Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tiểu luận tiền tệ ngân hàng tự do hoá lãi suất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.74 KB, 16 trang )

ĐỀ TÀI: TỰ DO HÓA LÃI SUẤT Ở
TRUNG QUỐC VÀ MỸ

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................................3
1.

CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TỰ DO HÓA LÃI SUẤT........................4

1.1.

Những lý thuyết chung.............................................................................................................4

1.1.1.

Khái niệm...................................................................................................................................4

1.1.1.1.

Lãi suất...................................................................................................................................4

1.1.1.2.

Tự do hóa lãi suất...................................................................................................................4

1.2.

Tại sao lại xuất hiện tự do hóa lãi suất...................................................................................4

1.3.


Chức năng của tự do hóa lãi suất............................................................................................5

1.4.

Những thách thức khi thực hiện tự do hóa lãi suất...............................................................5

1.5.

Những điều kiện chung để một quốc gia thực hiện tự do hóa lãi suất..................................6

2.

CHƯƠNG 2: NHỮNG BÀI HỌC TỪ THỰC TẾ......................................................................8

2.1.

Trung Quốc và những thành công đem lại từ chính sách tự do hóa lãi suất........................8

2.1.1.

Tình hình TQ trước khi đi đến quyết định thực hiện khi tự do hoá lãi suất.............................8

2.1.2.

Những chuyển biến tích cực trong nền kinh tế trung Quốc khi thực hiện tự do hoá lãi suất .. 9

2.2.
3.
3.1.


Mỹ và những mặt trái của chính sách tự do hóa lãi suất....................................................10
CHƯƠNG 3: VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH TỰ DO HÓA LÃI SUẤT..............................11
Diễn biến lãi suất qua các giai đoạn......................................................................................12

3.2. Những dự đoán về thị trường tài chính Việt Nam nếu thực hiện tự do hóa lãi suất với bối
cảnh hiện nay.....................................................................................................................................14
3.3. Những cải biến, thích nghi mang tính sáng tạo đặc thù phù hợp riêng cho thị trường Việt
để áp dụng TDHLS............................................................................................................................15


LỜI MỞ ĐẦU
Kết quả nghiên cứu trên 76 nước của World Bank cho thấy, xu hướng tự
do hóa lãi suất đã và đang hình thành mạnh mẽ cả ở các nước phát triển lẫn các
nước đang phát triển.
Tự do hóa lãi suất là xu hướng tất yếu. Chúng ta đang xây dựng cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, rõ ràng lãi suất cũng là giá của một loại
hàng hóa đặc biệt là tín dụng, do đó cũng phải tuân thủ theo quy luật thị
trường.Theo quy luật của nước ta trong những năm gần đây, quá trình tự do hóa
lãi suất cũng đã được mở khá nhiều. Lúc đầu chúng ta quy định lãi suất cứng,
sau này chúng ta quy định lãi suất sàn, lãi suất trần, tới khi thị trường cạnh
tranh hoàn hảo không có liên kết, không có độc quyền, chúng ta sẽ tự do hóa lãi
suất như các nước phát triển.
Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính, tức là
lãi suất được tự do biến động để phản ứng theo các lực lượng cung - cầu vốn
trên thị trường, loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính lên sự hình thành
của lãi suất. Việc xác định lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất và lưu
thông hàng hóa phát triển và ngược lại. Ở Việt Nam, chính sách lãi suất đã góp
phần bình ổn giá cả, đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, kích cầu, tăng trưởng thu
nhập quốc dân. tiểu luận về “Tự do hoá lãi suất” được thực hiện nhằm đưa ra
cái nhìn đa chiều về tiến trình tự do hóa lãi suất tại Trung Quốc. Qua tiến trình

đó, đưa ra những bài học và giải pháp hiệu quả cho nền kinh tế - tài chính Việt
Nam, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng cường hội nhập vào thị trường
tài chính quốc tế


1. CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TỰ DO
HÓA LÃI SUẤT
1.1. Những lý thuyết chung
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Lãi suất
Lãi suất là chi phí mà người đi vay phải trả cho người cho
vay để có quyền sử dụng quỹ tiền của người cho vay
trong một khoảng thời gian đã thỏa thuận
Lãi suất được biểu hiện bằng tỉ lệ phần trăm so sánh giữa
số tiền lãi (lợi tức) thu được (hoặc phải trả) với số vốn cho
vay phát ra, trong một kỳ nhất định.
Kí hiệu : r (rate of return) hoặc I (interest rate)
Công thức : Lãi suất = Tiền lãi/ Tiền gốc

1.1.1.2.

Tự do hóa lãi suất

Tự do hóa lãi suất – hạt nhân của tự do hóa tài chính là để
cho lãi suất tự hình thành thị trường trên cơ sở : cung cầu
về vốn, mức tiết kiệm, thu nhập, chi tiêu của cá nhân và
những nhân tố khác.
Tự do hóa lãi suất loại bỏ những áp đặt mang tính hành
chính lên quá trình hình thành lãi suất, cho phép các tổ chức
tín dụng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất. NHTW

chỉ gián tiếp tác động lên lãi suất thông qua các công cụ
mang tính định hướng, dấu hiệu cho thị trường là công cụ tái
chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, hợp đồng mua lại và
dự trữ bắt buộc.

