Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.51 MB, 21 trang )

môc lôc
NỘI DUNG

STT
1
MỞ ĐẦU
1.1
Lý do chọn đề tài
1.2
Mục đích nghiên cứu
1.3
Đối tượng nghiên cứu
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
NỘI DUNG
2.1
Cơ sở lý luận
2.2
Thực trạng
2.3
Các biện pháp
2.3.1 Biện pháp 1: Tự bồi dưỡng chuyên môn và tiếp thu về
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
2.3.2
Biện pháp 2: Tạo môi trường thuận lợi để giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ
2.3.3 Biện pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học

Trang


01
01
01
01- 02
02
02-03
03- 04
04-05

05-07
07-10

2.3.4

Biện pháp 4: Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm có tính giáo

2.3.5

dục và tính tương tác cao.
Biện pháp 5: Sử dụng các tình huống cho trẻ giải 10 - 11
quyết

2.3.6
2.3.7
2.4
3

Biện pháp 6 : Giáo dục kỹ năng sống thông qua các 11 - 13
trò chơi vận động.
Biện pháp 7: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ

huynh
Hiệu quả của sáng kiến
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ

1

13-14
14-15
15-17


1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài:
Kỹ năng sống là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông
qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề,
câu hỏi thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của con người. Đối với trẻ Mầm
non, hiểu đơn giản kỹ năng sống chính là những thao tác hành động, nhận thức –
tình cảm các con sử dụng hàng ngày để đáp ứng nhu cầu bản thân và xử lý các
tình huống phát sinh trong cuộc sống. Việc Dạy trẻ kỹ năng sống cho trẻ là giúp
trẻ nâng cao năng lực tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau trong những
tình huống cụ thể và vừa sức. Nội dung giáo dục, phải xuất phát từ chính nhu
cầu và kinh nghiệm của trẻ. Cần tạo ra cơ hội để trẻ được trải nghiệm từ thực tế
và rút ra kinh nghiệm cho bản thân từ những thực tế đó. Nếu không có kiến thức
và kỹ năng sống sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi gặp tình huống bất ngờ. Chính vì
vậy đồng hành với việc dạy kiến thức cần phải dạy các kỹ năng sống cơ bản cho
trẻ như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ, kỹ năng tự phục vụ bản thân...
Là Tổ trưởng tổ chuyên môn mẫu giáo và là giáo viên trực tiếp đứng lớp 5
tuổi tôi nhận thức đặc biệt rằng ở lứa tuổi lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi việc giáo dục
kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp khác
nhau mà quyết định phải xuất phát từ trẻ, vì thế học phải hết sức gần gũi với

cuộc sống, nội dung phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ, trẻ
cần có điều kiện để trải nghiệm nêu lên các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh
nghiệm, thực hành và áp dụng. Trẻ phải được thảo luận theo nhóm, theo cặp,
phải được tư duy, tranh luận và phân tích tình huống, trẻ phải biết thích nghi, thể
hiện cảm xúc, có khả năng hòa nhập, tự giải quyết vấn đề một cách tự lập. Đó
chính là tiền đề gieo mầm hạt giống nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ.
Song tôi thấy thực tế tại trường tôi thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ còn
hạn chế chưa được chú trọng nên trẻ lớp tôi chưa có những kỹ năng cơ bản ấy.
Là một tổ trưởng chuyên môn, là giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi luôn trăn
trở suy nghĩ làm thế nào để có một phương pháp truyền đạt đến trẻ những kỹ
năng sống tốt nhất và dạy dưới hình thức nào?
Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai
trò quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Với
trái tim người mẹ thứ hai của trẻ trong năm học 2018 - 2019 tôi đã lựa chọn thực
hiện đề tài “ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi "
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tôi nghiên cứu “ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi” nhằm phát huy nâng cao tính tích cực, năng động , sáng
tạo, mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ nhằm phát
triển toàn diện về mọi mặt, hình thành cho trẻ những phẩm chất cơ bản, bước
đầu đặt nền móng cho sự phát triển giúp trẻ tự tin khi bước chân vào trường
Tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
“ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi "
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
2


- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thực hành và trải nghiệm

- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp giao tiếp

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non có một vai trò rất quan trọng vì,
lứa tuổi mầm non là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội giá trị sống để phát triển
nhân cách. kỹ năng sống là kỹ năng nền tảng để hình thành nhân cách cho trẻ
Kỹ năng sống chính là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng
lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin vững vàng trước mọi
khó khăn thử thách. Kỹ năng sống chính là chiếc chìa khóa vàng cho sự phát
triển và sự thành công của mỗi con người.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó
góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học tập,
lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống sau này.
Trong xã hội hiện nay, kiến thức của con người ngày càng phát triển và mở rộng,
từng cá nhân, nếu không được bồi dưỡng, cập nhật thông tin thường xuyên sẽ
trở thành lạc hậu. Bên cạnh đó, yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ
ngày càng cao. Để hình thành và có được các kỹ năng cho trẻ trong cuộc sống
hàng ngày trước tiên giáo viên phải có kiến thức, kỹ năng về chăm sóc giáo dục
trẻ. Giáo viên phải có kiến thức để tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải
nghiệm, để trẻ được cuốn hút vào các hoạt động đa dạng khác nhau cùng với các
bạn trong nhóm lớp. Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ tương tác, giao tiếp với nhau
trong lớp như: Thảo luận, trao đổi ý kiến, giải quyết xung đột, chia sẻ kinh
nghiệm, trải nghiệm những vai trò khác nhau...Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ được
tham gia và cảm thấy mình là một thành viên trong nhóm chơi và trẻ có cơ hội
để phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin, góp phần thúc đẩy sự
phát triển, tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ.
2. 2. Thực trạng của vấn đề
Năm học 2018 - 2019 tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo

lớn 5 – 6 tuổi với tổng số cháu là 38 cháu. Qua tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, từ đó tôi chọn lọc biện pháp giáo dục cho
phù hợp. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tôi gặp những thuận lợi và khó
khăn sau:
2.2.1. Thuận lợi :
- Trường đã đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1, cơ sở vật chất, trang thiết bị
đầy đủ
- Ban giám hiệu luôn quan tâm tới chuyên môn, bồi dưỡng phương pháp,
đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp
tôi thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non theo quy định
- Giáo viên trong tổ chuyên môn đoàn kết cùng đưa ra các biện pháp
giáo dục kỹ năng sống sao cho phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.

3


- Giáo viên nắm vững phương pháp, có trình độ chuẩn, có sự nhiệt tình
chia sẻ, phối hợp với nhau và luôn quan tâm tới trẻ, thường xuyên dành thời
gian trao đổi với phụ huynh để cùng chăm sóc giáo dục trẻ.
- Là một giáo viên yêu nghề, mến trẻ, tận tình với công việc. Tôi thường
xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu như tạp chí, thông tin trên mạng có liên quan
đến việc chăm sóc giáo dục trẻ để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hằng
ngày nhất là việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
2.2.2. Khó khăn:
- Chưa có nhiều tài liệu sách báo về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
để giáo viên nghiên cứu, tham khảo.
- Giáo viên có nhiều hạn chế về phương pháp tổ chức giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ.
- Đồ dùng đồ chơi chưa phong phú nên còn khó khăn trong việc tổ chức
các hoạt động.

KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐẦU NĂM:
Trước khi khảo sát đề tài tôi tiến hành khảo sát các kỹ năng sống trên trẻ, với
số lượng là 38 trẻ:
Stt Kỹ năng sống
Đạt
Chưa đạt
Số trẻ
Tỉ lệ %
Số trẻ
Tỉ lệ %
1
Tính tự tin
19
50%
19
50%
2
Kỹ năng hợp tác
20
53%
18
47%
3
Kỹ năng giao tiếp
22
58%
18
42%
4
Kỹ năng xử lí tình huống 17

45%
21
55%
5
Sự tò mò và khả năng
20
53%
18
47%
sáng tạo.
6
Kỹ năng giữ an toàn cá
19
50%
19
50%
nhân.
Xuất phát từ đặc điểm chung của trường, của lớp và tầm quan trọng của
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ tôi
đã nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống như sau:
2.3. Các biện pháp giải quyết:
2.3.1. Biện pháp 1: Tự bồi dưỡng chuyên môn và tiếp thu về giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.
Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non đang còn là mới
mẻ và rất nhiều giáo viên còn chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn đề
hoặc thiếu kỹ năng giảng dạy để có thể truyền đạt cho trẻ hiểu và hình thành
cho trẻ những kỹ năng sống cần thiết cho trẻ.
Ngoài học tập chuyên đề ra tôi còn tham khảo thêm trong sách báo như
báo “giáo dục mầm non” do nhà trường phát, phương tiện thông tin đại chúng
thông qua các chương trình truyền hình trên các kênh “Kid TV; Giáo dục trẻ

em ECE; kênh cartoon,…”, tham khảo qua bạn bè để nâng cao trình độ chuyên
môn.
Sau khi tìm hiểu về tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mầm non của giáo viên mầm non, có thể nói rằng kỹ năng sống là rất quan
4


trọng đối với mỗi người chúng ta, vì vậy phải luôn luôn học kỹ năng sống trong
suốt cả cuộc đời. Vậy đối với trẻ mầm non thì tâm sinh lý còn non nớt, nên
người lớn đặc biệt là giáo viên mầm non cần chú trọng đến việc dạy kỹ năng
sống cho trẻ. Vậy dạy trẻ như thế nào và dạy như thế nào cho phù hợp tôi đã
xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và sắp xếp các nội dung khảo
sát kỹ năng sống theo trình tự của kế hoạch cụ thể:
* Kế hoạch cả năm:
Giai đoạn
Giai đoạn 1:
(Tháng 9, 10,

11)

Giai đoạn 2:
(Tháng 12, 1, 2)

Chủ đề
- Chủ đề trường mầm non
- Chủ đề: “Bản thân"
- Chủ đề “Gia đình”

