợi nhuận thì sẽ lựa chọn cổ phần ưu đãi…
Vì vậy CTCP thu hút nhiều người cùng tham gia vào công ty, pháp luật quy định
nhiều loại cổ phần để thuận tiện cho các nhà đầu tư tham gia đầu cơ, phát triển
TTCK Việt Nam như những nước phát triển trên thế giới.
Theo Điều 113, Luật Doanh nghiệp 2014 thì CTCP sẽ có các loại cổ phần sau:
Thứ nhất, cổ phần phổ thông
Cổ phần phổ thông là cổ phần bắt buộc mà tất cả CTCP phải phát hành. Pháp
luật ở thế giới hay Việt Nam đều quy định về cổ phần phổ thông là nền tảng của
CTCP với tỷ lệ lớn nhất.
Loại cổ phần bắt buộc phải có của tất cả các CTCP là cổ phần phổ thông. Chỉ
cần sở hữu cổ phần phổ thông, một người đã có thể trở thành cổ đông phổ thông với
các quyền và nghĩa vụ cơ bản. Cổ phần phổ thông của CTCP không thể chuyển
thành cổ phần ưu đãi. Nhưng cổ phần ưu đãi có thể chuyển thành cổ phần phổ thông
theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Theo Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm
2014, cổ đông phổ thông có các quyền cơ bản sau:
Một là, tham dự và phát biểu trong các Đại hội đồng cổ đông và thực hiện
quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền hoặc theo hình
thức khác do pháp luật, Điều lệ CTCP quy định. Mỗi cổ phần phổ thông là một
phiếu biểu quyết;
Hai là, nhận cổ tức với định mức theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông;
Ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng

cổ đông trong công ty;
Ba là, tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường
hợp pháp luật về doanh nghiệp có quy định khác; Xem xét, tra cứu và trích lục các
thông tin trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông
tin không chính xác;
Bốn là, xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ CTCP, biên bản họp

9


Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông;
Năm là, khi CTCP giải thể hoặc phá sản, được nhận một phần tài sản còn lại
tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần tại CTCP.
Bên cạnh các quyền lợi, cổ đông phổ thông cũng có các nghĩa vụ sau (Điều
115, Luật Doanh nghiệp năm 2014):
Một là, thanh toán đủ và đúng thời hạn số cổ phần cam kết mua, tức là trong
vòng 90 ngày kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ
đông phổ thông phải hoàn thành số tiền góp vốn đã đăng ký;
Hai là, không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi CTCP
dưới mọi hình thức, trừ khi được CTCP hoặc người khác mua lại cổ phần;
Ba là, tuân thủ Điều lệ, quy chế nội bộ của Công ty.
Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập
Theo Khoản 4, Điều 2 Luật Doanh nghiệp 2014 “Cổ đông sáng lập là cổ
đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong danh sách cổ đông sáng
lập công ty cổ phần”. Ngoài ra, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua
ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký
doanh nghiệp và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90
ngày, kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Điều đó
cho thấy quy định pháp luật quy định rất rõ về vai trò của cổ phần phổ thông là nền
tảng quan trọng trong CTCP. Mỗi cổ đông sáng lập phải sở hữu ít nhất một cổ phần

phổ thông và cùng nhau giữ tỷ lệ ít nhất 20% cổ phần phổ thông của công ty.
Thứ hai, cổ phần ưu đãi
Cổ phần ưu đãi là loại cổ phần quy định các quyền lợi đặc biệt hơn so với cổ
phần phổ thông. Khác với cổ phần phổ thông bắt buộc phải có ở mỗi CTCP, cổ
phần ưu đãi có thể có hoặc không tùy vào mục đích phát hành của từng CTCP. Cổ
đông sở hữu cổ phần ưu đãi sẽ trở thành cổ đông ưu đãi. Khoản 2. Điều 113 Luật
Doanh nghiệp 2014 quy định cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây:
Một là, cổ phần ưu đãi biểu quyết
Cổ phần ưu đãi biểu quyết có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần

10


phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ CTCP
quy định. Trong CTCP, quyền của cổ đông thể hiện ở quyền biểu quyết đối với các
nội dung trọng yếu của công ty. Thông thường một cổ phần tương ứng với một
phiếu biểu quyết, tuy nhiên đối với một cổ phần ưu đãi biểu quyết thì một cổ phần
ưu đãi biểu quyết có phiếu biểu quyết cao hơn một, và mức độ cao hơn bao nhiêu là
do Điều lệ công ty quy định. Vì tính đặc biệt đó, nên không phải chủ thể nào cũng
được sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết. Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và
cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Sau thời hạn ba
năm, kể từ khi CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ phần ưu
đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.
Do tính đặc biệt của cổ phần ưu đãi biểu quyền khi có quyền biểu quyết cao
hơn so với cổ phần phổ thông nên cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không
được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác. Quyền chuyển nhượng ở đây
không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là việc mua bán mà cần phải hiểu bao gồm cả
bán, tặng cho, thừa kế…Ngoài hạn chế như đã nêu thì cổ đông sở hữu cổ phần ưu
đãi biểu quyết có những quyền khác như cổ đông phổ thông.
Hai là, cổ phần ưu đãi cổ tức

Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với
mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia
hằng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc
vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác
định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức.
Cổ đông sở hữu ưu đãi cổ tức có hạn chế là không có quyền biểu quyết, dự
họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát, còn lại có
quyền như những cổ đông phổ thông khác. Như vậy có thể thấy, cổ đông ưu đãi cổ
tức là cổ đông chỉ quan tâm đến lợi nhuận thu được từ việc đầu tư mua cổ phần ở
CTCP mà không muốn tham gia vào việc quản lý, vận hành công ty.
Ba là, cổ phần ưu đãi hoàn lại
Cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp theo yêu

11


cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu
đãi hoàn lại. Trừ hạn chế cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền
dự họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông, không được đề cử người vào HĐQT
và Ban kiểm soát. Ngoài ra, họ có các quyền và nghĩa vụ như cổ đông phổ thông.
Điều lệ CTCP quy định cụ thể hoặc Đại hội đồng cổ đông quyết định việc ai được
mua cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại.
Như vậy, so với cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi
hoàn lại khác ở điểm là không có quyền dự họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ
đông, không được đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát. Điều đó cho thấy cổ
đông mua cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại là những cổ đông quan
tâm đến cổ tức, lợi nhuận cũng như muốn giảm rủi ro, bảo toàn số vốn góp của
mình trong trường hợp công ty có thua lỗ. Đồng thời họ có thể không có kinh
nghiệm quản lý điều hành công ty nên không muốn tham gia quản lý vận hành.
Bốn là, cổ phần ưu đãi khác do điều lệ CTCP quy định

Đây là một quy định mở để cho CTCP chủ động phát hành cổ phần ưu đãi
nhằm thu hút nhà đầu tư, kêu gọi vốn. Có thể trên thực tế sẽ có những nhà đầu tư có
nhu cầu khác nên nhằm tăng sự linh hoạt trong chiến lược kinh doanh của CTCP,
luật quy định cho phép CTCP phát hành những cổ phần ưu đãi khác, được quy định
chi tiết và điều chỉnh bởi Điều lệ công ty.
Tham khảo pháp luật của các nước tương đồng Việt Nam như Thái Lan,
Philippine, Malaysia về quy định cổ phần ưu đãi thì ở các nước này bao gồm: Ưu
đãi cơ bản, ưu đãi bỏ phiếu, ưu đãi không bỏ phiếu, ưu đãi dồn lãi, ưu đãi không
dồn lãi, ưu đãi phức hợp, ưu đãi có thể chuyển đổi.
Thực tế hiện nay chưa có nhiều CTCP quy định về cổ phần ưu đãi khác theo
Điều lệ công ty, có thể do Luật và Nghị định hướng dẫn không có quy định nên các
CTCP chỉ phát hành những loại cổ phần ưu đãi theo quy định. Tuy nhiên, với làn
sóng hội nhập thì trong tương lai, chắc chắn nhu cầu của các nhà đầu tư sẽ phong
phú và đa dạng hơn, CTCP cũng thay đổi linh hoạt để đáp ứng thì nội dung này là
một công cụ hữu ích để CTCP thực hiện điều đó.

