Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận tiền tệ ngân hàng tự do hóa lãi suất của việt nam trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.85 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa ở nƣớc ta, có nhiều yêu cầu phải giải quyết
cùng một lúc: Vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nƣớc, vừa mở rộng giao lƣu quan hệ
quốc tế, thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài… Nhu cầu mở rộng lƣợng tiền cung ứng ngày càng
lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung - cầu mới về tiền trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định
kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung.
Ngày nay, không còn ai có thể phủ nhận bằng việc điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với
nhu cầu của nền kinh tế là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ chức của các hệ thống tiền
tệ - tự do hóa lãi suất phải tuân thủ mà chính sách tự do hóa luôn phải theo đuổi.
Trong cơ chế thị trƣờng, chính sách lãi suất - tự do hóa lãi suất là một trong những biến
số đƣợc theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó đƣợc đƣa tin
hàng ngày trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Sự dao động của lãi suất ảnh hƣởng trực
tiếp đến các quyết định của cá nhân, doanh nghiệp cũng nhƣ hoạt động của các tổ chức tín
dụng và toàn bộ nền kinh tế. Chính sách lãi suất là một trong những công cụ quan trọng trong
việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm thúc đầy tăng trƣởng và kiềm chế lạm phát.
Một mặt, lãi suất đƣợc sử dụng đúng đắn uyển chuyển, linh hoạt cần phù hợp với những điều
kiện, tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định sẽ có tác động tích cực tới các mục tiêu
kinh tế vĩ mô. Ngƣợc lại, nếu sử dụng công cụ lãi suất - công cụ tài chính một cách cố định thì
rất có thể chỉ có tác dụng tích cực ở thời kỳ này nhƣng chuyển sang thời kỳ khác với những
điều kiện kinh tế xã hội thay đổi lại trở thành vật cản cho sự phát triển của nền kinh tế.
Chính vì vậy, để có chính sách lãi suất phù hợp với nguyên tắc thị trƣờng, đảm bảo nguồn lực
tài chính đƣợc sử dụng và phân bổ một cách hiệu quả hơn thì Việt Nam luôn phải linh động
với các chính sách lãi suất, để có đƣợc chính sách lãi suất phù hợp với từng giai đoạn ngắn
của nền kinh tế.
Qua quá trình học tập môn học Tiền tệ ngân hàng cùng với mong muốn đƣợc tìm hiểu
thêm về vấn đề này, chúng em xin làm đề tài “Tự do hóa lãi suất của Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập”
Do trình độ kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, nên không tránh khỏi những sơ sót
trong quá trình nghiên cứu đề tài. Chúng em rất mong đƣợc sự nhận xét, đánh giá, đóng góp ý
kiến của cô để bài tập này đƣợc hoàn thành.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô!


4|


Phần I. Lý thuyết chung
1. Lãi suất
1.1.

Khái niệm
Lãi suất là một trong những vấn đề rất phức tạp. Nó là một công cụ rất nhạy cảm trong

điều hành chính sách tiền tệ của mọi NHTW đặc biệt ở những nƣớc đang phát triển. Vì vậy, có
rất nhiều cách hiểu về lãi suất, trong đó chúng ta có thể đƣa ra một số khái niệm cơ bản về lãi
suất nhƣ sau:
 Lãi suất: là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng
thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan đến hoạt động gửi tiền và vay tiền. Đồng
thời, lãi suất còn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHTW mỗi nƣớc.
 Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất đƣợc ấn định trên thị trƣờng, không đƣợc điều chỉnh
theo sự thay đổi của mức giá
 Lãi suất thực: là lãi suất đƣợc điều chỉnh cho đúng theo những thay đổi dự tính về
mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền. Theo Fisher,
lãi suất danh nghĩa (i) bằng lãi suất thực (r ) cộng với mức lạm phát dự tính
 Lãi suất hoàn vốn: là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận
đƣợc theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Đây là phép đo đƣợc
các nhà kinh tế coi là phép đo lãi suất chính xác nhất
 Lãi suất tái chiết khấu: là hình thức tái cấp vốn đƣợc áp dụng khi ngân hàng nhà
nƣớc tái chiết khấu thƣơng phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín
dụng.
 Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất do ngân hàng Nhà nƣớc áp dụng khi tái chiết khấu
 Lãi suất liên ngân hàng: là mức lãi suất trên thị trƣờng tiền tệ liên ngân hàng, nơi các
ngân hàng thực hiện việc cho vay và cho vay lẫn nhau. Nó chỉ chính xác hơn về chi

phí vốn vay của ngân hàng và cung cấp vốn trên thị trƣờng.
1.2.

Cơ chế xác định lãi suất

1.2.1. Thị trường
Thành phần thuộc nhóm này gồm:
5|


 Người cho vay: những ngƣời dƣ thừa vốn
 Người đi vay: những ngƣời cần vốn để kinh doanh, tiêu dùng
 Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trung gian: những chủ thể tham
gia và thị trƣờng tài chính, hoạt động tín dụng, huy động vốn để cho vay nhằm mục
đích kinh doanh thu lợi nhuận. Họ có những vai trò, vị trí, lợi thế mà tài chính trực tiếp
không có đƣợc.
Những thành phần này tham gia vào việc xác định lãi suất tuân theo quy luật thị trƣờng. Khi nhu
cầu về vốn đƣợc đáp ứng bằng cung về vốn ở mức toàn dụng vốn thì lãi suất cân bằng đƣợc hình
thành. Những biến động của biến số kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hƣởng đến hành vi của các thành phần
này, thay đổi cung cầu về vốn và lãi suất cân bằng đƣợc điều chỉnh cho phù hợp.