Kỹ năng giáo dục
- Kỹ năng hợp tác

- Kỹ năng tự tin
- Kỹ năng giữ an toàn cá
nhân
- Kỹ năng giao tiếp
- Kỹ năng tò mò, sáng tạo
- Kỹ năng xử lý tình huống
- Kỹ năng giữ an toàn cá
nhân
- Kỹ năng giao tiếp
- Kỹ năng tò mò, sáng tạo

- Chủ đề “Nghề nghiệp”
- Chủ đề “động vật”
- Chủ đề “thực vật”
Giai đoạn 3
- Chủ đề “Giao thông”
(Tháng 3, 4, 5)
-Chủ đề “Hiện tượng tự
nhiên”
- Chủ đề “Quê hương đất
nước Bác Hồ”
- Chủ đề “Trường tiểu
- Kỹ năng tự tin
học”
Tôi đã xây dựng kế hoạch và chia thành 3 giai đoạn tại vì:
- Ở giai đoạn 1: Vì trẻ mới tập trung đến lớp sau những ngày nghỉ hè và phù
hợp với chủ đề dễ lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các nội dung
giáo dục khác như chủ đề “trường mầm non” trẻ cần có kỹ năng hợp tác với
bạn bè, cô giáo để thực hiện tốt các hoạt động trong lớp.
Chủ đề “Bản thân” Giúp trẻ tự tin trong giao tiếp, mạnh dạn trước đám

đông hay tự tin về khả năng của mình…
Chủ đề “gia đình”cần giúp trẻ biết sử dụng đồ dùng an toàn như: Biết sử
dụng đồ dùng, thiết bị điện, biết sử dụng đồ dùng sắc nhọn...
- Ở giai đoạn 2: Trẻ đã tự tin mạnh dạn tôi sẽ rèn kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử
lý tình huống lồng ghép với chủ đề “Nghề nghiệp, động vật, thực vật”
- Ở giai đoạn 3: Khi trẻ đã mạnh dạn tự tin tôi sẽ tiếp tục rèn kỹ năng, kỹ sảo
lồng ghép vào chủ đề “Hiện tượng tự nhiên, Quê hương đất nước bác Hồ,
Trường tiểu học”
Ta có thể khẳng định rằng để trẻ có kỹ năng sống tốt thì ta phải luôn luôn
giáo dục trẻ trong suốt quá trình dạy trẻ. Vậy khi xây dựng kế hoạch là ta cần
tập trung những chủ đề đã lựa chọn để hình thành thói quen (Kỹ năng) còn
những chủ đề sau ta vẫn tiếp tục dạy để hình thành kỹ sảo.
Thông qua biện pháp này tôi thấy bản thân hiểu hơn và nắm vững hơn
phương pháp cũng như cách truyền đạt kỹ năng sống tới trẻ.
2.3.2: Biện pháp 2: Tạo môi trường thuận lợi để giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ
5


Môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục trẻ, vì
thế cần phải có môi trường giáo dục trong lớp và ngoài lớp học. Môi trường
trong lớp như: Các góc chơi, đồ dùng đồ chơi, trang trí phòng nhóm lớp...có tác
dụng giúp trẻ lĩnh hội kiến thức và một số kỹ năng sống.
Ví dụ:
Cô dán những ký hiệu không nên (x) bằng màu đỏ đối với những vận
dụng có thể gây nguy hiểm để trẻ đề phòng nguy hiểm như: Ổ điện, dây máy
tính,…
Trong lớp học tôi đã trang trí góc thư viện và văn học để nơi dễ hoạt
động với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề như "Thư viện trường mầm non";
"Tủ sách gia đình"; "Những con vật đáng yêu"...Ngoài ra tôi còn tạo nhiều góc

mở khác cho trẻ hoạt động như: "Góc kỹ năng của bé" ở góc này trẻ được thực
hành trải nghiệm một số kỹ năng như: Cài khuy, tết tóc, chải đầu...và ở mỗi chủ
điểm tôi đều cho trẻ thực hành các kỹ năng khác nhau theo chủ đề.
Đối với môi trường ngoài lớp học: Tôi đã mạnh dạn tham mưu với ban
giám hiệu trang trí sân trường bằng các khẩu hiệu như: "Đội mũ bảo hiểm khi
ngồi mô tô, xe máy"; "Bỏ rác vào thùng đúng nơi quy định"...
Sau khi tạo được môi trường giáo dục, tôi đã lên kế hoạch giáo dục, kế
hoạch đánh giá trẻ nhằm ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự biến tiến bộ của
trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ đạt được trong
mỗi ngày để làm căn cứ, thước đo để đánh giá trẻ.
2.3.3. Biện pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học
Giáo dục kỹ năng sống là phải giáo dục trẻ mọi lúc, mọi nơi và cả trên tiết
học.Lồng nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học nhằm hình thành
cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hoá là rất cần thiết. Trên tiết học trẻ vừa
được cung cấp kiến thức vừa được giáo dục kỹ năng cần thiết.
Ví dụ:
* Trong hoạt động phát triển thể chất:
Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể
khoẻ mạnh, trẻ biết trong khi tập phải xếp hàng theo thứ tự không chen lấn xô
đẩy nhau. Trẻ biết tự lấy đồ dùng, dụng cụ thể dục của mình. Biết hợp tác với
bạn để chơi trò chơi.