1.2. Tại sao lại xuất hiện tự do hóa lãi suất
Xét về khía cạnh khách quan, sẽ gần như không thể có một mức
trần lãi suất hợp lý với tất cả mọi đối tượng, bởi nó còn tùy thuộc
vào diễn biến thị trường tài chính và năng lực tài chính của mỗi
tổ chức tín dụng (TCTD) hay mỗi cá nhân tham gia thị trường.
Bài học thực tế ở Anh đã cho thấy điều đó. Trước đây, để quản lý
thị trường cho vay, đặc biệt đối với lĩnh vực tài chính tiêu dùng,
Chính phủ nước này đã đưa ra một mức lãi suất trần cụ thể. Tuy
nhiên, không lâu sau khi ban hành quy định này, một bộ phận lớn


người dân Anh có nhu cầu vay tài chính đã không được đáp ứng, vì
khi ấy các TCTD ở Anh buộc phải siết chặt quy trình xét duyệt hồ
sơ cũng như đòi hỏi cao hơn từ phía khách hàng để đáp ứng các
quy định khắt khe của nhà quản lý. Nhu cầu vay tài chính trong dân
quá lớn trong khi TCTD bị kìm hãm năng lực hoạt động đã khiến
cho nạn tín dụng đen đã gia tăng nhanh chóng để lại những hệ quả
nghiêm trọng trong đời sống kinh tế - xã hội ở Anh.
Tự do hoá lãi suất cũng xuất phát từ một thực tế là không một chính
phủ hay một NHTW nào có đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát
sự phân bổ nguồn vốn một cách có hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu
sử dụng vốn khác nhau.
Trong bối cảnh thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa nhanh
chóng mà toàn cầu hóa tài chính là điển hình nhất của quá trình
này. Trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu cầu hoá đặt ra những cơ hội

và thách thức mới, trong đó một thách thức lớn là việc làm xói mòn
và giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực
tiếp, như các quy định trần sàn lãi suất. Thay vào đó để đảm bảo
kiểm soát tiền tệ các nước dần chuyển sang thực hiện công cụ kiểm
soát lãi suất gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu,
hợp đồng mua lại..., tức là các công cụ định hướng thị trường để
đảm bảo hội nhập thành công trong lĩnh vực tài chính, trước hết lãi
suất phải được tự do hoá.

1.3. Chức năng của tự do hóa lãi suất
Đảm bảo điều chỉnh tự động và tức thì, do đó giảm rủi ro đối
với những sai lầm về chính sách.
Truyền tải các tín hiệu chính sách và tác động tới tất cả các bộ phận
của nền kinh tế.
Đảm bảo việc phân bổ tiền tệ và tín dụng tối ưu trên cơ sở lãi suất,
mức độ rủi ro tương đối và lợi nhuận thu được.
Đảm bảo nhất quán giữa chính sách tiền tệ, ngân sách và tỷ
giá. Làm cho áp lực thị trường tiền tệ thể hiện rõ tức thì.
Hỗ trợ và bổ sung cho việc quản lý tỷ giá hối đoái.
Làm giảm sự nhạy cảm chính trị đối với những thay đổi lãi suất.
Cho phép NHTW rút về sau thị trường mà không mất khả năng kiểm
soát.
1.4. Những thách thức khi thực hiện tự do hóa lãi suất
Tự do hóa lãi suất là mục tiêu của chính sách tiền tệ, song với các quốc gia
đang phát triển thì việc chuyển ngay từ thái cực kiềm chế sang thái cực tự do là


một việc làm không khả thi. Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm bộc lộ những
yếu kém về thể chế và cơ cấu trong khu vực tài chính và có thể làm tổn hại đến
hệ thống ngân hàng do những cơn sốc vĩ mô xuất phát từ bên ngoài và chính

sách vĩ mô không thích hợp. Do vậy, cải cách lãi suất nhanh không gắn liền với
củng cố qui chế phòng ngừa và khuôn khổ thanh tra thường kéo theo sự chấn
động tài chính.
Thứ nhất, tự do hóa lãi suất tạo sức ép thanh khoản lớn cho các ngân hàng. Sức
hấp dẫn của lãi suất mới do cạnh tranh giữa các ngân hàng có thể làm gia tăng
các hoạt động rút vốn của người gửi từ ngân hàng có lãi suất thấp để gửi vào
ngân hàng có lãi suất cao. Về cả lý thuyết và thực tiễn, thông thường người gửi
tiền không phân biệt lãi suất cơ bản với trần lãi suất thậm chí cũng mơ hồ về các
hoạt động, tính thanh khoản và trạng thái lành mạnh cụ thể của các ngân hàng.
Đối với đa số đám đông, ai huy động cùng lãi suất cao hơn thì gửi, thậm chí
không cần biết tư cách pháp nhân và mục tiêu huy động vốn của người huy
động.
Thứ hai, chính sách này gây ra mất cân bằng cung – cầu. Số lượng ngân hàng
nhỏ, chưa đáp ứng được yêu cầu tái cơ cấu vốn điều lệ tối thiểu theo quy định
Nhà nước, hoặc gặp khó khăn chưa xử lý triệt để về thanh khoản, nhưng lại
không muốn giải thể, sáp nhập hoặc cổ phần hóa theo yêu cầu… Do vậy, việc tự
do hóa lãi suất huy động có thể làm gia tăng ít nhiều một số hoạt động huy động
vốn với lãi suất cao trong thời gian đầu, gây sốc vốn và thanh khoản cho các
ngân hàng và có thể dẫn đến hành vi tìm cách lách luật hoặc vi phạm luật.
Thứ ba, nền tài chính lãi suất tự do yêu cầu hệ thống thông tin, công tác kế toán
rõ ràng và thích hợp, các kiểm toán nên được quan tâm đúng mức, việc kiểm
soát nội bộ các tổ chức tài chính đầy đủ sẽ đáp ứng được yêu cầu của công tác
thanh tra, giám sát và kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó, hệ thống thanh toán cũng
cần được nâng cấp, giúp cho công tác quản lí tiền tệ hiệu quả, từ đó cải thiện
chức năng của lãi suất trong việc phân bổ các nguồn lực. Đồng thời, người vay
sẽ tránh được những rủi ro lãi suất quá mức, hoặc tiếp cận dễ dàng với các
nguồn vốn của các tổ chức tài chính chính thức.
Cuối cùng, chính là xây được chính sách lãi suất phù hợp. Với những trường
hợp tự do lãi suất trước đây, chưa có một sự thỏa thuận nào về một chiến lược
tốt nhất để đạt được mục tiêu này: lãi suất nên tự do hóa từ từ hay trong một

khoảng thời gian ngắn? Trình tự chính sách cho các nước có mức lạm phát khác
nhau sẽ như thế nào?
1.5. Những điều kiện chung để một quốc gia thực hiện tự do hóa lãi suất
Hiện nay, không chỉ các nước phát triển mà ngay cả các nước đang phát triển
cũng đang dần hướng đến tự do hóa các chính sách tài chính và hạn chế can
thiệp biện pháp hành chính vào thị trường cũng như gỡ bỏ việc sử dụng trần
lãi suất. Cùng với tiến trình hội nhập nhanh như vũ bão, Việt Nam được các
chuyên gia kinh tế nhận định trước sau gì cũng phải tiến tới tự do hóa lãi suất.


