Nhóm 5:
Chun đề: Tiến trình thực hiện tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
Cơ hội và thách thức với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
=====================================
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ TỰ DO HÓA LÃI SUẤT
1. Khái niệm, phân loại lãi suất
1.1 Khái niệm lãi suất:
Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng - giá cả của
quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc
các dạng thức tài sản khác nhau.
Hai cách thức giải thích cho sự tồn tại của lãi suất:
- Giá trị thời gian của tiền tệ: Hầu hết mọi người chọn lựa có tiền trong hiện tại
hơn là trong tương lai. Khi được yêu cầu để cho vay số tiền hiện tại của họ trong sự
đổi lại một lời hứa trả lại số tiền đó cho họ trong tương lai thì người cho vay chỉ đồng
ý với điều kiện họ được trả hơn số tiền góc mà họ cho vay. Thực tế cho thấy, lãi suất
là sự thanh toán cho việc sử dụng tiền theo thời gian.
- Chi phí cơ hội: Thay vì cho vay thì người có tiền nhàn rỗi có thể dùng tiền
nhàn rỗi vào mục đích sinh lời khác. Trên cơ sở so sánh mức sinh lợi của các hoạt
dộng đầu tư thì người có tiền nhàn rỗi sẽ quyết định cho vay hay khơng cho vay. Như
vậy, lãi suất có thể xem là chi phí cơ hội của việc sử dụng tiền theo thời gian.
1.2 Phân loại lãi suất:
Nếu căn cứ vào giá trị thực tế, lãi suất gồm:
- Lãi suất danh nghĩa: Là loại lãi suất phải thanh toán.
- Lãi suất thực: Là loại lãi suất đo lường sức mua tiền lãi nhận được. Lãi suất
thực được tính bằng việc điều chỉnh lãi suất danh nghĩa có tính đến lạm phát.
Nếu căn cứ vào phương thức tính tốn, lãi suất gồm:
- Lãi suất đơn: Là lãi suất áp dụng trong trường hợp đến mỗi kì hạn của lãi suất,
người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay số tiền lãi của khoản vốn vay. Lãi suất
đơn là số tiền lãi chỉ tính trên số tiền lãi chỉ tính trên số tiền gốc mà khơng tính trên
số tiền lãi do số tiền gốc sinh ra.
- Lãi suất kép: Là lãi suất được tính cho một món vay được trả lãi định kì và tiền
lãi định kì được nhập vào số vốn góc để tính lãi cho kì tiếp theo. Lãi kép là phương
pháp tính lãi mà trong đó lãi kì này được nhập vào vốn để tính lãi kì sau. Lãi kép
phản ánh giá trị tiền tệ theo thời gian của vốn gốc và lợi tức phat sinh. Các thuật ngữ
đồng nghĩa: Lãi kép, lãi nhập vốn, lãi gộp vốn…
Nếu căn cứ vào tính chất của khoản vay, lãi suất gồm:
1
- Lãi suất tiền gửi ngân hàng: Là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi
vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào
loại tiền gửi( khơng kì hạn, tiết kiệm,…), thời hạn gửi và quy mô tiền gửi.
- Lãi suất tín dụng ngân hàng: Là lãi suất người đi vay phải gửi cho ngân hàng
khi đi vay từ ngân hàng. Laĩ suất tín dụng ngân hàng cũng có nhiều mức tùy theo loại
hình vay( vay thương mại, vay trả góp, vay theo thẻ tín dụng,…) theo mức đọ quan
hệ giữa ngân hàng và khách hàng…và phụ thuộc cả vào sự thỏa thuận của hai bên.
Đối với các ngân hàng thương mại, hai loại lãi suất này hình thành những khoản thu
nhập và chỉ phí chủ yếu của ngân hàng.
- Lãi suất chiết khấu: Ap dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh tốn của khách
hàng. Nó được tính đến tỉ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu
trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay ngay cho khách hàng. Như vậy lãi suất chiết
khấu được trả trước cho khách hàng chứ khơng trả sau như tín dụng thông thường.
- Lãi suất tái chiết khấu: Ap dụng khi ngân hàng trung ương cho các ngân hàng
trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ khác có giá
chưa đến hạn thanh tốn của các ngan hàng này. Nó cũng được tính bằng tỉ lệ phần
trăm trên mệnh giá trên mệnh giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân hàng trung
ương cung cấp tiền vay cho ngân hàng.
- Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay
trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ
cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho
các ngân hàng trung gian vay của ngân hàng trung ương. Mức độ chi phối này phụ
thuộc vào sự phát triển hoạt động của thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay
ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung gian.
- Lãi suất cơ bản: Là lãi suất các ngân hàng làm cở để ấn định mức lãi suất kinh
doanh của mình.
Nếu căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất:
- Lãi suất cố định: Là lãi suất được quy định cố định trong suốt thời hạn vay. Nó
có ưu điểm là số tiền lãi được cố định và biết trước, nhưng nhược điểm là bị ràng
buộc vào một mức lãi suất nhất định trong một khoảng thời gian cho dù thị trường đã
thay đổi.
- Lãi suất thả nổi: Là lãi suất được quy định là có thể lên xuống theo lãi suất thị
trường trong thời hạn tín dụng( báo trước hoặc khơng báo trước). Lãi suất thả nổi vừa
chứa đựng cả rủi ro lẫn lợi nhuận. Khi lãi suất tăng lên thì người đi vay bị thiệt trong
khi người cho vay được lợi, ngược lại với trường hợp lãi suất giảm xuống.
1.3 Khái niệm tự do hóa lãi suất:
Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính, thực chất
của tự do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu
2
vốn trên thị trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp
bằng các công cụ để điều chỉnh theo định hướng mà thơi. Hay nói cách khác: Tự do
hóa lãi suất là việc trao cho thị trường vốn toàn bộ việc xác định lãi suất cân bằng,
ngân hàng trung ương chỉ sử dụng các công cụ can thiệp một cách gián tiếp để điều
chỉnh cho phù hợp chiến lược và mục tiêu đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của nền
kinh tế.
PHẦN II: QUÁ TRÌNH TỰ DO HĨA LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
Cùng với các nỗ lực kiềm chế lạm phát như cắt giảm chi tiêu và đầu tư, đẩy
mạnh phong trào tiết kiệm... các động thái điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước với
thị trường tiền tệ thông qua công cụ lãi suất rất đáng chú ý. Nhìn lại q trình tự do
hóa lãi suất ở Việt Nam sẽ cho chúng ta hiểu biết đầy đủ hơn về cách thức sử dụng và
tác động của công cụ này.
I - Giai đoạn 1 (trước năm 1988): Lãi suất ở thời kì thực thi cơ chế quản lí kinh
tế theo phương thức quản lí kinh tế hóa tập trung.
Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ
chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá
nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi
suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng
không thể bảo tồn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ
lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
Một số thông tin lãi suất giai đoạn này như sau:
Năm 1985: lãi suất huy động và cho vay được thực hiện theo thông tư số 2NH/TT của Ngân hàng Nhà nước ngày 10/02/1985, cụ thể:
- Lãi suất huy động: TK KKH: 24%/năm; KH 3-5 năm: 30%/năm; KH>5năm:
36%/năm
- Lai suất cho vay: cho vay nông lâm thủy sản 30%/năm, sản xuất tiểu thủ CN:
36%/năm; tiêu dùng cán bộ công nhân viên chức: 24%/năm và đối tượng khác: 5460%/năm.
Năm 1986: lãi suất huy động và cho vay được thực hiện theo thông tư số 37NH/TT của Ngân hàng Nhà nước ngày 29/03/1986, cụ thể:
- Lãi suất huy động: TK KKH 48%/năm; KH 3 năm: 54%/năm; KH 5 năm:
60%/năm.
- Lãi suất cho vay: tiêu dùng CBCNVC 48-54%/năm; nông lâm 60-72%; tư
nhân: 72-84%.
II - Giai đoạn 2 (1989 – 05/1992): Cơ chế thực thi lãi suất cố định
Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh vực
ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của Hội đồng bộ trưởng
3
(nay là Thủ tướng Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định 53/HĐBT đó là “Đã
hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước và
các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp lệnh về: Ngân hàng Nhà nước
và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và cơng ty tài chính ngày 23.5.1989
của Hội đồng nhà nước. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1.10.1990 với nội
dung chủ yếu: Xóa hẳn mơ hình ngân hàng một cấp và xây dựng mơ hình ngân hàng
hai cấp phù hợp với mơ hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển. Trong đó Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện chức năng ngân hàng của các
ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức
tín dụng trong nền kinh tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện
chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền
kinh tế.