6


Hình ảnh trẻ thực hiện bài tập "Đi trên ghế thể dục"

* Hoạt động khám phá xã hội:
Trẻ được lĩnh hội những kiến thức về thế giới xung quanh, từ đó hình thành
cho trẻ những kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ an toàn cho bản

thân…
Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình bạn, gia đình tôi.
Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình,
những việc mà trẻ thường làm ở nhà.
Kỹ năng sống trẻ học được là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn nói
và chờ đến lượt bạn nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.
Với chủ đề “ Bản thân” tôi cho trẻ trải nghiệm với các giác quan của mình,
những trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày của trẻ.
* Hoạt động giáo dục âm nhạc:
Thông qua bài hát : “ Rửa mặt như mèo” giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh
thân thể sạch sẽ.
Ngoài ra lớp tôi còn tổ chức giờ học biểu diễn văn nghệ tại lớp để giúp trẻ
tự tin hơn khi đứng trước đám đông.
Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh
thần đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, từ có
vần điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ
dàng tiếp thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trò là
người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển
những ứng xử tích cực và tự tin trong cuộc sống.

7


Hình ảnh giờ hoạt động âm nhạc

* Hoạt động tạo hình:
Đề tài “ Vẽ ngôi nhà của bé”. Cô giáo dục trẻ biết yêu quý ngôi nhà của
mình ở, biết quét dọn ngôi nhà của mình sạch sẽ, sắp xếp đồ dùng trong gia đình
ngăn nắp gọn gàng….
* Hoạt động quen văn học: Qua câu chuyện: “ Người bạn tốt”

Cô đàm thoại cùng trẻ:
- Linh và Trang là đôi bạn như thế nào? Khi Linh gặp nạn thì Trang sẽ làm gì? Con học tập được đức tính gì ở hai bạn?
Cô giáo dục trẻ tình đoàn kết, yêu thương giúp đỡ bạn bè, biết nói những
lời cảm ơn chân tình khi được người khác giúp đỡ mình.
* Hoạt động quen chữ cái: Tôi dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng, biết sắp
xếp đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải gò ép trong những tiết học chính
thức mà phải kết hợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ.
Ngoài ra tôi còn tổ chức các tiết thực hành mỗi tuần một hoạt động vào
các buổi chiều
Ví dụ:
Thực hành: - Bé tự đánh răng
- Bé sẽ làm gì khi bị lạc
- Bé sẽ làm gì khi bị ốm, đau, chảy máu...
2.3.4. Biện pháp 4: Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm có tính giáo dục và tính
tương tác cao.
Phương pháp giáo dục trẻ mầm non phải tạo điều kiện cho trẻ được trải
nghiệm tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh dưới nhiều hình thức đa dạng,
đáp ứng nhu cầu hứng thú của trẻ trong phương châm chơi mà học, học bằng
chơi. Chú trọng đổi mới môi trường giáo dục nhằm kích thích tạo cơ hội cho trẻ
khám phá, thử nghiệm và sáng tạo ở các khu vực hoạt động một cách vui vẻ.
8


Ngoài ra, ở trường mầm non giáo viên cần dạy trẻ văn hóa trong ăn uống qua đó
dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ
trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng
trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ
nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn,
cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp

người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người
xung quanh.

Hình ảnh trẻ xếp hàng rửa tay và giờ ăn của trẻ

Trong năm học tôi đã tổ chức cho trẻ đi tham quan một số khu vực ở gần
trường phù hợp với thời điểm và với chủ đề đang học.
Ví dụ:
Chủ đề “Nghề nghiệp” tôi cho trẻ đi tham quan quán cắt tóc, gội đầu,
trang điểm của cửa hàng cô Trang Hoan. Trẻ vừa được quan sát trò chuyện, đàm
thoại về công việc, về các đồ dùng dụng cụ của nghề làm đầu vừa được chia
nhóm thực hành một số thao tác như chải tóc, trang điểm, gội đầu, cắt tóc, làm
tóc xoăn và sấy tóc cho bạn.
9


Hình ảnh trẻ đang thực hành một số thao tác như chải tóc, trang điểm, gội đầu cho
bạn và cho khách

Qua buổi tham quan như vậy trẻ rất phấn khởi vì được giao lưu với bên ngoài
phạm vi trường mầm non. Trên đường đi trẻ biết đi theo hàng lối và đi sát lề
đường bên phải để bảo vệ an toàn cho bản thân, biết chào hỏi mọi người trẻ gặp.
Được đi nhiều lần trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Trẻ được luyện kỹ năng giao
tiếp xã hội, chào hỏi lễ phép, được rèn khả năng quan sát nhận biết các sự vật
hiện tượng ở trên đường đi và ở nơi mà trẻ đến tham quan. Qua đó kiến thức mà
trẻ thu được về chủ đề sẽ được mở rộng và khắc sâu hơn.
10