1.2.2. Chính sách tiền tệ
Ngân hàng trung ƣơng (NHTW) - Cơ quan có nhiệm vụ phát hành tiền, quản lý hành chính hệ
thống ngân hàng, vai trò ngƣời cho vay cuối cùng, xây dựng chính sách tiền tệ. Nó tác động
đến lãi suất bằng các công cụ mang tính quyền lực nhà nƣớc hoặc các công cụ mang tính thị
trƣờng.
NHTW sử dụng công cụ lãi suất để tác động vào lƣợng tiền cung ứng và các biến số kinh tế vĩ
mô khác nhằm đạt đƣợc các mục tiêu của chính sách tiền tệ:
 Ổn định tiền tệ
 Tạo việc làm

 Tăng trƣởng kinh tế
Cách sử dụng công cụ lãi suất phụ thuộc vào chính sách điều hành lãi suất của NHTW ở mỗi
giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Xây dựng chính sách lãi suất đúng đắn nhằm hƣớng dẫn
phân bổ hợp lý nguồn vốn, huy động đƣợc tất cả các nguồn lực tiềm năng trong nền kinh tế,
kích thích đầu tƣ, phù hợp tỷ giá và tạo thuận lợi cho hoạt động ngoại thƣơng, mang lại đà
phát triển vững mạnh cho nền kinh tế là một yêu cầu bức thiết luôn đƣợc đặt ra cho mỗi quốc
gia cũng nhƣ các nhà hoạch định chính sách của nó.
Các học thuyết, nghiên cứu về cơ chế điều hành lãi suất chỉ ra rằng, NHTW có thể trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động lên lãi suất
6|


a.

Cơ chế tác động trực tiếp: NHTW sử dụng lãi suất với vai trò là một công cụ trực tiếp

của chính sách tiền tệ, NHTW với hành động mang tính chủ quan áp đặt một khung lãi suất,
chênh lệch lãi suất tiền gửi - tiền vay hoặc trần - sàn lãi suất và buộc các tổ chức tín dụng phải
tuân theo. Công cụ này mang tính cƣỡng bức với sự đảm bảo bằng quyền lực nhà nƣớc, đặc
trƣng của cơ chế kiểm soát lãi suất.
b.

Cơ chế tác động gián tiếp: NHTW sử dụng công cụ gián tiếp - mang tính thị trƣờng-

của chính sách tiền tệ để tác động đến lãi suất thông qua hành vi của hệ thống ngân hàng
Các công cụ đó là:
 Dự trữ bắt buộc: là công cụ của chính sách tiền tệ. Các ngân hàng thƣơng mại đƣợc
yêu cầu phải giữ lại một tỷ lệ phần trăm các khoản tiền gửi của họ dƣới dạng dự trữ
hoặc là bằng tiền mặt tại quỹ hoặc là bằng tiền gửi tại quỹ dự trữ của NHTW. Sự thay
đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có tác động mạnh mẽ lên khả năng cho vay của các tổ chức tín

dụng và cho cả hệ thống tài chính
 Lãi suất tái chiết khấu: Đây là lãi suất phạt đối với ngân hàng thƣơng mại khi thiếu
hụt khả năng thanh toán, NHTW thông qua lãi suất tái chiết khấu tác động vào lãi suất
thị trƣờng. Ví dụ, việc NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thƣơng
mại phải tăng dự trữ bắt buộc để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời ngân hàng
thƣơng mại cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp chi phí cho những khoản tăng
thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trƣờng tăng lên. Ngƣợc lại, việc giảm lãi suất tái
chiết khấu của NHTW cho phép ngân hàng thƣơng mại giảm dự trữ và hạ lãi suất cho
vay, do đó mà hạ lãi suất thị trƣờng.
 Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị trƣờng tiền tệ
ngắn hạn. NHTW muốn đẩy mạnh tăng trƣởng, mở rộng tín dụng, bằng cách mua vào
các khoản chứng khoán có giá làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn tới làm giảm lãi
suất và ngƣợc lại.
 Hợp đồng mua lại: là hợp đồng bán những chứng khoán, trong đó ngƣời bán cam kết
sẽ mua lại chứng khoán này vào một thời điểm trong tƣơng lai với mức giá đƣợc xác
định trƣớc trong hợp đồng. Nhƣ vậy, thực chất hợp đồng mua bán lại là hợp đồng cho
vay có thế chấp, trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. Khi mua thế chấp,
7|


NHTW bơm tiền vào thị trƣờng tài chính và do vậy làm giảm lãi suất ngắn hạn và
ngƣợc lại.
2. Tự do hóa lãi suất
2.1.

Khái niệm

Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính, là việc trao cho thị
trƣờng vốn toàn bộ việc xác định lãi suất cân bằng, ngân hàng trung ƣơng chỉ sử dụng các
công cụ can thiệp một cách gián tiếp để điều chỉnh cho phù hợp chiến lƣợc và mục tiêu đặt ra

trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Thực chất của tự do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu
vốn trên thị trƣờng xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ƣơng chỉ can thiệp bằng các
công cụ để điều chỉnh theo định hƣớng mà thôi.
Tự do hóa lãi suất nói riêng và tự do hóa tài chính nói chung có ý nghĩa quan trọng đối với các
quốc gia trong giai đoạn phát triển và chuẩn bị hội nhập vào nền kinh tế thế giới trên phƣơng
diện vĩ mô lẫn vi mô.
2.2.

Tính tất yếu của tự do hóa lãi suất

2.2.1. Xét diện vĩ mô của nền kinh tế
Trong quá trình phát triển nền kinh tế và hội nhập, VN đã có những thành công bƣớc đầu
trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới sau nhiều năm bị gián đoạn. Hiện nay, chúng ta đã
có mối quan hệ với IMF, WB, ADB,… và là thành viên của ASEAN từ năm 1997, gia nhập
AFTA và WTO, bƣớc đầu hòa nhập nhƣ vậy chúng ta đã có những thành công lớn, kế tiếp là
chúng ta đã chuyển đổi một số hoạt động cho phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó có lĩnh
vực tài chính, ngân hàng.
Nhƣ vậy, tự do hóa lãi suất chuyển dần sang thực hiện các công cụ gián tiếp điều hành chính
sách lãi suất, giảm sự can thiệp và điều hành bằng các công cụ hành chính trực tiếp, từ đó sẽ
trả lãi suất đúng vai trò là đòn bẩy kích thích nền kinh tế phát triển, nhằm kích thích sự tăng
trƣởng kinh tế.
8|


2.2.2. Xét diện vi mô của nền kinh tế
Tự do hóa lãi suất sẽ thúc đẩy cạnh tranh giữa các ngân hàng thƣơng mại, các tổ chức tín dụng
trong nƣớc và các chi nhánh ngân hàng thƣơng mại nƣớc ngoài tại Việt Nam, giúp các ngân
hàng trong nƣớc có điều kiện phát triển, đa dạng hóa nghiệp vụ, tiếp cận công nghệ tiên tiến
hơn. Đối với các khách hàng của ngân hàng thƣơng mại đó là các doanh nghiệp, các tầng lớp

dân cƣ sẽ chủ động hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh
doanh của mình, đồng thời đƣợc quyền lựa chọn các ngân hàng thƣơng mại, các tổ chức tín
dụng để giao dịch, hoạt động.
2.3.