12


1.2. Khái niệm, đặc điểm của chuyển nhượng cổ phần
1.2.1. Khái niệm chuyển nhượng cổ phần
Chuyển nhượng cổ phần trước hết là mang bản chất của chuyển nhượng, tức
là có sự chuyển giao quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thế khác. Tiếp theo là do
sự đặc thù của cổ phần nên chuyển nhượng cổ phần mang đặc trưng riêng. Chuyển
nhượng cổ phần trong CTCP là việc cổ đông chuyển quyền sở hữu một phần hoặc
toàn bộ số cổ phần mà mình đang nắm giữ cho người khác (có thể là cổ đông hoặc
không phải là cổ đông của công ty). Bản chất của hành vi chuyển nhượng cổ phần là
sự dịch chuyển quyền sở hữu của cổ đông đối với cổ phần của họ trong công ty.
Việc chuyển nhượng cổ phần là hành vi làm thay đổi (mua bán, tặng cho, thừa kế...)
số lượng cổ phần mình đang nắm giữ hay nói cách khác là việc chuyển số cổ phần

mình đang nắm giữ cho người khác. Việc chuyển nhượng cổ phần của người sở hữu
cổ phần phải theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Chuyển nhượng cổ
phần theo nguyên tắc tự do, trừ các trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng. Chính sự
thuận lợi, linh hoạt trong việc chuyển nhượng cổ phần đã mang lại cho nền kinh tế
sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản
công ty.
Phân biệt chuyển nhượng cổ phần và mua lại cổ phần.
Chuyển nhượng cổ phần và mua lại cổ phần đều có bản chất là quan hệ mua
bán, làm thay đổi chủ sở hữu đối với cổ phần được bán hoặc chuyển nhượng trong
CTCP. Căn cứ theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 có thể phân biệt hoạt
động chuyển nhượng cổ phần và mua lại cổ phần ở những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể chuyển nhượng và mua lại cổ phần
Chủ thể của hoạt động chuyển nhượng cổ phần bao gồm bên bán là các cổ
đông và bên mua là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu góp vốn.
Còn chủ thể của hoạt động mua lại cổ phần bao gồm bên bán là cổ đông và
bên mua chính là CTCP.

13


Thứ hai, điều kiện chuyển nhượng và mua lại cổ phần
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ hai trường hợp bị hạn chế.
Một là, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển
nhượng cổ phần đó cho người khác (Khoản 3, Điều 116 Luật Doanh nghiệp 2014).
Hai là, trong thời hạn ba năm, kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ
thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần
phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp
thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng

cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó. Các hạn
chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập được bãi bỏ sau thời hạn ba
năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Các hạn
chế của quy định này không áp dụng đối với cổ phần mà cổ đông sáng lập có thêm
sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp và cổ phần mà cổ đông sáng lập chuyển
nhượng cho người khác không phải là cổ đông sáng lập của công ty (Khoản 3 - 4,
Điều 119 Luật Doanh nghiệp 2014).
Trong khi đó, việc mua lại cổ phần chỉ được thực hiện trong trường hợp:
Một là, cổ đông biểu quyết phản đối nghị quyết về việc tổ chức lại công ty
hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền
yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình (Khoản 1, Điều 129 Luật Doanh nghiệp
2014).
Hai là, HĐQT có quyền quyết định mua lại không quá 10% tổng số cổ phần
của từng loại đã được chào bán trong 12 tháng. Trường hợp khác, việc mua lại cổ
phần do Đại hội đồng cổ đông quyết định, tuy nhiên cũng không quá 30% tổng số
cổ phần phổ thông đã bán, một phần hoặc toàn bộ cổ phần ưu đãi cổ tức đã bán
(Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2014).
Thứ ba, trình tự thủ tục chuyển nhượng và mua lại cổ phần
Đối với giao dịch chuyển nhượng cổ phần