Hình ảnh trẻ đi theo hàng và đi sát nề đường bên phải, trên đường gặp bác thợ

sửa xe máy trẻ khoanh tay chào bác

Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho trẻ giao lưu giữa các tổ trong nhóm hoặc
giữa các lớp lớn trong khu 2 lần/tháng. Trong buổi giao lưu trẻ được làm quen
với nhau, được thể hiện bản thân mình, được trò chuyện, cùng nhau tìm hiểu
khám phá về một chủ đề đang học, giúp kiến thức của trẻ được mở rộng và củng
cố thêm. Trẻ biết mở rộng mối quan hệ ra ngoài lớp học từ đó trẻ mạnh dạn, tự
tin hơn
2.3.5. Biện pháp 5: Sử dụng các tình huống cho trẻ giải quyết
Trong cuộc sống có vô vàn tình huống cho trẻ giải quyết, ứng phó. Khả
năng vận dụng các kỹ năng sống một cách linh hoạt sẽ cho phép trẻ xử lý tốt các
11


tình huống xảy ra vớ trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Một trong những kỹ năng
cần hình thành cho trẻ đó là giúp trẻ có khả năng xử lý tình huống có vấn đề.
Khi trẻ được đi tham quan thực tế trẻ được cọ sát rất nhiều tình huống thực tế,
giúp trẻ bòi dưỡng kỹ năng xử lý tình huống hiệu quả
Ví dụ: Trên đường đi trẻ gặp một người lớn vứt rác ra đường, trẻ nhắc
người đó nhặt rác khiến người đó cảm tháy ngượng và xấu hổ về hành vi không
đẹp của mình
Ngoài ra, tôi còn thiết kế một số tình huống để tập cho trẻ tự giải quyết
vấn đề. Những tình huống này được sử dụng xuyên suốt trong quá trình chăm
sóc giáo dục trẻ.
Ví dụ1: - Trong giờ hoạt động góc, trẻ rất ồn cô tạo tình huống bị đau đầu
và ngất xỉu ra lớp, tôi thấy trẻ cuống quýt hỏi nhau cần xử lý tình huống này như
thế nào? Cuối cùng trẻ cũng đi đến một quyết định đó là gọi cô giáo lớp khác
đến để giúp. Điều đó chứng tỏ trẻ đã biết cách mạnh dạn đưa ra ý kiến, cùng hợp
tác với nhau để lựa chọn ra hướng giải quyết tốt nhất, biết gọi người lớn khi cần
giúp đỡ.

Ví dụ 2: Trong một giờ hoạt động của lớp tôi có 38 trẻ. Với buổi hoạt động
lao động gồm các nội dung lau lá cây, tưới cây, nhặt lá rụng tôi dự kiến mỗi nội
dung hoạt động có 12 - 13 trẻ một nhóm. Tôi chuẩn bị cho trẻ 10 khăn lau, 10
bình tưới, 10 giỏ. Tôi cho trẻ tự nhận công việc của mình. Điều đó có thể dẫn
đến tình huống có nhóm nhiều hơn 10 trẻ và không đủ dụng cụ để lao động. Khi
xảy ra tình huống đó tôi thấy các nhóm trẻ đã bàn bạc, thỏa thuận và đưa ra các
cách giải quyết khác nhau:
+ Cách 1: Vận động nhau chuyển nhóm cho đủ số dụng cụ lao động
+ Cách 2: Tìm cô giáo và bày tỏ mong muốn được cô giúp đỡ bằng cách
cung cấp thêm dụng cụ lao động.
+ Cách 3: Với nhóm nhặt rác, 2 bạn dùng chung một giỏ. Với nhóm tưới
cây, 2 bạn dùng chung 1 bình, một bạn lấy nước, một bạn tưới.
Ví dụ 3: Trên đường đi tham quan tôi sắp xếp 1 tình huống cho trẻ giải
quyết. Các bạn đang đứng cùng nhau có 1 người lạ đến hỏi chuyện trẻ, cho quà
rồi rủ trẻ đi chơi. Khi xảy ra tình huống đó tôi thấy trẻ lớp tôi nhất quyết không
đi cùng người lạ và các bạn biết gọi cô để cô giúp.
Như vậy, qua hoạt động này, tôi thấy trẻ lớp tôi đã “trưởng thành” hơn
hẳn. Trẻ độc lập, chủ động giải quyết các tình huống có vấn đề và hơn hết là biết
giải quyết cùng nhau, biết bàn luận, mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình, lắng nghe
ý kiến của bạn và lựa chọn giải pháp phù hợp. Biết bảo vệ an toàn cho bản thân
mình.
3.3.6. Biện pháp 6 : Giáo dục kỹ năng sống thông qua các trò chơi vận
động.
Biện pháp này giúp tôi tập hợp các trò chơi vận động, tạo nguồn tư liệu
phong phú để sử dụng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tôi đã sưu tầm các trò chơi vận động, phân loại các trò chơi theo tác dụng
của chúng đối với việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Sau đó tôi lưu lại để sau
này sử dụng.
Ví dụ:
12