Cơ chế lãi suất cố định thực chất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản,
theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: bảo toàn được vốn, được áp dụng ở các
doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo
biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất
của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ
chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi
suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.
Thông tin về lãi suất giai đoạn này (%/tháng):
1989
1990
1991
1992
Tiền gửi không kỳ hạn (cá nhân)
5,0
2,4
2,1
1,0
Tiền gửi tiết kiệm 3 tháng (cá nhân & tổ chức kinh tế)
7,0
4,0
3,5
2,0
III - Giai đoạn 3 (06/1992 – 1995): Cơ chế điều hành khung lãi suất
Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất theo
khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền
kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của
ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước
chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi
suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
Lãi suất tiết kiệm 12 tháng từ năm 1993 đến năm 1995 được duy trì ổn định ở
mức 12%/năm.
IV - Giai đoạn 4 (1996 – 07/2000): Cơ chế điều hành lãi suất trần.
Năm 1996, NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới
căn bản về điều hành lãi suất: Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn
cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình
4
quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng
thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về
tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước). Mức lãi suất đã
được hạ xuống còn 2,1% -1,75%/tháng.
Năm 1997-1998, Ngân Hàng Nhà nước đã khơng xiết chặt kiểm sốt lãi suất mà
lại nới lỏng chính sách lãi suất, trần lãi suất được nâng lên, các Ngân hàng Thương
mại có thể tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn và quy định giới hạn chênh lệch lãi
suất cho vay và lãi suất tiền gửi ở mức 0,35%/tháng. Giảm lãi suất cho vay bình quân
tối thiểu là 0,35%/tháng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng
sản xuất, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thực hiện chủ trương của Quốc hội, theo chỉ đạo của Chính phủ ngày
28/12/1997 Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước đã kí quyết định số 381/QĐ-NH1về
việc điều chỉnh lãi suất tín dụng với nội dung bắt đầu được thực hiện từ ngày
1/1/1998 , theo đó quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 1,75%/tháng và trần lãi
suất cho vay trung và dài hạn là 1.7%/tháng, lãi suất huy động của các ngân hàng
thương mại quy định trên cơ sở chênh lệch lãi suất huy động bình qn và lãi suất
cho vay bình qn khơng quá 0,35%/tháng.
Quyết định này đạt được một bước tiến quan trọng về quản lý lãi suất, giao
quyền chủ động cho các ngân hàng thương mại trong việc điều hành lãi suất theo tín
hiệu của thị trường, theo quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường , hoàn cảnh riêng
của từng ngân hàng thương mại, từng khu vực kinh tế . Qua việc thực hiện quyết định
số 381/QĐ-NH, hầu hết các Ngân hàng Thương mại đã thực hiện tốt trần lãi suất cho
vay là 1,75%/tháng, nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng tiếp tục tăng lên, đáp ứng
nhu cầu về vốn cho nền kinh tế . Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy một điều rằng, nguồn
vốn của các ngân hang thương mại tăng mạnh, chủ yếu là gia tăng nguồn vốn ngắn
hạn và dẫn đến một hiện tượng là một số ngân hàng thương mại quốc doanh thừa vốn
nhắn hạn trong khi vốn trung và dài hạn lại bị thiếu một cách nghiêm trọng .
Năm 1998, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ba lần điều chỉnh giảm mức lãi suất
trần. Quyết định số191/QĐ-NH1 ban hành ngày 15/7/1998 theo đó trần lãi suất cho
vay ngắn hạn giảm xuống cịn 1,6%/tháng , trung dài hạn xuống 1,65%/tháng.
Quyết định số 225/QĐ-NH1 ban hành ngày 27/8/1998 hạ trần lãi suất cho vay
ngắn hạn xuống còn 1,5%/tháng , trung dài hạn 1,55%/tháng.
Quyết định số 266/QĐ-NH1 ban hành ngày 27/9/1998 giảm trần lãi suất cho vay
ngắn hạn xuống 1,25%/tháng , trung dài hạn là 1,35%/tháng.