14


Một là, việc chuyển nhượng được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông
thường hoặc thông qua giao dịch trên TTCK. Trường hợp chuyển nhượng bằng hợp
đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển
nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Trường hợp chuyển nhượng thông qua
giao dịch trên TTCK, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy
định của pháp luật về chứng khoán.
Hai là, trường hợp cổ đông chuyển nhượng một số cổ phần thì cổ phiếu cũ bị

hủy bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng
và số cổ phần còn lại.
Đối với giao dịch yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Một là, cổ đông yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình phải gửi yêu cầu
bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại,
giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Yêu cầu phải được gửi đến công ty
trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Đại hội đồng cổ đông thông qua nghị quyết.
Hai là, công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông với giá thị
trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời
hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về
giá thì các bên có thể yêu cầu một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá.
Công ty giới thiệu ít nhất ba tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa
chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng.
Ba là, cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu cổ phần đã được mua lại phải được
tiêu hủy ngay sau khi cổ phần tương ứng đã được thanh toán đủ. Chủ tịch HĐQT và
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại do không
tiêu hủy hoặc chậm tiêu hủy cổ phiếu gây ra đối với công ty.
Bốn là, sau khi thanh toán hết số cổ phần mua lại, nếu tổng giá trị tài sản
được ghi trong sổ kế toán của công ty giảm hơn 10% thì công ty phải thông báo cho
tất cả các chủ nợ biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thanh toán hết số cổ phần
mua lại.

15


Đối với việc mua lại cổ phần theo quyết định của công ty
Công ty có thể mua lại cổ phần của từng cổ đông tương ứng với tỷ lệ cổ phần
của họ trong công ty. Trường hợp này, quyết định mua lại cổ phần của công ty phải
được thông báo bằng phương thức bảo đảm đến được tất cả cổ đông trong thời hạn
30 ngày, kể từ ngày quyết định đó được thông qua. Thông báo phải có tên, địa chỉ

trụ sở chính của công ty, tổng số cổ phần và loại cổ phần được mua lại, giá mua lại
hoặc nguyên tắc định giá mua lại, thủ tục và thời hạn thanh toán, thủ tục và thời hạn
để cổ đông chào bán cổ phần của họ cho công ty.
Cổ đông đồng ý bán lại cổ phần phải gửi chào bán cổ phần của mình bằng
phương thức bảo đảm đến được công ty trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông
báo. Công ty chỉ mua lại cổ phần được chào bán trong thời hạn nói trên.
Thứ tư, hậu quả pháp lý của giao dịch chuyển nhượng và mua lại cổ phần
Đối với giao dịch chuyển nhượng
Người nhận chuyển nhượng cổ phần sẽ trở thành cổ đông công ty từ thời
điểm các thông tin của họ được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông.
Vốn điều lệ của công ty không đổi, số cổ phần nắm giữ, tỷ lệ sở hữu cổ phần
của các cổ đông không đổi.
Đối với giao dịch yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Cổ phần được mua lại được coi là cổ phần chưa bán (Cổ phần chưa bán là cổ
phần được quyền chào bán và chưa được thanh toán). Công ty phải làm thủ tục điều
chỉnh giảm vốn điều lệ tương ứng với tổng giá trị mệnh giá các cổ phần được công
ty mua lại trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hoàn thành việc thanh toán mua lại cổ
phần, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác.
1.2.2. Đặc điểm chuyển nhượng cổ phần
Theo pháp luật Việt Nam, chuyển nhượng cổ phần có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chuyển nhượng cổ phần là sự dịch chuyển quyền sở hữu của cổ
đông đối với cổ phần của họ trong công ty.
Dù là hành vi mua bán, tặng cho, thừa kế... thì chuyển nhượng cổ phần chính
là chuyển số lượng cổ phần (một phần hay tất cả) mình đang nắm giữ cho người

16


khác. Như vậy, cổ đông chuyển nhượng sẽ giảm đi số lượng cổ phần đối với việc
chuyển nhượng một phần hoặc không còn là cổ đông của công ty nếu như chuyển