Nội dung “Kỹ năng hợp tác”
Đây là một đức tính cần thiết đối với trẻ ở lứa tuổi này. Có những việc
chúng ta không thể tự làm được, nếu được người khác giúp đỡ thì ta sẽ hoàn
thành được việc ta muốn làm. Khi chúng ta kết hợp năng lực làm việc của mình
với người khác theo cùng một mục đích chung, đó chính là sự hợp tác. Sự hợp
tác giúp ta hoàn thành nhiệm vụ của mình nhanh chóng và dễ dàng hơn là tự
mình làm lấy. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cùng làm, cùng chơi với bạn bè,
biết cảm thông và chia sẻ với bạn.
– Trò chơi: “Bắt cá trong chum”.
+ Cách chơi: Mỗi đội có 2 trẻ. Trẻ trong đội một tay quàng qua vai bạn
của đội mình, tay kia khoắng trong chum phối hợp với nhau để cùng bắt được
cá. Trong một khoảng thời gian nhất định, đội nào bắt được nhiều cá nhất đội đó
giành chiến thắng.
- Trò chơi: “ Khiêu vũ cùng bóng”
+ Cách chơi: Mỗi đội có 2 trẻ. Trẻ trong đội phải dùng chán giữ bóng và 2
tay đan vào nhau khi có tiếng nhạc thì hai bạn phải khiêu vũ theo tiếng nhạc,
nhạc nhanh thì khiêu vũ nhanh, nhạc chậm thì khiêu vũ chậm, nhạc dừng thì
phải dừng. Khi nhạc dừng đội nào vẫn giữ được bóng thì đội đó thắng cuộc.
Nội dung “Sự tự tin”
Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển
sự tự tin trong trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về trong cá
nhân và trong mối quan hệ với người khác. Không ai sinh ra đã có ngay sự tự
tin. Đó là một đức tính chỉ có thể có được nhờ vào việc rèn luyện và học hỏi. Sự
tự tin lớn dần lên nhờ vào cảm giác được yêu thương, tôn trọng và thấy mình có
giá trị. Một trẻ tự tin sẽ “duy trì được khả năng học hỏi, khám phá trong học tập
và luôn sẵn sàng đón nhận những thách thức mới, mong muốn được yêu quý và
đón nhận chính là khởi đầu tuyệt vời để trẻ gần gũi hơn với mọi người.
– Trò chơi: “Gánh hoa qua cầu”

+ Cách chơi: Cho trẻ đứng thành hai hàng ngang. Lần lượt từng trẻ gánh
quang gánh có đựng hoa đi qua ghế thể dục. Ai ngã khỏi cầu, làm rơi hoa phải ra
ngoài một lần chơi.
Trẻ đứng ở 2 hàng cổ vũ cho bạn và đọc đồng dao do cô sáng tác:
Gánh hoa qua cầu
Như trên mặt đất
Bạn trước tôi sau
Lon ton, lật đật
Gánh hoa cho mau
Run rẩy ngã liền
Mang hoa về nhà
Tự tin, tự tin
Tự tin vững bước
Việc gì cũng dễ
Qua hết cây cầu
Nhanh nhanh bạn nhé
Chân bước khéo sao
Gánh về, gánh về.
- Trò chơi: “ Bạn hãy làm giống tôi” ( Trò chơi này sử dụng đầu năm
học và các buổi giao lưu với các bạn lớp khác).
+ Mục đích: Tạo cho trẻ nhớ tên nhau 1 cách tự nhiên, phát triển mạnh
dạn tự tin của trẻ đến các hoạt động tập thể.
+ Cách chơi: Cô và trẻ ngồi thành vòng tròn. Trước tiên cô nói tên của
mình sau đó ném bóng cho 1 trẻ bất kì. Trẻ nhận được bóng từ cô sẽ nói tên của
13


mình. Cứ như vậy cho đến khi tất cả các trẻ nhớ tên nhau. Trẻ mạnh dạn đứng
lên nói tên của mình.
Qua các trò chơi vận động tôi thấy trẻ học được rất nhiều kỹ năng như sự