Câu hỏi đặt ra là: Điều kiện để thực hiện tự do hóa lãi suất là gì?
Thứ nhất, sự ổn định kinh tế vĩ mô đủ chắc chắn để chịu đựng được các tác
động, các cú sốc từ bên ngoài có thể xảy ra khi tự do hóa hoàn toàn lãi suất. Với
các thách thức đã trình bày bên trên, có thể rõ ràng thấy, một nền kinh tế non
nớt sẽ hoàn toàn bị đánh gục bởi chính sách tài chính này.
Thứ hai, nền kinh tế còn có sự hiện diện đầy đủ các công cụ của chính sách
tiền tệ hữu hiệu, sự hình thành các quy trình nghiệp vụ phù hợp. Bởi, vai trò
của lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ cần được thay thế bởi các
công cụ khác phù hợp và có chức năng tương đương như các công cụ kiểm soát
tiền tệ gián tiếp. VD: lãi suất tái chiết khấu.
Thứ ba, có môi trường pháp lí và thể chế hoàn thiện, đủ khả năng điều chỉnh
các quan hệ kinh tế. Có quy chế phòng ngừa, bù đắp rủi ro hoàn thiện, hữu hiệu,
đảm bảo hạn chế và bù đắp được những hạn chế có thể xảy ra trong hoạt động
của các trung gian tài chính.
Thứ tư, hệ thống các cơ quan tài chính phát triển lành mạnh, có uy tín. Các cơ
quan này đòi hỏi không chỉ có công nghệ hiện đại (máy móc thiết bị) mà còn
phải có sự phát triển về bề sâu, có kinh nghiệm lâu dài về quản lý ở nhiều khía
cạnh.
Thứ năm, sự thanh tra giám sát của NHTW đối với các tổ chức tín dụng trong
hoạt động kinh doanh nói chung và thực thi chính sách tiền tệ nói riêng phải thật

chặt chẽ.
Thứ sáu, chọn thời điểm bắt đầu, tốc độ và trật tự sử dụng các công cụ tự do hóa
lãi suất phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế. Kinh nghiệm về tự do hóa lãi suất
ở một số nước vào những năm 80 cho thấy tự do hóa không đúng thời điểm sẽ
làm tăng tính bất ổn định kinh tế vĩ mô thông qua việc làm tăng lạm phát và nợ
nước ngoài, giảm sức sản xuất trong nước.
Thứ bảy, tự do hóa lãi suất gắn liền với tự do hóa tỷ giá hối đoái.


2. CHƯƠNG 2: NHỮNG BÀI HỌC TỪ THỰC TẾ
2.1. Trung Quốc và những thành công đem lại từ chính sách tự do hóa
lãi suất
2.1.1. Tình hình TQ trước khi đi đến quyết định thực hiện khi tự do hoá
lãi suất.
Trước năm 1979, Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá.
Cơ chế này đã làm cho các doanh nghiệp mất đi quyền chủ động trong kinh
doanh, không gắn kết lợi ích kinh tế với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, làm cho các doanh nghiệp không chú ý đến hiệu quả của hoạt động sản
xuất kinh doanh, tăng tính ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước, chính điều này đã
làm cho Trung Quốc rơi vào suy thoái , khủng hoảng kinh tế sâu sắc.
Nhận ra sự yếu kém của cơ chế quản lý kinh tế theo kế hoạch, từ năm 1979
Trung Quốc đã thực hiện cải cách kinh tế, thực hiện chuyển đổi nền kinh tế.
Chính sách tỷ giá cũng được cải cách cho phù hợp với những chuyển đổi của
nền kinh tế. Củ thể:
Ngày 1/1/1994, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc công bố thống nhất tỷ giá
chính thức và tỷ giá trao đổi thực tế trên thị trường của đồng NDT. Tỷ giá này
được thiết lập ở mức 8,7 NDT đổi 1 USD và nằm dưới chế độ thả nổi có kiểm
soát của nhà nước.
Từ 5,8 ND2T xuống 8,7 NDT đổi một USD, đây được coi là một trong những
lần phá giá mạnh nhất với tỷ lệ lên tới 50%. Nhiều người cho rằng Chính phủ

Trung Quốc không chỉ đơn thuần muốn điều chỉnh để đồng NDT phản ánh đúng
sức mua của nó, mà còn có một chủ ý khác. Đó là thúc đẩy mạnh xuất khẩu và
tạo thặng dư thương mại.
Đến cuối năm 1996, NDT đã có thể được chuyển đổi hoàn toàn trên tài khoản
vãng lai để phục vụ cho các mục đích liên quan đến thương mại. Tỷ giá hối đoái
danh nghĩa của NDT so với USD tăng ở mức chậm nhưng đều đặn lên 8,3 NDT
đổi một USD vào năm 1997. Sau khủng hoảng tài chính châu Á, Chính phủ
Trung Quốc đã cố định tỷ giá ở mức 8,27 NDT một USD. Trong 8 năm tiếp theo
(đến tháng 7/2005), tỷ giá này vẫn được duy trì nhằm tạo ra môi trường ổn định
cho ngoại thương và đầu tư vào quốc gia này.
Ngày 21/7/2005, Trung Quốc lại tiếp tục đưa vào một chính sách tiền tệ mới,
chấm dứt việc áp dụng một tỷ giá hối đoái danh nghĩa không thay đổi trong suốt
gần 10 năm. Theo đó, sự chuyển đổi sang cơ chế tỷ giá mới này đã đem lại ba
thay đổi quan trọng. Thứ nhất, giá trị đồng NDT sẽ được tham chiếu với một rổ
gồm nhiều đồng tiền khác theo quy luật cung cầu của thị trường. Thứ hai, tỷ giá
trao đổi chính thức xuống 8,11 NDT đổi một USD với iên độ dao động hàng
ngày là 0,3%. Thứ ba, cơ chế tỷ giá cố định được thay thế bằng cơ chế tỷ giá thả
nổi có kiểm soát.