Điều kiện cơ bản để thực hiện tự do hóa lãi suất

 Sự ổn định kinh tế vĩ mô đủ chắc chắn để chịu đựng đƣợc các tác động, các cú sốc từ
bên ngoài đối với nền kinh tế có thể xảy ra khi tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
 Sự hiện diện đầy đủ các công cụ của chính sách tiền tệ hữu hiệu, sự hình thành các quy
trình nghiệp vụ phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trƣờng.
 Có môi trƣờng pháp lý và thể chế hoàn thiện, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ kinh
tế. Có quy chế phòng ngừa, bù đắp rủi ro hoàn thiện, hữu hiệu, đảm bảo hạn chế và bù
đắp đƣợc những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của các trung gian tài chính.
 Hệ thống các cơ quan tài chính phát triển lành mạnh, có uy tín. Các cơ quan này đòi hỏi
không chỉ có công nghệ hiện đại mà còn phải có sự phát triển về bề sâu, có kinh nghiệm
lâu dài về quản lý ở nhiều khía cạnh.
 Sự thanh tra giám sát chặt chẽ của ngân hàng TW đối với các tổ chức tín dụng trong
hoạt động kinh doanh nói chung và thực thi chính sách tiền tệ nói riêng.
 Chọn thời điểm bắt đầu, tốc độ và lộ trình tự do hóa lãi suất phù hợp với bối cảnh của
nền kinh tế. Kinh nghiệm về tự do hóa lãi suất ở một số nƣớc vào những năm 80 cho
thấy tự do hóa không đúng thời điểm sẽ làm tăng tính bất ổn định kinh tế vĩ mô thông
qua việc làm tăng lạm phát và nợ nƣớc ngoài, giảm sức sản xuất trong nƣớc.
 Tự do hóa lãi suất gắn liền với tự do hóa tỷ giá hối đoái.

9|


2.4.


Ưu, nhược điểm của tự do hóa lãi suất

2.4.1. Ưu điểm
 Đảm bảo điều chỉnh tự động và tức thì, do đó giảm rủi ro đối với những sai lầm về
chính sách.
 Truyền tải các tín hiệu chính sách và tác động tới tất cả các bộ phận của nền kinh tế.
 Đảm bảo việc phân bổ tiền tệ và tín dụng tối ƣu trên cơ sở lãi suất, mức độ rủi ro tƣơng
đối và lợi nhuận thu đƣợc.
 Đảm bảo nhất quán giữa chính sách tiền tệ, ngân sách và tỷ giá.
 Làm cho áp lực thị trƣờng tiền tệ thể hiện rõ tức thì.
 Cho phép ngân hàng TW rút về sau thị trƣờng mà không mất khả năng kiểm soát.
2.4.2. Nhược điểm
Tự do hoá lãi suất là mục tiêu của chính sách tiền tệ, song với các quốc gia đang phát triển
việc ngay lập tức từ thái cực này - kiềm chế sang thái cực khác - tự do là một việc làm không
khả thi. Tự do hoá lãi suất cần có một trình tự bƣớc đi hợp lý , nếu không sẽ gây ra những đổ
vỡ to lớn cho nền kinh tế.
Nguyên nhân của việc cần có một bƣớc trung gian là:
Thứ nhất, những thuận lợi do tự do hoá lãi suất mang lại là rất cơ bản , nhƣng cũng tồn tại
những trƣờng hợp mà ở đó tự do hoá lãi suất không đƣợc thực hiện tốt vai trò của mình, nhƣ:
 Các nƣớc đang phát triển luôn phải đối mặt với hệ thống tài chính còn kém phát triển
và tình trạng thiếu thông tin về thị trƣờng tài chính , các sản phẩm tài chính. Do đó để
tự do hoá lãi suất làm tròn chức năng của mình thì thị trƣờng tài chính cần đƣợc củng
cố và phát triển. Hơn nữa trong nền kinh tế, thị trƣờng tín dụng không phải lúc nào
cũng đủ nhanh để điều chỉnh cân bằng cung cầu thị trƣờng khi điều kiện thay đổi, và
tình trạng mất cân bằng vẫn là phổ biến của các nên kinh tế đang phát triển.
 Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu áp đặt vào hệ thống tài chính quá nhiều các mục
tiêu quốc gia. Ở các nƣớc đang phát triển những chính sách ƣu đãi và tạo điều kiện lại
luôn cần phải.
10 |



Thứ hai, các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp nhƣ lãi suất tái triết khấu còn chƣa có để thay
thế cho vai trò của lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Do đó, công cụ kiểm soát
lãi suất vẫn đƣợc coi là một công cụ duy nhất và khả thi để thực hiện chính sách tiền tệ.
Thứ ba, các nƣớc đang phát triển có nền tảng kinh tế vĩ mô chƣa thực sự vững chắc đủ để
chịu những áp lực của việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn: chúng có thể làm mất ổn định vĩ mô
qua việc tăng lạm phát, nợ nƣớc ngoài và làm suy giảm tăng trƣởng kinh tế.