tự tin, cách hợp tác với bạn để hoàn thành công việc, cách xử lí tình huống và tôi
thấy trẻ lớp tôi tự tin, khéo léo hơn rất nhiều.
2.3.7. Biện pháp 7: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh
Đây là hình thức thường làm nhưng lại đạt hiệu quả rất cao trong các hoạt
động. Việc giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón trả trẻ giúp
giáo viên dễ dàng nắm bắt tình hình của trẻ, hiểu được tính cách, hoàn cảnh
sống của trẻ từ đó đề ra các biện pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối
hợp với
với phụ huynh trong việc rèn luyện trẻ đúng phương pháp.
Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, tôi thường trao đổi,
tuyên truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nên đối với trẻ để giúp
trẻ có kỹ năng sống tốt, trẻ có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin trong cuộc
sống. Trẻ luôn bắt chước người lớn và cha mẹ trẻ là những người lớn gần gũi trẻ
nhất. Vì vậy các bậc làm cha làm mẹ đừng vô tình bỏ qua những cơ hội đơn giản
và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những thói quen tốt để rồi sau đó lại
bắt trẻ mất thời gian học lại những điều này ở một nơi khác với những người xa
lạ. Cha mẹ trẻ hãy chú ý giúp trẻ hình thành những kỹ năng sống tốt như kỹ
năng giao tiếp xã hội để tự khám phá, đánh giá bản thân mình và người khác.
VD: Cha hãy mẹ cho phép trẻ vui chơi bày biện đồ chơi theo ý thích của
trẻ, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy để trẻ tự thu
dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Cha mẹ có thể cùng con thu dọn nhưng tuyệt đối
không bao giờ được làm thay trẻ.
Trong các dịp lễ tết cha mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích trẻ tham gia dọn
dẹp trang hoàng nhà cửa, phụ ông bà lau lá để gói bánh chưng, trang trí cây đào,
cây quất, đi chợ tết mua sắm cùng mẹ…Ngoài ra, bố mẹ hãy lựa chọn những
chương trình trên truyền hình phù hợp và bổ ích với bé để cả nhà cùng xem, khi
xem khuyến khích các bé nói lên suy nghĩ cảm xúc của mình về những điều mà
bé vừa được xem.
Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của trẻ
trong điều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem trẻ có tự tin

và tự nhiên khi giao tiếp với mọi người hay không? Trẻ có thích tham gia dã
ngoại hay tham gia các nhóm sinh hoạt không? Trẻ có tự nhiên sáng tạo khi chơi
với đồ chơi không? Trẻ có lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay
không?… để từ đó có biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm.
Ngoài ra tôi còn tuyên truyền với các bậc phụ huynh nên xem cùng con
những chương trình truyền hình có nội dung về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
Ví dụ: Chương trình ‘‘Bố ơi mình đi đâu thế?”
Hay tôi còn tuyên truyền với phụ huynh hãy mua những cuốn sách có nội
dung giáo dục kỹ năng sống để đọc cho trẻ nghe
Ví dụ: - Tự bảo vệ mình - Đừng lạm dụng cháu(Thương hiệu sách thiếu
nhi)
14


Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ mà tôi
thấy trẻ lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin và hầu hết trẻ có kỹ năng sống cần thiết theo
độ tuổi.
2.4: Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua một thời gian thực hiện và theo dõi, tôi nhận thấy những biện pháp
trên rất có hiệu quả, học sinh lớp tôi có chuyển biến rất rõ rệt, đặc biệt trẻ tự tin
và khéo léo hơn. Kết quả đạt được như sau :
1. Về phía trẻ: Sau khi tiến hành những biện pháp trên tôi thấy trẻ đã có
kỹ năng sống cần thiết phù hợp với độ tuổi. Trẻ tham gia vào các hoạt động một
cách tự tin mạnh dạn giúp cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục của cô giáo
đạt kết quả tốt.
- Trẻ có sự chuyển biến rõ nét về việc hình thành các kỹ năng sống: giao
tiếp, hợp tác làm việc theo nhóm, thể hiện tinh thần đồng đội, biết chia sẻ, cư xử
với nhau một cách thân thiện, biết giải quyết vấn đề, giải quyết xung đột,…Và
phát triển những phẩm chất tốt đẹp như: tính kiên trì, tính trung thực, biết
nhường nhịn, biết cư xử đẹp khi thắng thua. Trẻ tự tin tham gia vào các hoạt

động của trường lớp. Điều này chứng minh rằng việc vui chơi bằng các trò chơi,
các hoạt động cho trẻ thực hành trải nghiệm cùng với các phương thức sử dụng
đa dạng, linh hoạt đã giúp trẻ tiếp nhận kỹ năng sống một cách hiệu quả. Trẻ đã
biết chuyển hóa từ hoạt động thành ý thức, từ ý thức thành kỹ năng. Và những
kỹ năng sống đó sẽ phát triển bền vững và theo trẻ đến suốt cuộc đời.
2. Về phía giáo viên: - Giáo viên yên tâm, phấn khởi hơn khi tổ chức các
hoạt động trong ngày mà không cần lo lắng e dè mỗi khi có Ban giám hiệu dự
giờ thăm lớp hay đón đoàn thanh tra kiểm tra hoặc tham gia vào các hoạt động
kỷ niệm ngày hội ngày lễ nào đó.
3. Về phía phụ huynh: – Phụ huynh hưởng ứng, thường xuyên trao đổi
và cùng phối kết hợp với giáo viên để cùng rèn kỹ năng sống cho trẻ và rất tin
tưởng cô giáo bởi họ tự nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình.
– Một số phụ huynh trước đây có sự giáo dục khập khiễng, trống đánh
xuôi kèn thổi ngược, không cho con làm những việc mà giáo viên giao cho trẻ
thực hiện khi về nhà nay đã nhận thức được vấn đề, họ đã rất nhiệt tình phối hợp
và rất yên tâm khi đưa con đến lớp.
Với những kết quả khả quan như vậy tôi thấy mình cần phải phát huy hơn
nữa, nghiên cứu tài liệu và tích cực hơn nữa trong việc tiếp tục giáo dục và rèn
kỹ năng sống cho trẻ để làm tốt nhiệm vụ trồng người của mình.
* Kết quả so sánh đối chứng:
STT