nhượng toàn bộ cổ phần. Và người nhận chuyển nhượng cổ phần sẽ trở thành cổ
đông mới của công ty, được hưởng tất cả các quyền và nghĩa vụ như các cổ đông
hiện hữu khác của công ty.
Thứ hai, chuyển nhượng cổ phần không làm thay đổi số vốn của CTCP trên
thực tế.
Chuyển nhượng cổ phần không làm tăng thêm hay giảm đi số cổ phần thực
tế mà công ty đã phát hành. Việc chuyển nhượng cổ phần chỉ làm thay đổi chủ sở
hữu cổ phần chứ không làm mất đi giá trị cũng như số lượng cổ phần. Vì vậy, trên
thực tế, số cổ phần công ty đã chào bán vẫn được bảo toàn và vốn của công ty vẫn
như cũ. Chính điều này là một trong những ưu điểm của chuyển nhượng cổ phần
trong CTCP. Việc thay đổi cổ đông, đôi khi là những cổ đông tiềm năng giúp cho
hoạt động phát triển của công ty thêm vững mạnh nhưng không làm ảnh hưởng đến
quy mô sản xuất hay năng lực tài chính của CTCP đó trên thị trường.
Thứ ba, chuyển nhượng cổ phần có thể phát sinh lợi nhuận hoặc không.
Chuyển nhượng cổ phần là hoạt động mua bán nhằm tìm kiếm lợi nhuận của
người sở hữu cổ phần đó. Họ là những nhà đầu tư ban đầu mua cổ phần khi công ty
mới thành lập và theo sự phát triển của công ty, giá trị cổ phần tăng lên họ có thể
chuyển nhượng cho người khác có nhu cầu tham gia công ty để tìm kiếm lợi nhuận
từ khoản chênh lệch giá trị cổ phần so với ban đầu. Đây là một trong những kênh
đầu tư ưa thích của các nhà đầu tư, đôi khi họ không có ý định đồng hành lâu dài
cùng công ty, họ đón đầu những làn sóng đầu tư để mua vào với giá thấp nhất và
bán đi với giá tốt nhất. Đó là nguyên lý cơ bản của TTCK. Chuyển nhượng cổ phần
theo hình thức gián tiếp thông qua TTCK hoạt động theo nguyên tắc như vậy.
Tuy nhiên, chuyển nhượng cổ phần có thể là tặng cho hoặc thừa kế cổ phần.
Trong trường hợp này thì người chuyển nhượng không vì mục đích lợi nhuận và vì
muốn chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người nhận chuyển nhượng. Vì thế,
chuyển nhượng cổ phần tùy vào mục đích của người chuyển nhượng mà có thể phát

17



sinh lợi nhuận hoặc không.
Thứ tư, việc chuyển nhượng cổ phần của người sở hữu cổ phần phải theo
quy định của pháp luật và Điều lệ công ty
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ hạn chế cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần của cổ đông sáng lập trong vòng
ba năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên việc
chuyển nhượng cổ phần không chỉ theo quy định của pháp luật mà còn theo Điều lệ
công ty. Nếu Điều lệ công ty có quy định về hạn chế cổ phần và nêu rõ trong cổ
phiếu của cổ phần tương ứng thì việc chuyển nhượng phải tuân theo quy định của
Điều lệ công ty. Đây là một đặc điểm cần lưu ý vì quy định pháp luật là chung
nhưng Điều lệ thì có đặc thù riêng, mỗi Điều lệ công ty sẽ có những quy định khác
nhau và trong trường hợp quy định hạn chế chuyển nhượng thì hành vi chuyển
nhượng cổ phần đó sẽ không được công nhận.
Thứ năm, chuyển nhượng cổ phần phải nộp thuế thu nhập cá nhân từ hoạt
động chuyển nhượng cổ phần
Theo Khoản b, Điều 4 Thông tư 25/2018/TT-BTC thì:
“Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, bao gồm: thu nhập từ chuyển
nhượng cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, chứng chỉ quỹ và các
loại chứng khoán khác theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán; Thu
nhập từ chuyển nhượng cổ phiếu của các cá nhân trong công ty cổ Phần theo quy
định tại khoản 2 Điều 6 Luật Chứng khoán và Điều 120 Luật Doanh nghiệp.”
Như vậy, thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần được hiểu là thu nhập từ
chuyển nhượng chứng khoán.
Căn cứ theo Điều 16 Thông tư 92/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung điểm a và
điểm b khoản 2 Điều 11 Thông tư số 111/2013/TT-BTC thì:
“Thuế suất và cách tính thuế
Cá nhân chuyển nhượng chứng khoán nộp thuế theo thuế suất 0,1% trên giá
chuyển nhượng chứng khoán từng lần.
Cách tính thuế: Thuế thu nhập cá nhân phải nộp = Giá chuyển nhượng