Phần II. Thực trạng tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
1. Tiến trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
Chính sách lãi suất Việt Nam đƣợc thi hành qua 2 thời kỳ chính. Trƣớc năm 1988, với cơ
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lãi suất thực âm, đƣợc nhà nƣớc ấn định một cách cứng
nhắc và thoát ly khỏi lãi suất thế giới. Từ sau năm 1988 đến nay, khi bắt đầu nền kinh tế thị
trƣờng có định hƣớng xã hội chủ nghĩa, với bƣớc ngoặt là nghị định phân định rõ ràng nhiệm
vụ và chức năng của ngân hàng nhà nƣớc và ngân hàng liên doanh, nhà nƣớc đã từng bƣớc
tiến hành tự do hóa lãi suất, cụ thể qua các giai đoạn sau:
1.1. Cơ chế thi hành chính sách cố định ( 1989 - 1992) Đặc
trƣng thời kỳ này là NHNN điều hành cơ chế lãi suất âm.
Đây là thời kỳ Ngân hàng bƣớc đầu thực hiện chính sách 2 cấp: Ngân hàng Nhà nƣớc và
Ngân hàng chuyên doanh trực thuộc. Tuy vậy trong bối cảnh này, cấu trúc NHVN vẫn là “1 hệ
thống thống nhất trong cả nƣớc” đƣợc chia cắt hành chính. Do vậy, lãi suất thời kỳ này đƣợc
đặc trƣng bởi các đặc điểm sau:
 Lãi suất thực âm và cố định, đƣợc quy định một cánh cứng nhắc bởi nhà nƣớc nhằm
phục vụ cho các mục tiêu phát triển của doanh nghiệp quốc doanh, phản ánh cơ chế bao
cấp qua tín dụng. Thời kỳ này các doanh nghiệp nhà nƣớc làm ăn thua lỗ, vay ngân
hàng không trả đƣợc nợ và cuối cùng các ngân hàng phải xoá nợ.
 Lãi suất cho vay ngân hàng nhỏ hơn lãi suất tiền gửi.

11 |



 Lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Đây là cơ chế lãi suất đã có từ
trƣớc nhƣng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn
đƣợc vốn và có lãi, đƣợc áp dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế
lãi suất này đƣợc điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ
đƣợc áp dụng theo mức lãi suất của thị trƣờng tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một
thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bƣớc
chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dƣơng.

Bảng 1: Các lần điều chỉnh lãi suất tín dụng 1989 – 1990
Đơn vị: %/tháng
Thời điểm Lãi suất huy động vốn

Lãi suất cho vay bình
quân

Thời gian của tổ chức kinh

Thời gian cả dân cƣ

tế
3 tháng

Không kì hạn

3

Không

tháng


hạn



1/3/1989

2,5

1,8

12

9

3,37

1/4/1989

5,8

4,0

12

9

3,37

1/6/1989


4,0

2,7

9

7

5

1/7/1989

3,0

01,8

7

5

3,8

10/2/1990 2,4

0,2

6

4


3

20/3/1990 1,8

0,9

4

2,4

2,4

(Nguồn ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam)
12 |


1.2.

Cơ chế điều hành khung lãi suất (1992-1995)

Đặc trƣng thời kỳ này là NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất.
Năm 1992-1993, NHNN bắt đầu chuyển sang lãi suất thực dƣơng, vẫn qui định mức lãi suất
tiền gửi và lãi suất cho vay cụ thể, có sự phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế.
Năm 1992-1995, sàn lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay đƣợc NHNN quy định cụ thể. Đồng
thời gắn liền lãi suất doanh nghĩa với chỉ số giá nhằm giữ lãi suất thực dƣơng, hạn chế sự
chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo cho vay không quá trần lãi
suất cho vay. NHNN cho phép NHTM thỏa thuận lãi suất với khách hàng, đây có thể coi là tự
do hóa 1 phần lãi suất, khống chế mức lãi suất huy động và lãi suất cho vay là 0,35%/tháng.
Bảng 2: Diễn biến lãi suất bình quân các năm 1986 – 1995

Đơn vị tính: %/tháng
Lãi suất/năm 86-90 91

92

93

94

95

Cho vay BQ 4,3

2,5

2,5 1,8

1,6

1,7

Tiền gửi BQ 6

2,9

1,9 1,4

1,3

1,4


Chênh lệch

-0,4

-1,7

+0,4 +0,3 +0,3

(Nguồn ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam)
Tuy nhiên, đến năm 1995, chính sách lãi suất này đã bộc lộ những nhƣợc điểm của nó. Sau
gần chục năm chuyển sang kinh tế thị trƣờng, nền kinh tế đang trên đà tăng trƣởng, các thành
phần kinh tế phát triển đa dạng, do đó nhu cầu về vốn cũng rất khác nhau. Khung lãi suất không
đƣợc linh động, các ngân hàng vẫn bị phụ thuộc nhiều vào Nhà nƣớc. Mặt khác, NHNN khống
chế chặt chẽ mức trần lãi suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích sự vay mƣợn lòng vòng trên
thị trƣờng không chính thức, trốn tránh sự kiểm soát, lãi suất tiền gửi tăng nhanh nhƣng lãi suất
cho vay lại không tăng đƣợc và chênh lệch lãi suất chỉ để bù đắp chi phí kinh doanh, lợi nhuận rất
thấp, khả năng tài chính của các NHTM bị yếu đi, gây xáo trộn trên thị

13 |


trƣờng tài chính. Vì vậy, chính sách lãi suất đã không còn phù hợp với nhu cầu phát triển của
thị trƣờng tài chính và mục tiêu phát triển kinh tế.
1.3.

Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-2000)

Đặc trƣng thời kỳ này là NHNN vẫn thực hiện chính sách lãi suất thực dƣơng nhƣng làm thay
đổi căn bản trần lãi suất.