Như vậy, chúng ta thấy trần lãi suất cho vay ngắn hạn của các tổ chúc tín dụng
khơng ngừng điều chỉnh giảm cùng với sự giảm xuống của tỉ lệ lạm phát lãi suất cho
vay trung dài hạn giảm nhưng tăng trưởng đối với lãi suất ngắn hạn, điều này là hồn
tồn phù hợp với thơng lệ quốc tế và nguyên lý chung . Các quyết định đảm bảo được
cả ba lợi ích : lợi ích của nền kinh tế quốc dân nói chung, của người gửi tiền và các tổ
5
chức tín dụng . Đặc biệt, đáng chú ý là lần đầu tiên việc quy định chênh lệch lãi suất
đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ, thay vì
quy định từng lãi suất cụ thể đối với từng nguồn cụ thể như trước đây, Ngân hàng
Nhà nước chỉ khống chế chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi
suất huy động bình quân , các tổ chức tín dụng được tự chủ ấn định các mức lãi suất
huy động cụ thể . Chính sách này đã khuyến khích hoạt động tín dụng phát triển tăng
trưởng kinh tế cao , tạo việc làm và kiềm chế lạm phát ở mức thấp.
Cho đến tháng 1 năm 2000 Ngân hàng Nhà nước có thêm hai lần điều chỉnh lãi
suất đó là:
- Quyết định số 179/QĐ-NH ban hành ngày 28/5/1999 hạ trần lãi suất xuống
1,00%/tháng , trung dài hạn là 1,10%/tháng.
- Quyết định số 39/QĐ-NH1 ban hành ngày 17/1/2000 tăng dần lãi suất cho vay
ngắn hạn lên 1,2%/tháng, trung và dài hạn là 1,25%/tháng.
Cùng với Quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước còn quy định các mức lãi suất
ưu đãi cho vay phục vụ người nghèo (0,8%/tháng) cho vay với các tổ chức kinh tế và
dân cư thuộc vùng núi cao 0,5 0,6%/tháng, cho vay học sinh, sinh viên 0,7%/tháng,
lãi suất nợ quá hạn 150% mức lãi suất trần cho vay cùng loại. Quy định lãi suất tiền
gửi ngoại tệ tối đa của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng khơng kỳ hạn là
1,5%/năm, kỳ hạn 6 tháng 4%/năm, kỳ hạn trên 6 tháng là 3,5%/năm.
Mặt khác, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, nên
nền kinh tế tăng trưởng thấp. Nhưng về chính sách lãi suất chưa áp dụng hồn toàn
theo cơ chế thị trường nên lãi suất Việt Nam đồng vẫn cao hơn nhiều so với tỷ lệ lạm
phát . Năm 2000 do có thiểu phát nên lãi suất đã được điều chỉnh giảm chút ít, nhưng
xem xét lãi suất thực dương thì lại khơng phải giảm mà tăng lên. Tỷ lệ lãi suất dương
chia cho tỷ lệ lạm phát năm 1996 là 120%, năm 1997 là 175%, năm 1998 là 11,6%
,năm 1999 là 5350% và năm 2000 thì quá cao trên 6000%. Điều này lý giải vì sao
giai đoạn này thiểu phát.
V - Giai đoạn 5 (08/2000 - 05/2002): Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ.
Vào tháng 8 năm 2000, Ngân hàng Nhà nước đưa ra một cơ chế lãi suất mới
trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước cơng bố. Tuy nhiên, các ngân hàng khơng được tính
lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và
0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản,
các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng.
Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất khơng khác gì
so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ
bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều.
Lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép. Trước
thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn ngân hàng
thương mại quốc doanh đã kịch trần (0,85%/tháng). Thực tế là trong năm 1999,
các ngân hàng thương mại không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của Ngân hàng Nhà
6
nước, và kết quả, như trên Hình 5, là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên
trần lãi suất.
Một điểm đáng chú ý nữa là lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại,
mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong
năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi
suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất
huy động vốn, nhưng lãi suất cho vay vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi
suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt.
Vào tháng 11 năm 2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho
phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân
hàng nội địa và ngân hàng nước ngồi.
Nói chung, có ba ý kiến khác nhau bình luận về cơ chế điều hành lãi suất bằng
lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng lãi suất cơ bản cộng với biên độ khơng có gì khác
với trần lãi suất trước đây và, do vậy, sẽ khơng tạo ra tác động gì nhiều tới các
mức lãi suất cũng như hành vi huy động và cho vay vốn của các ngân hàng. Đặc
biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn
nhỏ (như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính
thức. Đó là do chi phí cho vay các đối tượng này thường lớn nên không thể cho vay
trong khuôn khổ trần lãi suất hay lãi suất cơ bản cộng biên độ.
- Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong
phạm vi biên độ cho phép,các ngân hàng giờ đây có thể định mức lãi suất cho vay
khác nhau tùy theo mức độ rủi ro, chứ khơng cịn áp dụng một mức chung cho tất
cả các khách hàng như trước đây. Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức
tín dụng sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa,
lãi suất cho vay thực tế của ngân hàng mặc dù không đụng giới hạn biên độ nhưng
có xu hướng thay đổi cùng với lãi suất cơ bản. Thực ra, Ngân hàng Nhà nước trong
nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình thay đổi lãi suất trên thị
trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hồn tồn lãi suất.
- Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế lãi suất mới. Theo ý kiến
này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp
nhà nước chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn khơng
được lành mạnh giữa hai thực thể này. Đó là vì, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho những
doanh nghiệp nhà nước được chính phủ bảo lãnh ngầm vay vốn với lãi suất trong
khoảng 0,6-0,65%/tháng trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,750,8%/tháng vì các ngân hàng coi cho khu vực này vay vốn là rủi ro hơn.
VI - Giai đoạn 6 (06/2002 – 2006) Cơ chế lãi suất thỏa thuận:
Ngày 30/05/2002 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số
546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất cho vay đồng nội tệ tại VN,
áp dụng từ 01/06/2002.
Như đã trình bày, các ngân hàng đã chủ động xác định LSTG và LSCV từ thời
điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ
bản do NHNN cơng bố chỉ cịn tính chất tham khảo. LSTG tiếp tục gia tăng. Đồng
thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập
tức nhích lên.
7
Từ năm 2003, lãi suất cho vay cầm cố được điều chỉnh dần để đóng vai trò là lãi
suất trần của thị trường liên ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu được qui định làm sàn
của thị trường liên ngân hàng. Mức chênh lệch giữa lãi suất trần và lãi suất sàn đã
được nới rộng từ 0,05%/tháng tức là 0,6%/năm (tháng 3/2003) lên 2,4%/năm (tháng
6/2003) và từ tháng 9/2003 là 2%/năm phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo ra một
khung lãi suất để cho các mức lãi suất liên ngân hàng biến động. Lãi suất thị trường
mở được điều hành linh hoạt trong khung lãi suất cho vay cầm cố và lãi suất tái chiết
khấu. Từ khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, lãi suất thị trường có lúc tăng lên,
rồi lại giảm do NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cho
vay cầm cố và lãi suất tái chiết khấu, sửa đổi cơ chế cho vay ngắn hạn, chiết khấu
giấy tờ có giá của NHNN đối với NHTM để mở rộng khả năng tiếp cận kênh tái cấp
vốn cho các NHTM, các NHTM Nhà Nước đã hiệp thương thoả thuận thống nhất
việc giảm LSTG và khống chế chung mức trần LSTG, các NHTM khống chế tăng
trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng chung và trên cơ sở nguồn vốn
huy động. Như vậy, lãi suất tái cấp vốn đã bước đầu có tác động đến lãi suất thị
trường. Song tác động này còn hạn chế. Do qui mô, độ sâu của thị trường tiền tệ ở
mức thấp và trong điều kiện dư thừa vốn khả dụng thì việc điều chỉnh giảm lãi suất
chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng chỉ có tác dụng phát tín hiệu nới lỏng tiền tệ để
định hướng lãi suất thị trường, ít có tác động đến khối lượng tiền cung ứng và cung
cầu vốn ngắn hạn trên thị trường. Dầu vậy, việc thường xuyên điều chỉnh lãi suất tái
cấp vốn căn cứ vào mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ để hoàn thiện khung lãi suất
chỉ đạo của NHNN vẫn rất cần thiết để lãi suất tái cấp vốn phát huy tác động hiệu
ứng của nó.