Tháng 5/2007, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã điều chỉnh biên độ dao
động hàng ngày của NDT lên 0,5%. Những đổi mới này đã làm tăng tính linh
hoạt cho tỷ giá. Vào cuối năm 2008, một USD chỉ còn đổi được 6,83 NDT.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã gây nên một cơn chấn động
trên toàn thế giới. Trong tình hình đó, các nhà cầm quyền Trung Quốc đã giới
hạn phạm vi dao động của NDT và giữ ở khoảng 6,84 NDT đổi một USD trong
vòng 2 năm, đồng thời quay trở lại định giá NDT theo USD. Cho đến ngày
19/6/2010, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc mới khởi động lại các cuộc cải
cách nhằm vào tỷ giá đồng NDT. Theo đó, tỷ giá hối đoái của NDT so với USD
tiếp tục tăng. Ngày 16/4/2012, biên độ dao động của NDT so với USD được nới

rộng lên 1% mỗi ngày.
Tuy nhiên, gần đây, vấn đề đang gây tranh cãi là trong thời gian qua là Trung
Quốc luôn duy trì chính sách tỷ giá ấn định ở mức thấp nhằm làm tăng cầu hàng
hóa của các quốc gia khác và chiếm được ưu thế trong hoạt động xuất khẩu. Do
thị phần Trung Quốc có tỷ trọng lớn trong thương mại thế giới, việc đồng NDT
bị định giá thấp hơn giá trị thực tế đã dẫn đến mất cân bằng trong cán cân
thương mại trên toàn cầu.
Trong ba ngày từ 11-13/8/2015, PBOC đã liên tiếp hạ giá đồng NDT, trước khi
tăng trở lại vào ngày 14/8. Đây là đợt phá giá mạnh nhất từ sau khi Trung Quốc
thành lập hệ thống quản lý ngoại hối hiện đại năm 1994. Giới phân tích cho
rằng đợt phá giá lần này là nước cờ tương tự giai đoạn 1994-1997.
Các nhà phân tích xem động thái này là một cách để Trung Quốc cùng một lúc có
thể đẩy mạnh xuất khẩu, khi hàng hóa của họ rẻ hơn nước khác. Đồng thời, họ
muốn nâng cao quyền lực cho đồng NDT, giúp dễ dàng thực hiện các mục tiêu
ngoại giao và củng cố vai trò trung tâm của mình trong nền kinh tế toàn cầu.
2.1.2. Những chuyển biến tích cực trong nền kinh tế trung Quốc khi thực
hiện tự do hoá lãi suất
Việc Trung Quốc bỏ trần lãi suất huy động do việc đó đem lại nhiều lợi ích cho
nước này.
Thứ nhất, trước đây, trần lãi suất huy động tại Trung Quốc thường ở mức
bằng hoặc thấp hơn so với lạm phát, khiến lãi suất thực nhận của người gửi tiền
rất thấp, thậm chí là âm, nên làm giảm mức chi tiêu hộ gia đình. Trong khi đó,
người vay lại được hưởng lãi suất thấp, hoặc ngân hàng được hưởng biên lợi
nhuận cao. Từ thực tế đó, việc bỏ trần lãi suất huy động sẽ phân phối lại thu
nhập theo hướng có lợi cho các hộ gia đình.
Thứ hai, trần lãi suất huy động giúp người vay tiền được vay với lãi suất thấp
hơn, do đó thúc đẩy hoạt động vay nợ và sử dụng vốn một cách tràn lan. Đầu tư gia
tăng quá mức, đồng thời tỷ lệ nợ/GDP đã lên mức rất cao, tới 232% năm 2014.
Trong khi đó, hệ thống ngân hàng của Trung Quốc thường ưu tiên cho các doanh