Năm 1996, NHNN thực hiện tự do hóa lãi suất tiền gửi nhằm tạo cạnh tranh giữa các NH huy
động vốn, thực hiện linh hoạt trần lãi suất cho vay; tuy nhiên vẫn qui định mức chênh lệch lãi
suất cho vay và lãi suất tiền gửi là 0.35%/tháng.
Năm 1997, việc nới lỏng chính sách lãi suất, tăng trần lãi suất tạo điều kiện cho các NH tăng
lãi suất tiền gửi gây ra mất công bằng giữa các tổ chức tín dụng vì mỗi tổ chức có đặc thù
riêng về chi phí và huy động vốn. Do đó, mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho
vay không còn tác dụng.
Năm 1998, NHNN xóa bỏ quy định chênh lệch lãi suất, chỉ còn quy định trần lãi suất cho vay.
Mức lãi suất cho vay tăng từ 1%/tháng lên 1.2%/tháng, cho vay trung và dài hạn tăng từ
1.1%/tháng lên 1.25%/tháng. Qua đó tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng huy động và cho
vay phù hợp với đặc điểm của mình, tạo điều kiện huy động vốn đủ đáp ứng các nhu cầu cho
vay, phát triển kinh tế. Đồng thời Ngân hàng Nhà nƣớc còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa
cho pháp nhân tại tổ chức tín dụng, nhằm hạn chế việc găm giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền
gửi, góp phần tăng cƣờng chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nƣớc.
Năm 1999, NHNN đƣa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các
NHTM, lãi suất tái chiết khấu đƣợc quy định ở mức thấp hơn 0.05%/tháng so với lãi suất tái
cấp vốn. Nền kinh tế có dấu hiệu thiểu phát, nhằm kích cầu Ngân hàng Nhà nƣớc liên tục điều
chỉnh giảm trần lãi suất, lãi suất cuối năm giảm 0,35%-0,4% so với đầu năm và ở mức thấp so
với những năm trƣớc:
 Cho vay khu vực thành thị: 0,85% /tháng
 Cho vay khu vực nông thôn:1%/tháng

14 |


Năm 2000, NHNN đƣa vào nghiệp vụ thị trƣờng mở, lãi suất thị trƣờng mở đƣợc hình thành
qua các phiên giao dịch.
Bảng 3: Trần lãi suất cho vay 1996 – 7/2000
Đơn vị tính: %/tháng
Lãi suất/năm


1996 1997 1998 1999 7/2000

1.VND
*Thành thị
-Ngắn hạn

1,7

1,25

1,2

1,1

0,85

-Trung hạn

1,75

1,35

1,25

1,15

0,95

*Nông thôn


2

1,5

1,25

1,25

1,0

*Quỹ tín dụng nhân dân

2,5

1,8

1,8

1,35

1,15

2.USD

9,5

9,5

9


8,5

7,5

(Nguồn ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam)
1.4.

Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (2000-2002)

Nội dung của cơ chế điều hành là NHNN đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để
thay thế cho cơ chế lãi suất trần.
Lãi suất cơ bản và biên độ đƣợc công bố định kỳ hàng tháng, trƣờng hợp cần thiết, NHNN sẽ
công bố điều chỉnh kịp thời. NHNN đƣa ra 1 số cơ chế lãi suất trong đó lãi suất cho vay của
ngân hàng đƣợc điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Tuy nhiên, các ngân hàng
không đƣợc tính lãi suất cho vay vƣợt quá lãi suất cơ bản là +0.3%/tháng đối với vốn ngắn
hạn và +0.5%/tháng đối với vốn trung và dài hạn.
15 |


Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thƣơng mại, các tổ chức tín
dụng đƣợc ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trƣờng quốc tế và cung cầu vốn
trong nƣớc của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy NHNN đã quyết tâm đổi
mới chính sách lãi suất theo hƣớng tự do hóa và từng bƣớc gắn lãi suất trong nƣớc vào thị
trƣờng khu vực và thế giới.
1.5.

Cơ chế lãi suất thỏa thuận (2002-2008)

Trong thực tế, cơ chế lãi suất này đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc chuyển đổi từng bƣớc bắt đầu từ

tháng 5/2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5/2002 là áp dụng cơ chế lãi
suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nƣớc. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình
thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở VN bƣớc đầu đã có kết quả nhất định.
Trong năm 2008, Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản 3 lần và tới thời điểm
tháng 6/2008, mức lãi suất đang là 14%, mức cao nhất ở Châu Á, từ mức 12% trƣớc đó.
NHNN cũng giảm giá đồng VND 2% trong tháng này nhằm giải tỏa áp lực đối với đồng tiền
trong nƣớc.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam: Ngân hàng Nhà nƣớc công bố lãi suất
cơ bản là lãi suất cho vay của các ngân hàng thƣơng mại áp dụng đối với khách hàng tốt nhất
(có chất lƣợng và uy tín) và một biên độ trên thích hợp thể hiện bằng số phần trăm (%) tuyệt
đối. Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn liền với lãi suất cơ bản của ngân
hàng Nhà nƣớc.
Bảng 4: Lãi suất cơ bản từ tháng 8/2000 – 12/2002
Đơn vị tính: %/tháng
Thời điểm

Mức lãi suất

16 |


8/2000-2/2001

0,75

3/2001

0,725

4-5/2001


0,7

6-9/2001

0,65

10/2001-7/2002

0,6

8-12/2002

0,62

(Nguồn ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam)
NHNN điều hành lãi suất ngoại tệ thị trƣờng trong nƣớc quan hệ chặt chẽ với lãi suất trên thị
trƣờng quốc tế. Lãi suất cơ bản thể hiện ƣu thế hơn hẳn so với cơ chế lãi suất theo trần trƣớc
đây, tuy nhiên vẫn tồn tại hạn chế vì về thực chất, lãi suất cơ bản vẫn có sự can thiệp hành
chính của nhà nƣớc, thể hiện ở việc khống chế biên độ lãi suất. Lãi suất nhiều khi không phản
ánh đƣợc đúng cung cầu vốn tín dụng trên thị trƣờng;cơ chế lãi suất không phù hợp với yêu
cầu của việc phát huy và khai thác nguồn vốn nội lực.
1.6.