Lãi suất cho vay và huy động bình quân trong giai đoạn này như sau:
VII - Giai đoạn 7 (2008 – đầu năm 2010): Điều hành theo cơ chế lãi suất cơ bản
Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN
ngày16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam. Các TCTD
ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay)bằng Đồng Việt
Nam đối với khách hàng theo nguyên tắc lãi: suất kinh doanh≤150% của LSCB do
NHNN công bố áp dụng trong từng thời kỳ.Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN
ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thựchiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt
động tín dụng thương mại bằng đồngViệt Nam của TCTD đối với khách hàng hết
hiệu lực thi hànhThống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định thay đổi cơ chế điều
hành LS táicấp vốn, lãi suất tái chiết khấu có hiệu lực thi hành từ ngày 19/5/2008: LS
táicấp vốn là 13,0%/năm; LS tái chiết khấu là 11,0%/năm.
8
VIII - Giai đoạn 8 (2/2010 - nay): Điều hành cơ chế trần lãi suất cho vay thỏa
thuận và trần lãi suất huy động.
Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày 26 tháng 02 năm 2010 quy định về cho
vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thoả thuận của các tổ chức tín dụng. Trong đó,
cho vay ngắn hạn được áp dụng theo lãi suất thỏa thuận còn Cho vay trung hạn và dài
hạn chỉ được áp dụng lãi suất thỏa thuận để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển.
Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04/2010 Cho vay lãi suất thỏa thuận hồn
tồn.
Thơng tư 14/2011/TT-NHNN ngày 01/06/2011, thông tư này quy định trần lãi
suất huy động đô la Mỹ, cụ thể: lãi suất huy động USD đối với tổ chức tối đa là
0.5%/năm, đối với cá nhân tối đa là 2%/năm.
Thông tư 30/2011/TT-NHNN ngày 28/09/2011, thông tư này quy định trần lãi
suất huy động VND, cụ thể: lãi suất huy động VND tối đa cho kỳ hạn dưới 1 tháng là
6%/năm và kỳ hạn trên 1 tháng tối đa là 14%/năm.
Nhận xét:
Căn cứ theo biểu đồ diễn biến lạm phát của Việt Nam từ năm 1980 đến 2010
(giá trị lạm phát một số năm chưa được chính xác) thì mỗi khi lạm phát của nước ta
có sự biến động theo chiều hướng xấu, ngồi dự kiến của Chính Phủ thì ngay lập tức
9
cơ chế điều hành lãi suất được điều chỉnh theo hướng hạn chế tối đa tác động của
lạm phát.
Việt Nam chắc chắn sẽ tiến hành việc tự do hóa lãi suất trong thời gian tới, đây
là xu thế khách quan, là cần thiết của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thời điểm
thực hiện tự do hóa lãi suất sẽ phụ thuộc vào khả năng chống đỡ của nền kinh tế
cũng như tiến độ xây dựng đồng bộ “cơ sở hạ tầng” đi kèm để đáp ứng yêu cầu cho
quá trình tự do hóa lãi suất.
PHẦN III: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Cơ hội:
VN đang trong quá trình phát triển nền kinh tế và hội nhập (là thành viên của
ASEAN từ năm 1997, gia nhập AFTA và WTO, chúng ta đã có mối quan hệ với IMF,
WB, ADB ), trong bối cảnh tồn cầu hóa và xét trong điều kiện kinh tế VN hiện tại
việc tự do hóa lãi suất mang lại những thuận lợi sau:
Tự do hóa lãi suất, chuyển dần sang thực hiện các công cụ gián tiếp điều hành
chính sách lãi suất, giảm sự can thiệp của NHNN và điều hành bằng các cơng cụ hành
chính trực tiếp là góp phần chuyển đổi một số hoạt động cho phù hợp với thơng lệ
quốc tế, trong đó có lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Tạo thuận lợi cho việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường,
nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng
hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Lãi suất được xác định trên cơ sở cung- cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm
đối với khách hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng
lưới để huy động cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp, đáp ứng đầy đủ và nhan hơn
vốn cho người cần vay. từ đó sẽ trả lãi suất đúng vai trị là địn bẩy kích thích nền
kinh tế phát triển, nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
Tự do hóa lãi suất sẽ thúc đầy cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng trong nước và các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài tại VN,
giúp các ngân hàng trong nước có điều kiện phát triển, đa dạng hóa nghiệp vụ, tiếp
cận cơng nghệ tiên tiến hơn.
Đối với các khách hàng của ngân hàng thương mại đó là các doanh nghiệp, các
tầng lớp dân cư sẽ chủ động hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn phù hợp với đặc điểm
hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời được quyền lựa chọn các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng để giao dịch, hoạt động.