nghiệp quốc doanh vay vốn, với phần lớn lợi ích từ lãi suất cho vay thấp rơi vào
các doanh nghiệp nhà nước, mà phần nhiều trong số đó hoạt động hiệu quả thấp.
Điều này làm gia tăng rủi ro chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, việc kiểm soát lãi suất phải đi kèm với việc hạn chế dòng vốn ra ngoài
để tìm kiếm lợi suất cao hơn. Cùng với sự phát triển của thương mại, du lịch và
di dân, việc kiểm soát lãi suất ngày càng kém hiệu quả. Ví dụ, một số cơ chế có
thể chuyển vốn ra nước ngoài như khai tăng hóa đơn nhập khẩu hoặc khai giảm
giá trị hàng xuất khẩu, rút tiền chi tiêu thẻ tín dụng tại nước ngoài… Những
biện pháp này ngày càng được sử dụng rộng rãi, khiến việc kiểm soát lãi suất và
kiểm soát dòng vốn ra bên ngoài trở nên kém hiệu quả hơn.
Các biện pháp hạ lãi suất khác có thể áp dụng như tăng hiệu quả đầu tư, giảm
thâm hụt ngân sách, hạ giá dịch vụ công và nguyên nhiên liệu thiết yếu để giảm
lạm phát…
Mặc dù tự do hóa lãi suất sẽ đem lại lợi ích dài hạn cho nền kinh tế, song nó
cũng có thể tạo áp lực giảm tăng trưởng và tăng sự biến động của thị trường tài
chính trong ngắn hạn. Đây chính là khó khăn và thách thức với cơ quan quản lý
để thực hiện cải cách mà vẫn duy trì được tăng trưởng kinh tế.
2.2. Mỹ và những mặt trái của chính sách tự do hóa lãi suất
Nhờ tự do hóa tài chính, nhiều nước đang phát triển đã thu hút được lượng vốn
đầu tư rất lớn và tiếp nhận nền tảng công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, dòng vốn
vào tăng mạnh cũng gây khó khăn cho các cơ quan quản lý tài chính trong việc
duy trì ổn định giá trị bản tệ và ngăn chặn nguy cơ đào thoát của dòng vốn đầu
tư, gây ra tình trạng thâm hụt kép triền miên và ngày càng trầm trọng,...
Mỹ và tình trạng thâm hụt kép 4 năm sau khi thực hiện tự do hoá lãi suất.
Kể từ đầu những năm đầu thế khỉ 21, do sự ngập tràn hàng hóa giá rẻ từ các
nước đang phát triển, tác động tiêu cực đến cán cân thương mại và thị trường
lao động Mỹ, chưa hết, các nước đang phát triển còn sử dụng nguồn USD thu
được để mua trái phiếu chính phủ Mỹ, gây khó khăn cho việc điều hành chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương liên bang, đầu tiên là các nước châu Âu

và các nước xuất khẩu dầu mỏ, tiếp đến là Nhật Bản, Mexico và nhiều nước
khác, đặc biệt là Trung Quốc từ sau năm 1999, khi quốc gia này chuẩn bị gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Hậu quả là, thâm hụt ngân sách của Mỹ đã vượt 1 nghìn tỷ USD trong bốn
năm liên tiếp kể từ năm 2008; nợ nước ngoài lập kỷ lục 5.430 tỉ USD vào tháng
8, tăng 1,5% so tháng 7/2012. Trong đó, hai quốc gia chủ nợ lớn nhất là Trung
Quốc và Nhật Bản với lượng trái phiếu đang nắm giữ lần lượt là 1.150 tỉ USD
và 1.120 tỉ USD.


Thâm hụt tài chính của Mỹ còn do các biện pháp giảm thuế đầu tư và kinh
doanh cũng như chi phí chiến tranh Trung Đông kể từ năm 2001, với tổng mức
giảm thuế khoảng 3.400 tỉ USD. Chi phí chiến tranh tăng thêm 2.100 tỉ USD,
mà đều được tài trợ bằng thâm hụt ngân sách.
Việc đẩy mạnh đầu tư từ các nước phát triển sang các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển đã giúp các doanh nghiệp tăng thu lợi nhuận nhờ chi phí lương
thấp, nhưng không khuyến khích đầu tư cải tiến công nghệ và nâng cao năng
suất lao động. Trong khi đó, làn sóng mở rộng đầu tư sang các nước chậm phát
triển với môi trường pháp lý chưa hoàn thiện đã buộc các doanh nghiệp phải
“lách luật” và điều này làm phát sinh tiêu cực. Xu hướng này đã từng bước làm
thui chột động lực tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của chính các nước phát
triển, triệt tiêu chính sách tiền tệ và tỉ giá do mỗi biện pháp nới lỏng tiền tệ tại
các nước phát triển đều gây ra hiệu ứng lan chuyền tại các nước còn lại trên thế
giới nhằm hỗ trợ xuất khẩu vốn rất mong manh, các nỗ lực cân bằng kinh tế và
thương mại toàn cầu vì thế đều thất bại. Trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng
phải theo sau các doanh nghiệp và cũng phải trải qua nhiều sóng gió trong quá
trình hoạt động tại các nước đang phát triển để qua mặt các nhà điều hành, một
yếu tố dẫn đến sự hình thành và phát triển các hoạt động tài chính bất hợp pháp,
một trong những nguyên nhân cơ bản của khủng hoảng tài chính vừa qua và cho
tới nay vẫn chưa có biện pháp hiệu quả, cải cách tài chính quốc tế tiếp tục là

thách thức ở phía trước.
Có thể thấy rõ mặt trái này tại châu Âu hiện nay với tình trạng nợ nần, thất
nghiệp ngày càng tăng, mà nguyên nhân chính bắt nguồn từ sự suy kiệt dần của
năng lực cạnh tranh, các biện pháp cải cách cơ cấu theo hướng thắt chặt chi tiêu
chỉ làm cho tình hình thêm trầm trọng. Nhiều nước châu Âu tiếp tục trượt dốc
và tăng trưởng thụt lùi, tình trạng suy thoái có thể kéo dài cho tới năm 2020.
Sau khủng hoảng kinh tế 2008, Mỹ và các nước công nghiệp phát triển hàng đầu
thế giới đã thấy rõ mặt trái của tự do hóa tài chính và đang thay đổi chính sách
đầu tư theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp Mỹ trở lại đất nước, qua đó
phục hồi vai trò của nghiên cứu khoa học công nghệ, góp phần củng cố năng lực
cạnh tranh và tạo việc làm với mức lương cạnh tranh so với tại các nước có nền
tảng công nghệ thấp hơn. Mặc dù đây là quá trình lâu dài, nhưng những kết quả
ban đầu đã phát đi tín hiệu tích cực về sự phục hồi các chỉ số tăng trưởng của
nền kinh tế thứ nhất thế giới này.
Có thể thấy, xu hướng tự do hóa tài chính bắt đầu được các nước xem xét lại.
Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi chiến lược chứ không chỉ dừng lại
ở các biện pháp tái cơ cấu đơn thuần, nhất là về tài chính và đầu tư phát triển
sản xuất trong bối cảnh các luồng tài chính bị kiểm soát chặt chẽ hơn, qua đó sẽ
nhanh chóng tránh được những tác động tiêu cực từ bên ngoài.