Cơ chế lãi suất từ 2009 đến nay

Sau cuộc khủng hoảng tài chính, đầu năm 2009, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ nới
lỏng, thận trọng kiểm soát lạm phát và thúc đẩy nền kinh tế. Cơ chế thỏa thuận lãi suất vẫn
đƣợc áp dụng nhƣng NHNN đã yêu cầu các NHTM chỉ đƣợc thỏa thuận lãi suất cho vay với
các khoản vay phục vụ đời sống, không đƣợc thỏa thuận lãi suất với các khoản vay để đầu tƣ

kinh doanh bất động sản và tài sản tài chính.
Thời kỳ 2009-2011, lạm phát tăng cao, NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ, quy định trần lãi
suất huy động.
NHNN đã từng bƣớc cởi trói cho các NHTM, cho phép NHTM áp dụng lãi suất cho vay thỏa
thuận đối với hoạt động cho vay trung và dài hạn, sau đó là cho tất cả các loại hình cho vay
(năm 2010). Vai trò định hƣớng và thông tin tham chiếu của lãi suất cơ bản trở nên rất mờ
nhạt.

17 |


Từ năm 2014 đến nay, lãi suất hay động và lãi suất cho vay có chiều hƣớng giảm và trở nên ổn
định. NHNN chỉ đang khống chế trần lãi suất ngắn hạn, còn lãi suất huy động dài hạn và cho
vay đã thả nổi. Về cơ bản, việc điều hành thị trƣờng tài chính tiền tệ đã đi theo hƣớng tự do
hóa lãi suất. Tuy nhiên việc dỡ bỏ hoàn toàn trần lãi suất chƣa thể thực hiện trong giai đoạn
hiện nay khi thị trƣờng vốn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của nền kinh tế và chất lƣợng các tổ
chức tín dụng chƣa đồng đều. NHNN sẽ xem xét dỡ bỏ những biện pháp không cần thiết tùy
theo biến động của thị trƣờng.
2. Thuận lợi và khó khăn đối với tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
2.1.

Những điều kiện thuận lợi

 Về tình hình kinh tế vĩ mô:
Tăng trƣởng kinh tế không quá nóng, kỳ vọng lạm pháp không cao. Tốc độ tăng trƣởng GDP
của Việt Nam nhìn chung khá cao, từ 6% đến 7%, đã có nhiều tiến bộ. Theo dự báo nền kinh tế
nƣớc ta sẽ tiếp tục tăng trƣởng trong vài năm tới, dây là điều kiện quan trọng để chúng ta thực
hiện lãi suất tự do thiện hiện nay.
 Về tình hình thị trƣờng tài chính:
Thị trƣờng tài chính trao đổi mua bán các công cụ tài chính một cách sôi động hơn, phát triển

cả về quy mô lẫn chủng loại.
 Về tình hình hoạt động của các hệ thống ngân hàng thƣơng mại và các thể chế tài chính
trung gian khác.
Hiện thanh khoản trong hệ thống ngân hàng đã đƣợc cải thiện nhiều, thậm chí nhiều ngân
hàng còn dƣ thanh khoản. Trong khi đó, lãi suất trên thị trƣờng quốc tế thấp, vốn khả dụng
của các NHTM đang dồi dào, các NHTM đã có những phản ứng nhất định trƣớc những thay
đổi của chính sách tiền tệ.
 Chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán và kiểm toán:
Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC của Ngân hàng Nhà nƣớc đã đi vào hoạt động
nhƣng còn trong giao đoạn thí điểm nhƣng vẫn chƣa có cơ quan tín nhiệm doanh nghiệp một
cách độc lập.
 Tình hình dự trữ ngoại tệ quốc gia:
18 |


Dự trữ ngoại tệ quốc gia chƣa đủ mạnh để có thể thả nổi lãi suất tuy nhiên đã đƣa nhiều kinh
nghiệm mới, tiên tiến về xây dựng, quản lý, điều hành, giám sát và tác động vào mục tiêu
chính sách tiền tệ quốc gia theo cơ chế của Ngân hàng Nhà nƣớc
 Năng lực tài chính và khả năng thanh toán:
Năng lực tài chính, khả năng thanh toán cũng nhƣ hiệu quả kinh doanh của các doạnh nghiệp, cá
nhân trong nền kinh tế không ngừng đƣợc nâng cao, quan tâm tuy nhiên còn chƣa đồng đều.

2.2.

Những điều kiện khó khăn

 Hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa còn yếu cả ở
thị trƣờng trong và ngoài nƣớc. Phần lớn các doanh nghiệp là loại vừa và nhỏ; vốn tự
có và tỷ suất lợi nhuận đạt thấp, huy động vốn trực tiếp từ thị trƣờng khó khăn; doanh
nghiệp Nhà nƣớc đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhƣng phần lớn thua lỗ kéo

dài nên vốn tín dụng vẫn là nguồn vốn chủ yếu hỗ trợ cho hoạt động đầu tƣ, sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy cơ chế lãi suất chƣa thể hoàn toàn tự do hóa mang
tính thị trƣờng.
 Và một tác nhân quan trọng còn gây cản trở quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
hiện nay là luật pháp, văn bản pháp luật quy định về hoạt động thƣơng mại, phi thƣơng
mại trong cơ chế thị trƣờng, cách xử lý vi phạm chƣa rành rọt, thiếu đồng bộ, thậm chí
chồng chéo.
 Tăng trƣởng tín dụng đến nay rất thấp, chủ yếu do khả năng hấp thụ vốn của DN rất
yếu. Có một thực tế là những DN yếu thì hấp thụ vốn dĩ nhiên là yếu rồi, nhƣng ngay
cả những DN “khỏe” cũng đang ngần ngại vay vốn bởi điều mà các DN quan tâm hàng
đầu hiện nay là giải phóng hàng tồn kho.
 Thị trƣờng tài chính Việt Nam còn hết sức kém phát triển và lạc hậu với các nƣớc
trong khu vực. Sự lạc hậu, sơ khai cảu thị trƣờng tài chính Việt Nam thể hiện ở tình
trạng các công cụ tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và nhỏ bé lƣợng giao dịch tại
các trung tâm giao dịch trên địa phận cả nƣớc.
 Sự liên thông giữa các cấu thành trên thị trƣờng tiền tệ hiện nay còn hạn chế, cạnh tranh
giữa các NHTM vẫn chủ yếu là giá cả, các yếu tố trên thị trƣờng chƣa thực sự vận hành
19 |