18


chứng khoán từng lần x Thuế suất 0,1%” [6].
Căn cứ vào quy định trên, khi chuyển nhượng cổ phần bằng với giá gốc hay
hơn giá gốc lúc đầu thì vẫn phải nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) từ hoạt động
chuyển nhượng vốn. Đây là điểm khác biệt giữa việc chuyển nhượng cổ phần và
chuyển nhượng vốn góp trong công ty TNHH. Đối với chuyển nhượng vốn góp
trong công ty TNHH, nếu chuyển nhượng ngang giá, không phát sinh thu nhập thì
không phải nộp thuế TNCN từ hoạt động chuyển nhượng đó. Tuy nhiên đối với
công ty cổ phần, khi chuyển nhượng cổ phần dù ngang giá không phát sinh thu nhập
vẫn phải nộp thuế TNCN với mức thuế suất 0,1%.
1.3. Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
Khái niệm pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong CTCP là khái niệm ít được
nghiên cứu trong khoa học pháp lý Việt Nam. Pháp luật về các lĩnh vực khác nhau
hình thành trên cơ sở tập hợp các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội có cùng đặc điểm về nội dung, tính chất.
Trong nền kinh tế chuyển đổi, các quan hệ kinh tế hình thành, phát triển đa dạng và
với tốc độ nhanh. Nhiều quan hệ kinh tế đã trở thành “cơ bản, điển hình, phổ biến
có liên quan tới đời sống xã hội…” được pháp luật điều chỉnh. [27, tr 25]
Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực thay đổi quyền sở hữu cổ phần cũng như quyền và nghĩa vụ của cổ đông
trong CTCP. Với các quy định đó, Nhà nước ghi nhận quyền tự do chuyển nhượng
cổ phần của cổ đông như quyền chuyển giao một loại quyền tài sản trong giao lưu
dân sự. Pháp luật chuyển nhượng cổ phần điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản sau:
Một là, quan hệ giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng;

Hai là, quan hệ giữa bên nhận chuyển nhượng cổ phần mới với CTCP và với
các cổ đông trong CTCP;
Ba là, quan hệ giữa bên chuyển nhượng với cơ quan quản lý nhà nước về

19


nghĩa vụ thuế…
Đặc điểm pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
Thứ nhất, chuyển nhượng cổ phần được điều chỉnh trực tiếp bởi Luật Doanh
nghiệp và Luật Chứng khoán
Chuyển nhượng cổ phần có hai hình thức, hoặc là trực tiếp thông qua văn
bản hợp đồng chuyển nhượng, hoặc là gián tiếp thông qua giao dịch trên TTCK.
Nếu chuyển nhượng bằng hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải được
bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký.
Trường hợp này được quy định và điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp.
Nếu chuyển nhượng thông qua giao dịch trên TTCK, trình tự, thủ tục và việc
ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Như vậy,
trường hợp này được quy định và điều chỉnh bởi Luật chứng khoán.
Như vậy, tùy vào hình thức chuyển nhượng trực tiếp hay gián tiếp mà
chuyển nhượng cổ phần sẽ do Luật Doanh nghiệp hay Luật Chứng khoán điều
chỉnh.
Bên cạnh được điều chỉnh trực tiếp bằng Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng
khoán thì tùy vào hệ quả pháp lý mà trường hợp chuyển nhượng cổ phần có thể
được điều chỉnh bởi Luật Dân sự, Luật Thuế... Như trong trường hợp cổ đông là cá
nhân chết mà không có người thừa tế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị
truất quyền thừa kế thì số cổ phần đó được giải quyết theo quy định của pháp luật
dân sự. Hoặc trong trường hợp chuyển nhượng các bên phải tuân theo quy định về
thuế chuyển nhượng được điều chỉnh bởi Luật Thuế.
Thứ hai, quy định về chuyển nhượng cổ phần chỉ thể hiện tại Điều 126 Luật

Doanh nghiệp 2014
Luật Doanh nghiệp 2005 không có điều khoản riêng quy định về chuyển
nhượng cổ phần. Chuyển nhượng cổ phần chỉ được thể hiện tại Khoản 5, Điều 87
Luật Doanh nghiệp 2005 và lồng ghép chung với nội dung chào bán cổ phần. Cụ
thể:
“Các cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản

20


×