3. CHƯƠNG 3: VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH TỰ DO HÓA
LÃI SUẤT


3.1. Diễn biến lãi suất qua các giai đoạn
Cùng với tiến trình mở của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, thị trường
tiền tệ cũng có sự biến động với những tác động từ thị trường quốc tế, trong
đó biểu hiện rõ nhất là những diễn biến của lãi suất qua từng giai đoạn.
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1993
Từ ngày 26/3/1988, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đổi mới cơ cấu tổ chức

theo Nghị định 53/HĐBT, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát
triển của ngân hàng cũng như điều hành về lãi suất. Theo đó, nếu trước đây hệ
thống ngân hàng hoạt động độc quyền thì nay đã hình thành nên ngân hàng
thương mại (NHTM) hoạt động dưới sự kiểm soát của NHNN.
Theo đó, Quyết định số 25-NH/QĐ ngày 12/5/1980 của NHNN quy định lãi
suất tiền gửi không kỳ hạn là 0,6%/tháng; lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1-3 tháng là
0,9%/tháng; 2-6 tháng là 1,05%/tháng; từ 6-12 tháng là 1,2%/tháng; trên 12
tháng là 1,5%/tháng... Trong giai đoạn này, chính sách lãi suất dần thể hiện
được vai trò của mình trong công cuộc kiềm chế lạm phát, đồng thời đã hình
thành nhiều loại lãi suất phù hợp với yêu cầu thị trường như lãi suất liên ngân
hàng... Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế
và lãi suất tiết kiệm, lãi suất huy động cao hơn lãi suất cho vay, hơn nữa có sự
phân biệt lãi suất cho vay giữa khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh gây ra
tình trạng bất bình đẳng trong nền kinh tế.
Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2000
Năm 1996, theo nghị quyết của Quốc hội, NHNN bãi bỏ chính sách thu thuế
doanh thu của các hoạt động tín dụng nhằm giảm chi phí cho vay, song lãi suất
cho vay vẫn tăng đột biến trên 20%/năm. Lãi suất cho vay duy trì có sự khác
nhau giữa nông thôn và thành thị, trong khi tại khu vực nông thôn, NHNN duy
trì lãi suất cao hơn để kích thích nguồn vốn vay về khu vực này.
Quyết định số 39/1998/QĐ/NHNN ban hành nhằm xóa bỏ cách biệt giữa lãi
suất cho vay ở cả hai khu vực, đồng thời thu hẹp lãi suất trần và bãi bỏ chênh
lệch 0,35%/tháng nhưng trên thực tế càng đưa khu vực nông thôn vào tình cảnh
thiếu vốn, không đảm bảo an toàn tín dụng ở nông thôn, vì không áp dụng chính
sách ưu đãi về lãi suất. Từ sau năm 1997, các NHTM đã giảm lãi suất cho vay
như gia hạn các khoản nợ từ 1-3 năm cho DN lên đến 5 năm, cho các tập đoàn
nhà nước vay không thế chấp đẩy lãi suất cho vay từ 20,1%/năm trong năm
1996 giảm còn 14,4%/năm duy trì trong 2 năm 1997-1998.
Lãi suất tín dụng tăng trong thời gian này đến trực tiếp từ việc vay mượn bởi
các DNNN nhằm tái cấu trúc hệ thống tài chính của mình được vững vàng hơn

để vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong năm 1999, việc mở rộng chính


sách tín dụng không làm kích thích tăng trưởng kinh tế, lãi suất huy động vốn
và lãi suất tín dụng đã giảm lần lượt 2%/năm so với những năm trước.
Tuy nhiên, năm 2000 đánh dấu bước phát triển mới trong cơ chế điều hành lãi
suất. Theo đó, NHNN đã chấp nhận thay đổi lãi suất cho vay không được vượt
qua lãi suất cơ bản cộng thêm 0,3% mỗi tháng cho vay ngắn hạn và 0,5% mỗi
tháng cho vay trung và dài hạn. Về cơ bản, quyết định này không khác mấy so
với quyết định áp trần lãi suất như trước kia nhưng các NHTM có thể chủ động
hơn trong việc đưa ra lãi suất cho vay tương ứng với từng đối tượng khách
hàng mà họ hướng tới.
Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008
Từ năm 2001 - 2008, có sự tăng lên nhịp nhàng giữa lãi suất huy động và cho vay
tăng giảm nhịp nhàng. Chính sách bỏ trần sàn lãi suất, áp dụng lãi suất cơ bản làm
cơ sở tham chiếu, nên các ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng (TCTD) đua
nhau thiết lập lãi suất của mình. Trong 7 năm, mức lãi suất tăng lên lần lượt là 97%
đối với lãi suất huy động vốn và 67% đối với lãi suất cho vay.

Mức tăng kỷ lục này báo động một khoảng hở trong quản lý và điều hành lãi
suất của NHNN, đẩy lãi suất tăng cao trên thị trường. Tuy nhiên, việc thiết lập
lãi suất của các NHTM lại làm cho bài toán quản lý trở nên khó hơn trong vấn
đề tự do hóa lãi suất. Năm 2008 là năm Việt Nam bị tác động gián tiếp bởi cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu buộc NHNN phải “bơm” gói kích cầu 30.000 tỷ
đồng để kích thích thị trường tiêu dùng. Cùng với việc tăng lãi suất 3 lần (đỉnh
điểm của mức lãi suất huy động là 14% vào tháng 6/2008, cao nhất tại châu Á),
NHNN cũng thực hiện giảm giá VND xuống 2% để giải tỏa áp lực của đồng
tiền trong nước (NHNN, 2010). Việc thắt chặt chính sách tiền tệ cũng là giải
pháp để giải cứu thị trường trước đà tăng của lạm phát, dù chưa đủ tạo áp lực
giảm nhiệt của lãi suất cho vay.