theo cơ chế thị trƣờng… Để từ đó, có những quyết định đúng đắn về vấn đề tự do hóa
lãi suất hiện nay.
 Các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ mới đƣa vào vận hành, chƣa đủ lớn quy
mô và cƣờng độ để tác động tức thời đối với thị trƣờng tiền tệ, thay thế ngay các công
cụ trực tiếp. Vì thế điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh
tế chúng ta vẫn phải sự dụng kết hợp giữa công cụ gián tiếp và trực tiếp.
 Công tác kiểm tra rà soát của Ngân hàng Nhà nƣớc tuy đã trƣởng thành một bƣớc đáng
kể nhƣng chƣa đủ mạnh và chƣa bao giờ bao quát hết so với những đòi hỏi mới của
nền kinh tế. Công tác kế toán và kiểm toán chƣa nề nếp và chƣa đạt tới đƣợc chuẩn
mực của quốc tế. Khuôn khổ pháp lý và quy chế phòng ngừa rủi ro trong thị trƣờng tài

chính và tiền tệ chƣa đầy đủ và đồng bộ, nếu tự do hóa lãi suất quá sớm sẽ không kiểm
soát đƣợc.
 Tình hình tài chính và năng lực thể chế trong đánh giá và kiểm soát rủi ro của hệ thống
ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam chƣa đủ vững chắc, nên tự do hóa lãi suất có thể sẽ
khuyến khích các Ngân hàng chấp nhận cả những ngƣời đi vay mạo hiểm, từ đó ảnh
hƣởng đến tính lành mạnh của ngành ngân hàng thƣơng mại. Khả năng cạnh tranh của
các ngân hàng thƣơng mại còn yếu kém, bất cập chênh lệch nhau khá lớn, việc cải tổ hệ
thống ngân hàng thƣơng mại đang ở giai đoạn đầu có nhiều khó khăn: vốn tự có nhỏ
làm giảm khả năng mở rộng tín dụng và làm tăng rủi ro tín dụng; hiệu quả sử dụng vốn
thấp; chất lƣợng tín dụng cũng rất thấp, nợ quá hạn lớn; trình độ quản trị kinh doanh
còn thấp so với các ngân hàng trong khu vực, khả năng sinh lời thấp. Tất cả là cản trở
đối với quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
 Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế chƣa đƣợc thu hẹp và có nguy cơ mở rộng; tỷ
giá hối đoái chƣa ổn định; niềm tin của dân chúng vào sự phát triển và ổn định của nền
kinh tế chƣa cao; vì thế yếu tố tâm lý khá nhạy cảm và tác động mạnh tới thị trƣờng
tiền tệ mỗi khi ngân hàng Nhà nƣớc điều chỉnh lãi suất.
 Hệ thống tài chính còn kém phát triển và tình trạng thiếu thông tin về thị trƣờng tài
chính, các sản phẩm tài chính. Do đó, để tự do hoá lãi suất làm tròn chức năng của mình
thì thị trƣờng tài chính cần đƣợc củng cố và phát triển. Hơn nữa trong nền kinh tế, thị
20 |


trƣờng tín dụng không phải lúc nào cũng đủ nhanh để điều chỉnh cân bằng cung cầu thị
trƣờng khi điều kiện thay đổi, và tình trạng mất cân bằng vẫn là phổ biến của các nên
kinh tế đang phát triển.
 Các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp nhƣ lãi suất tái triết khấu còn chƣa có để thay
thế cho vai trò của lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Do đó, công cụ kiểm
soát lãi suất vẫn đƣợc coi là một công cụ duy nhất và khả thi để thực hiện chính sách
tiền tệ.
 Việt Nam vẫn là nƣớc đang phát triển nên nền tảng kinh tế vĩ mô chƣa thực sự vững

chắc đủ để chịu những áp lực của việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn: chúng có thể làm
mất ổn định vĩ mô qua việc tăng lạm phát, nợ nƣớc ngoài và làm suy giảm tăng trƣởng
kinh tế.

Phần III. Giải pháp thực hiện tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
Qua phân tích những nhân tố ảnh hƣởng lãi suất trên, trong phạm vi hạn hẹp của bài tiểu luận,
xin đƣa ra một số kiến nghị đặt ra cho từng chủ thể trong nền kinh tế để hệ thống lãi suất trên
cơ sở đó phát huy hết tác dụng của mình:
1. Đối với Nhà nước:
Nhà nƣớc với vai trò là ngƣời điều hành nền kinh tế vĩ mô, trƣớc hết phải tạo cho các doanh
nghiệp một môi trƣờng kinh tế ổn định để phát triển các điều kiện sản xuất. Cụ thể: Nhà nƣớc
phải có các chính sách chế độ rõ ràng,nhất quán đối với tất cả các thành phần kinh tế, cngành
nghề, các vùng, các lĩnh vực… Hoàn chỉnh hành lang pháp lý đối với các hoạt động kinh
doanh tiền tệ của hệ thống ngân hàng và tìa chính tín dụng, đảm bảo cho hệ thống này có khả
năng hoạt động an toàn và có sức mạnh trƣớc sự cạnh tranh về lãi suất Về trƣớc mắt, trong
thực trạng nền kinh tế nƣớc ta hiện nay nhà nƣớc cần có những giải pháp tiếp theo sau: - Nhà
nƣớc xem xét có nên tăng bội chi ngân sách để đƣa vốn ra lƣu thông, vừa tăng thu nhập cho
dân cƣ để tăng sức mua và khả năng thanh toán cho dân cƣ, vừa tạo nguồn vốn “mồi” để thu
hút các nguồn vốn khác, trong đó có vốn dân cƣ và vốn ngân hàng - Nhà nƣớc phải bằng mọi
giải pháp ngăn chặn tình trạng giảm phát trong thời gian qua.
21 |