2. Thách thức:
Q trình cải cánh hệ thống tài chính ở Việt Nam đã đưa chính sách lãi suất tiệm
cận với thị trường hơn, sự cần thiết và xu hướng quốc tế hoá buộc Việt Nam phải
chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất. Nhưng ở thời điểm này, đề án tự do hoá lãi
suất chưa khả thi ở Việt Nam vì những yếu tố sau:
10
Thứ nhất, sẽ tạo ra áp lực rất lớn cho hệ thống ngân hàng nhất là các ngân hàng
nhỏ. Về cả lý thuyết và thực tiễn, thông thường người gửi tiền không phân biệt và
cũng chẳng quan tâm lãi suất cơ bản với trần lãi suất, thậm chí họ cũng mơ hồ về các
hoạt động, tính thanh khoản và trạng thái lành mạnh cụ thể của các ngân hàng. Đối
với đa số đám đông, ai huy động lãi suất cao thì gửi, thậm chí khơng cần biết tư cách
pháp nhân và mục tiêu huy động vốn của người huy động. Rất nhiều ví dụ và bài học
đắt giá cho điều này qua những vụ vỡ hụi và huy động vốn đa cấp khác trong và
ngoài nước. Trước sự hấp dẫn của lãi suất mới do cạnh tranh giữa các ngân hàng khi
thực hiện tự do hóa lãi suất huy động, có thể làm gia tăng các hoạt động rút vốn của
người gửi từ các ngân hàng có lãi suất thấp để gửi vào các ngân hàng có lãi suất cao,
nhằm hưởng lợi ích cao hơn. Điều này là chính đáng và dễ hiểu, nhưng nếu kiểm sốt
khơng tốt lại có thể tạo những làn sóng rút tiền và gửi tiền theo tâm lý đám đơng, tạo
vịng xốy xáo trộn luồng vốn, cơ cấu vốn và các kế hoạch kinh doanh của các ngân
hàng, cũng như của vốn đầu tư xã hội. Nếu một số ngân hàng nào đó khơng chịu nổi
áp lực rút vốn bất thường sẽ buộc phải tăng lãi suất huy động, hoặc chịu áp lực thanh
khoản cao, thậm chí có thể phá sản cục bộ hoặc giải thể. Bên cạnh đó, có thể gia tăng
các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, lừa đảo và vỡ nợ tín dụng dây chuyền
mang tính xã hội
Thứ hai, mất cân đối cung - cầu. VN đang trong quá trình cơ cấu lại các tổ chức
ngân hàng theo chuẩn hoá nhằm bảo đảm sự lành mạnh và sức cạnh tranh, sự ổn định
vĩ mơ của thị trường tài chính trong nước. Hiện còn một số ngân hàng nhỏ chưa đáp
ứng yêu cầu tái cơ cấu vốn điều lệ tối thiểu theo quy định của Nhà nước, hoặc gặp
khó khăn chưa xử lý triệt để về thanh khoản, nhưng lại không muốn giải thể, sáp
nhập hoặc cổ phần hoá theo yêu cầu... Do vậy, việc tự do hóa lãi suất huy động có
thể, trong thời gian đầu, làm gia tăng ít nhiều một số hoạt động huy động vốn với lãi
suất cao (kể cả sự gia tăng luồng vốn gián tiếp nước ngồi rẻ đổ vào VN với những
hệ luỵ có thể, gây sốc vốn và thanh khoản cho các ngân hàng như khi rút vốn đột
ngột) và có thể cả các hành vi tìm cách lách luật hoặc vi phạm luật để: hoặc sử dụng
nguồn vốn huy động bổ sung vào vốn điều lệ; hoặc tiến hành các hoạt động kinh
doanh mạo hiểm do sức ép phải cho vay lại với lãi cao; hoặc tạo hiện tượng lòng
vòng vốn xã hội, kiểu “mua rẻ bán đắt- ăn chênh lệch lãi suất”, coi nhẹ mục tiêu tín
dụng lành mạnh đối với xã hội và quản lý nhà nước cho các ưu tiên phát triển kinh
tế và tái cơ cấu. Điều này cũng có nghĩa là trực tiếp và gián tiếp tạo sự cạnh tranh
thiếu lành mạnh, thậm chí cấu thành các tội phạm và hành vi lừa đảo và vỡ nợ tín
dụng dây chuyền mang tính xã hội, làm tăng tính rủi ro và nhạy cảm, sự mất ổn định
của hệ thống ngân hàng và kinh tế vĩ mơ trong nước.