Cụ thể, Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản
bằng đồng Việt Nam do NHNN ban hành nhằm điều hành lãi suất cho vay của
các TCTD không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Diễn biến của thị trường
lãi suất năm 2008 đã đi ngược với mong đợi của NHNN, lãi suất không phản
ánh đúng quan hệ cung-cầu, bất cập về trần lãi suất cũng đẩy các TCTD bước
vào thời kỳ mất cân đối trong cầu vốn vay tín dụng trung dài hạn rất lớn, gia
tăng rủi ro trong kỳ hạn vốn.
Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
NHNN ban hành Thông tư 07/2010/TT-NHNN quy định về cho vay bằng đồng
Việt Nam thu lãi suất thỏa thuận nhằm giải quyết vấn đề về lãi suất, cho phép
ngân hàng được phép áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận với các khách hàng trung
và dài hạn vay phục vụ cho mục đích kinh doanh, mở rộng sản xuất. Tình


hình lãi suất năm 2011 không mấy khả quan, khi chịu ảnh hưởng bởi cuộc
khủng hoảng kinh tế cũng là một trong những lý do đẩy mức lãi suất huy động
và cho vay tăng cao, trong khi lãi suất thực trên thị trường phải duy trì ở ngưỡng
âm 3,55%.
Trong khi NHNN đã quy định mức trần lãi suất huy động là 14%/năm nhưng
các NHTM vẫn lách luật và huy động trượt lãi suất 2%-5% nữa để thu hút
khách hàng. Ngày 21/12/2012, NHNN ban hành Quyết định số 2646/QĐNHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong
thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng nhằm giảm lãi suất tái cấp
vốn từ 10%/năm xuống còn 9%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 8%/năm xuống
còn 7%/năm, lãi suất cho vay qua đêm giữa các liên ngân hàng giảm từ 11%
còn 10% năm. Như vậy, với chính sách thắt chặt tiền tệ, đến nay lãi suất có xu
hướng giảm trên thị trường…
Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự sửa đổi được ban hành năm 2015 đã quy định trần
lãi suất không vượt quá 20%/năm đối với các khoản vay tín dụng, được áp
dụng vào ngày 1/1/2017. Tuy nhiên, việc áp trần lãi suất không phải là giải

pháp tối ưu như đã phân tích, nhưng bộ luật này cũng đã “mở đường” cho các
TCTD đó là được phép thỏa thuận lãi suất theo cơ chế thị trường với điều
khoản “trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác” (NHNN, 2015)…
3.2. Những dự đoán về thị trường tài chính Việt Nam nếu thực hiện tự
do hóa lãi suất với bối cảnh hiện nay
Bởi tự do hóa lãi suất nói riêng và tự do hóa tài chính nói chung là xu hướng
tất yếu của một nền kinh tế thị trường lành mạnh và thịnh vượng nên những gì
mà chính sách này mang lại cho thị trường tài chính Việt Nam chắc chắn dẫn
đến việc được thừa hưởng những đặc tinh ưu việt của mô hình này như:
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện trở lại để ổn định kinh tế
vĩ mô.
Góp phần làm cho các dòng vốn được tự do luân chuyển đến bất kì đâu
tùy thuộc vào theo ý muốn của nhà đầu tư mà không gặp phải bất cứ một
sự ngăn cản phi kinh tế nào. Đảm bảo một thị trường tài chính sôi động,
và khi dòng tiền, dòng vốn được luân chuyển, lưu thông càng nhanh và
mạnh thì giá trị nó đem lại từ chức năng tạo tiền của ngân hàng cũng như
chiếu theo Mác - Lê-nin giá trị thặng dư đem lại từ đó cũng tăng lên.
Tăng vốn đầu tư phát triển sản xuất.
Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh có hiệu quả
Lãi suất khi đó tự điều chỉnh linh hoạt và nhạy cảm phản ánh chính xác
cầu của thị trường về vốn, giá vốn trên thị trường nâng cao hiệu quả phân
tích đầu tư tuy nhiên cũng không tránh khỏi những rủi ro về khả năng
thông số này có thể bị chi phối bởi sự liên kết, hợp tác liên ngân hàng
hoặc trong quá trình thâu tóm lẫn nhau của các ngân hàng lớn mạnh.


Hứa hẹn một nền tài chính tự do tiến thêm những bước mang kinh tế Việt
đến gần hơn với các nước phát triển.
Góp phần làm cho thị trường tài chính chính thức phát triển và thị trường
tai chính ngầm suy lụi. Một khi nền kinh tế hội tụ đủ những yêu cầu để

tiến tới tự do hóa lãi suất, các dịch vụ cho vay, gửi và các tác vụ tài chính
phức tạp hơn đều sẽ có quy trình hoạt động đơn giản, tạo điều kiện thuận
lợi cho hộ gia đình, khách hàng cá nhân dễ dàng tiếp cận và sử dụng dịch
vụ khiến cho tín dụng đen mất đi sức hút của mình mà dần bị nép vế
không có khả năng hoành hành mà chỉ có thể len lỏi hang ngách của xã
hội trực chờ những nhu cầu tiền bẩn từ tầng lớp thấp và những hoạt động
phi pháp.
3.3. Những cải biến, thích nghi mang tính sáng tạo đặc thù phù hợp
riêng cho thị trường Việt để áp dụng TDHLS
Giải quyết tín dụng đen
Đưa ra cách chính sách kèm theo về phòng chống độc quyền do liên
kết và thâu tóm giữa các ngân hàng
Nhà nước luôn giám sát, chuẩn bị ứng phó với các diễn biến trên thị
trường trong vài ngoài nước để đưa ra chính sách điều chỉnh, thắt chặt
trước khi các đợt khủng hoảng ập đến gây lũng loạn thị trường (như giai
đoạn 2008 - 2012). Lịch sử đã luôn sướng tên những người lèo lái cả một
tổ chức, một nền kinh tế, một dân tộc khi chúng rơi vào khủng hoảng: sự
ra đời của Dictator trong lịch sử La Mã hay khủng hoảng thừa khiến các
tài phiệt Mỹ phải xuống ngựa và trao cương cho chính phủ,.... Lịch sử
chỉ ra rằng sẽ luôn là sự xoay vòng giữa quy luật bàn tay vô hình và bàn
tay hữu hình để có thể có một thị trường lành mạnh.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu kiểm soát thị trường liên ngân hàng: Việc xây
dựng hệ thống chỉ tiêu kiểm soát thị trường liên ngân hàng để theo dõi
kịp thời diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, làm cơ sở ban
hành lãi suất tái cấp vốn. Hiện nay, NHNN đang thực hiện cơ chế điều
hành trực tiếp có giới hạn đối với lãi suất huy động và cho vay của các
NHTM làm cho lãi suất của các NHTM không phù hợp với quan hệ cung
cầu vốn trên thị trường làm giảm tác dụng của các công cụ lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất chiết khấu.
Dự báo sự biến động lãi suất theo tình hình kinh tế: Việc dự báo sự biến