2. Đối với ngân hàng Nhà nước:
NHNN, với vai trò quan trọng của mình là thay mặt Nhà nƣớc để điều hành hoạt động của các tổ
chức tín dụng trong nền kinh tế, cũng phải có những thay đổi trong hoạt dộng của mình cho phù
hợp với yêu cầu tình hình đất nƣớc hiện nay.Chẳng hạn nhƣ hiện nay, việc quy định lãi suất cơ
bản là cần thiết nhƣng cũng nên cho phép các ngân hàng thƣơng mại linh hoạt vƣợt khung(biên
độ giao động) trong trƣờng hợp có thể; Ngân hàng cần đẩy mạnh việc tham khảo mƣc lãi suất cho
vay của các ngân hàng thƣơng mại có uy tín để quy định mức lãi suất hợp lý, đảm bảo thu hút các

nguồn vốn trong dân cƣ bằng cách tạo điều kiện, giảm đến mức thấp nhất các khoản chi phí cho
hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại; Trong thực trạng nền kinh tế hiện nay, NHNN cần tiếp
tục xem xét việc hạ lãi suất cho vay của khu vực nông thôn cho ngang bằng với mức lãi suất của
khu vực thành thị, đặc biệt là lãi suất cho vay đói với đồng bào sông Cửu Long sau đợt lũ gây thiệt
hại nặng nề trong năm qua. Về giải pháp lâu dài, nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất,
NHNN cần từng bƣớc chuển từ lãi suất cơ bản sang lãi suất thị trƣờng. Lãi suất cơ bản chỉ là sự
chuyển giao giữa điều hành cơ chế lãi suất hành chính và cơ chế lãi suất thị trƣờng nên chỉ đƣợc
sủ dụng trong thời kỳ quá độ. Còn mục tiêu lâu dài của hệ thống ngân hàng là phải đạt tới lãi suất
thị trƣờng trong tiến trình tự do hoá lãi suất.

3. Đối với các ngân hàng thương mại
Hiện nay hoạt động không có hiệu quả của các ngân hàng thƣơng mại cũng là một trong
những n suyên nhân cơ bản làm giảm tính hiệu quả của việc thực thi các chính sách lãi
suấtYêu cầu dặt ra cho các ngân hàng hiện nay là phải cải tổ bộ mày hành chính, cụ thể là đơn
giản hoá bộ máy hoạt động, cắt giảm các khoản chi phí kinh doanh nhƣ tiền lãi về huy động
vốn, chi phí nghiệp vụ, cải tiến hình thức hoạt động , nâng cao trình độ chuyên môn của đội
ngũ cán bộ ngân hàng cũng nhƣ nâng cao uy tín, tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trƣờng để tiếp tục tồn tại và phát triển.
4. Đối với các doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần có những biện pháp kinh doanh thích hợp để đảm bảo sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn vay, tạo uy tín từ phía ngân hàng cho vay. Tiến hành cổ phần hoá mạnh dạn hơn
22 |


nữakhông chỉ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà cả các doanh nghiệp có quy mô lớn, có
uy tín và làm ăn có lãi để thu hút vốn đầu tƣ trong nhân dân thông qua việc bán cổ phiếu công
ty, trái phiếu là một hình thức huy động vốn cho đầu tƣ phát tiển sản xuất kinh doanh cần
đƣợc thúc đẩy trong điều kiện việc giảm lãi suất cho vay chƣa đủ để tạo vốn cho các doanh
nghiệp hoạt động nhƣ hiện nay. Nói chung vấn đề chính sách lãi suất là một vấn đề lớn trong
hệ thống các chính sách tiền tệ của nƣớc ta cũng nhƣ các nƣớc khác trên thế giới. Giải quyết

vấn đề lãi suất không phải là vấn đề ngay lập tức có thể làm đƣợc mà là vấn đề đặt ra lâu dài
và luôn đòi hỏi sự quan tâm thoả đáng của Nhà nƣớc, Chính phủ, của toàn bộ hệ thống ngân
hàng cũng nhƣ bản thân các doanh nghiệp và mỗi cá nhân trong xã hội.

23 |


LỜI KẾT
Có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam từ khi có
mô hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua năm bƣớc chuyển đổi căn bản, đó là
những bƣớc đi khá thận trọng và khẳng định xu hƣớng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất
ở Việt Nam.
Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam đã đạt đƣợc những kết quả nhất định.
Thứ nhất, tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền
kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của nhà nƣớc nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định
môi trƣờng kinh tế vĩ mô, kiềm chế đƣợc lạm phát.
Thứ hai, lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự
tiết kiệm và khuyến khích đầu tƣ. Việc xóa dần chính sách ƣu đãi về lãi suất đã dần dần tạo
điều kiện cho các ngân hàng thƣơng mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh
doanh của mình đƣợc chủ động và thuận lợi.
Thứ ba, chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn
bị cho sự hội nhập về lãi suất với kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, để tiến tới tự do hóa lãi suất hoàn toàn trong thời gian tới, cần duy trì và
kiểm soát lãi suất với một mức độ nhất định trong giai đoạn quá độ chuyển đổi nền kinh tế và
chuẩn bị các điều kiện và bƣớc đi thích hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam
và bối cảnh của nền kinh tế Thế giới.

24 |



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng, NXB Thống Kê, PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến
2. Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trƣờng chứng khoán - Frederic S.mishkin
3. Tiền và hoạt động ngân hàng - Lê Vinh Danh
4. Lãi suất trong nền kinh tế thị trƣờng, phƣơng pháp luận thực hành
5. Chính sách tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập - NXB Chính trị quốc gia,
tháng 1 năm 2000
6. Tạp chí ngân hàng 1,2,3,4,5,6,7,8.
7. Thời báo kinh tế Việt Nam số 9,10,11 năm 2000.
8. Kênh thông tin kinh tế - tài chính Việt Nam: />9. Cổng thông tin điện tử Bộ tài chính Việt Nam:
10. Website Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam:
11. Diễn biến lãi suất từ năm 2009 đến nay - Liên Việt Postbank - số ngày 12/06/2017:
/>
25 |




×