Ngồi ra, tự do nâng lãi suất huy động quá mức sẽ làm gia tăng lạm phát do các
chi phí vốn tăng sẽ được DN chuyển trả vào chi phí giá thành sản xuất và tăng giá
bán ra; cũng như có thể gây thu hẹp sản xuất, làm tăng mất cân đối cung-cầu hàng
hóa - dich vụ trên thị trường. Cần nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh nhạy cảm hiện nay,
11
mặt trái của cuộc đua lãi suất huy động là rất lớn, khơng chỉ có thể làm tăng chi phí
đầu vào, giảm quy mô đầu tư sản xuất, kinh doanh, mà thể gây ra một số mất ổn định
chung trong hệ thống ngân hàng và đời sống kinh tế - xã hội.
Thứ ba, phân tích thực trạng Việt Nam cho thấy khả năng chống đỡ của khu vực
sản xuất hiện nay đối với việc tăng lãi xuất thực rất thấp, tính thụ động của hệ thống
Ngân hàng đối với mơi trường kinh tế còn ở mức cao trong một cơ chế lãi suất mở –
chỉ có trần lãi suất tín dụng – nhưng hầu như các tổ chức tín dụng vẫn không tự điều
chỉnh lãi suất kinh doanh theo diễn biến giảm phát liên tục của nền kinh tế năm 1999,
mà thường chỉ điều chỉnh khi Ngân hàng nhà nước can thiệp và hầu như cho vay ở
mức kịch trần, thậm chí cịn vượt trần bằng cách tăng các chi phí lãi suất. Trong khi
đó, việc nới lỏng dần hoạt động quản lí lãi suất hướng tới tự do hố có khuynh hướng
làm tăng lãi suất thực trong nước, khiến luồng vốn quốc tế đổ vào. Đồng nội tệ bị lên
giá cộng với gánh nặng lãi suất sẽ gây khó khăn cho khu vực doanh nghiệp và khu
vực Ngân hàng và sự chạy trốn của các luồng tư bản là kết quả cuối cùng của quá
trình này nếu sự tự do hoá tài khoản vốn được thực hiện.
Thứ tư, thị trường tài chính của nước ta – nơi mà từ đó lãi suất thị trường được
hình thành và là nơi điều tiết vốn – còn kém phát triển. Thị trường tiền tệ vẫn trong
giai đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai. Tham khảo một số tài liệu của IMF,
thuộc chương trình ESAF dành cho Việt Nam ( giai đoạn 2) qua mấy năm đổi mới,
chỉ số phát triển chiều sâu tài chính ( Financial deeping) của Việt Nam vẫn ở xu
hướng giảm và còn thấp. Chỉ số M2/GDP chỉ là 12,5% so với mức bình quân trên
60% của nhiều nước đang phát triển; chỉ số Mo/tiền gửi Ngân hàng còn cao là 61,2%,
trong khi khối các nước ASEAN phổ biến chỉ khoảng 12% - có nghĩa là trong lúc
mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế (Monetization) ( điều quyết định kích cỡ thị trường
tiền tệ ) cịn rất thấp thì chủng loại “hàng hố” cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ ( liên
quan đến kết cấu tiền tệ, bán tiền tệ, các công cụ tiền tệ ngắn hạn ... ) còn hết sức
nghèo nàn, phương thức giao dịch cịn thơ sơ và mức độ rủi ro tiền tệ còn lớn. Đặc
trưng của thị trường tiền tệ Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn, tiền tệ hình thành
một cách hết sức khó khăn diễn ra khơng bình thường.
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Qua phân tích cơ chế quản lý lãi suất của Việt Nam trong suốt thời gian qua,
chúng ta có thể thấy Việt Nam đã và đang từng bước tiến tới tự do hóa lãi suất. Bên
cạnh những điều kiện thuận lợi, chúng ta cũng đã gặp khơng ít những khó khăn cần
khắc phục. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn xác định mục tiêu và bước đi tiếp theo là hướng
tới một cơ chế lãi suất tự do hoàn toàn, phù hợp với xu thế chung của thời đại, là một
xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia trong việc điều hành cơ chế lãi suất và Việt Nam
cũng khơng nằm ngồi xu thế đó trong tiến trình hội nhập nền kinh tế với thế giới.
12