động lãi suất theo tình hình kinh tế trong và ngoài nước, qua đó áp dụng
các biện pháp định hướng lãi suất phù hợp với thực tế nền kinh tế, bởi
lãi suất là công cụ điều tiết quan trọng của chính sách tiền tệ, đặc biệt là
trong quá trình nước ta đã hội nhập.
Sửa đổi và bổ sung các quy định về tái cấp vốn, chiết khấu và tái chiết
khấu. Theo đó, NHNN cần nghiên cứu sửa đổi và bổ sung các quy định


về tái cấp vốn, chiết khấu và tái chiết khấu của NHNN đối với các TCTD
theo hướng thông thoáng hơn về điều kiện vay, hạn mức vay đối với các
NHTM.
Hoàn thiện các quy định về lãi suất, quy chế quản lý ngoại hối theo thông
lệ quốc tế. NHNN cần hoàn thiện các quy định về lãi suất phù hợp với
thông lệ quốc tế, hoàn thiện và phát triển thị trường nội tệ liên ngân
hàng, thị trường đấu thầu trái phiếu chính phủ, nghiệp vụ thị trường mở
để lấy mức lãi suất trên thị trường này làm cơ sở xác định cho lãi suất cơ
bản bằng đồng Việt Nam. Đồng thời, cần công bố lãi suất tiền gửi và cho
vay bằng VND tính theo năm, các kỳ hạn cụ thể đối với lãi suất cho vay
và huy động được tính trên cơ sở lãi suất năm như đối với lãi suất ngoại
tệ cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Xóa bỏ các hình thức cho vay ưu đãi trong hệ thống ngân hàng: Đây là
yêu cầu tất yếu trong quá trình tự do hoá lãi suất. Theo kinh nghiệm tự do
hoá lãi suất của các nước, thì việc đề cập đến vấn đề xoá bỏ các mức lãi
suất ưu đãi trong quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay là
muộn. Các nước thường tiến hành việc xóa bỏ kiểm soát này vào thời kỳ
đầu của quá trình tự do hoá lãi suất. Bởi việc tồn tại các mức lãi suất ưu
đãi có ảnh hưởng tới các mức lãi suất cho vay thương mại của các trung
gian tài chính. Thông thường các NHTM hiện nay vẫn dùng nguồn vốn
tự huy động để cho vay ưu đãi theo các mục tiêu chỉ định, nhưng việc cấp
bù phần giảm lãi suất cho vay chưa được thực hiện đầy đủ (chỉ thực hiện

khi kết quả kinh doanh bị lỗ). Trong những trường hợp như vậy, lãi suất
cho vay thương mại sẽ bị đẩy lên cao để bù đắp cho những khoản vay ưu
đãi. Bên cạnh đó, việc cho vay ưu đãi trong những trường hợp này
thường gắn liền với rủi ro tín dụng, do người vay gây ra, cũng có thể do
chính các NHTM gây ra, vì họ nghĩ rằng các khoản cho vay đó đã được
Nhà nước bảo lãnh, nên không quan tâm đến hiệu quả đầu tư, giám sát
quá trình sử dụng vốn vay…
Thực hiện cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo: Nếu thị trường tiền
tệ thực sự phát triển theo hướng ổn định và có đủ điều kiện để thực hiện
tự do hoá lãi suất hoàn toàn, thì có thể bỏ cơ chế điều hành theo lãi suất
cơ bản để chuyển hẳn sang cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo
của NHNN. Sau khi bỏ biên độ lãi suất, thực hiện cơ chế lãi suất thoả
thuận, thì vai trò của lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND thực chất
chỉ còn mang tính hướng dẫn, tham khảo cho các TCTD, không còn vai
trò kiểm soát và tác động trực tiếp đến lãi suất trên thị trường. Vì vậy, khi
thị trường tiền tệ phát triển theo hướng ổn định và có đủ điều kiện để tự
do hoá lãi suất hoàn toàn, cần phải chuyển sang cơ chế điều hành hệ
thống lãi suất chỉ đạo của NHNN.
Nâng cao năng lực quản lý và vai trò giám sát của NHNN: Cần nâng cao vị
thế độc lập của chính sách tiền tệ và quyền tự chủ của NHNN trong điều
hành chính sách tiền tệ. Đổi mới cơ cấu tổ chức của hệ thống NHNN


theo hướng tập trung quản lý, điều hành, nâng cao tính chuyên môn hóa,
xác định rõ ràng chức năng nhiệm vụ và tăng cường phối hợp giữa các
đơn vị, giảm bớt các đầu mối quản lý. Tiếp tục tăng cường năng lực thanh
tra và giám sát ngân hàng của NHNN...
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM. NHNN thông qua việc
phân loại, xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu của các NHTM, minh bạch
các báo cáo tài chính hàng năm và tăng cường chất lượng tài sản, tín

dụng cũng như nâng cao chất lượng hoạt động kiểm soát tín dụng của các
NHTM, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.



×