1

Chưa đạt

Cuối năm
Đạt

Chưa đạt


Tỷ lệ trẻ
tăng

Tỉ lệ
%

Số
trẻ

Tỉ lệ
%

Số
trẻ

Tỉ lệ
%

Số
trẻ

Số
trẻ

Tỉ lệ
%

Tính tự tin 19


Tỉ
lệ
%

50%

19

50%

38

100%

0

0%

19

20

53%

18

47%

36


95%

2

5%

16

50
%
42%

Nội dung

2
Kỹ năng
hợp tác

Đầu năm
Đạt
Số
trẻ

15


3
4
5


6

Kỹ
năng
giao tiếp
Kỹ
năng
xử lí tình
huống
Sự tò mò

khả
năng sáng
tạo.
Kỹ
năng
giữ
an
toàn
các
nhân.

22

58%

18

42%


36 95%

2

5%

17

45%

21

55%

35 92%

3

8%

38 100%

0

0%

14 37
%
18 48
%

18 48%

38 100%

0

0%

19 50%

20

19

53%

50%

18

19

47%

50%

3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trẻ em được giáo dục kỹ năng sống tốt thì khả năng thích nghi và thành
công trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc

làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp cho trẻ tự tin, chủ động xử lý
linh hoạt các tình huống trong cuộc sống.
Thực tế, kỹ năng sống của trẻ lứa tuổi mầm non chỉ đơn giản là giao tiếp
tốt, biết vui chơi với bạn, biết xin lỗi hoặc cảm ơn đúng lúc, dễ thích nghi với
môi trường khác nhau….Một đứa trẻ biết chờ đến lượt chơi sẽ là người biết kiên
nhẫn, một đứa trẻ được tập thích nghi với đám đông sẽ trở thành người biết tự
chủ và tự tin sau này. Đó chính là những lợi ích về lâu dài để các bậc phụ huynh
ngày nay quan tâm nhiều hơn đến việc trang bị kỹ năng sống cho con ngay từ
tuổi mầm non. Cũng cần nói thêm rằng trẻ nhỏ chỉ có thể tích luỹ kỹ năng sống
thông qua những trải nghiệm thực tế. Trong mỗi đứa trẻ đều có những tài năng
tiềm ẩn. Sự chuẩn bị kỹ càng từ lúc đầu đời chính là chìa khoá thành công cho
tương lai mỗi cháu. Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non
chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ
là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ. người lớn hãy luôn khuyến
khích trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt động, tự tin vào bản thân. Đồng thời,
khuyến khích trẻ khi tham gia vào trò chơi, cần biết cải tiến, sáng tạo các cách
chơi và cố gắng đạt mục đích, đây chính là những kỹ năng cơ bản để sống và
làm việc sau này. Thường xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một
cách hăng hái bằng nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về những thông tin mà cô
giáo, cha mẹ mới tìm thấy cho trẻ thấy rằng học lúc nào cũng vừa vui, vừa thử
thách.
Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương, khuyến khích những hành
vi, lời nói tốt của trẻ. Các bậc làm cha mẹ, cô giáo, những người lớn cần nhẹ
nhàng, khéo léo khi giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, không nên hạ thấp khả năng
của trẻ, không doạ nạt hay bắt trẻ phải làm những việc quá sức của trẻ. Người
lớn không nên nuông chiều, bao bọc trẻ thái quá, không nên nhồi nhét lượng
kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận từng lứa tuổi của trẻ. Người lớn
cần sử dụng lời nói rõ ràng, câu hỏi gợi mở phối hợp cùng các cử chỉ, điệu bộ
16



phù hợp nhằm khuyến khích trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh, bộc lộ,
chia sẻ những cảm xúc với người khác bằng lời nói và hành động cụ thể.
Với kết quả đạt được của lớp 5 – 6 tuổi trong trường mầm non đã cho
thấy tính khả thi của đề tài, tính hiệu quả của các biện pháp áp dụng nhằm giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài cho thấy để giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo lớn giáo viên phải xác định được mục đích, ý nghĩa và tầm quan
trọng của việc hình thành các kỹ năng sống cho trẻ trong mọi hoạt động.
Ngoài lòng yêu nghề mến trẻ, người giáo viên phải có năng lực sư phạm,
trình độ chuyên môn, biết vận dụng những lý luận vào thực tế và có lòng kiên
trì, kiên nhẫn trong công việc, có sự quan tâm đến đặc điểm của từng cá nhân
trẻ.
Giáo viên cần phải là người có kỹ năng sống tốt và luôn là tấm gương
sáng cho trẻ.
Giáo viên cần tích cực trau dồi, học hỏi, tự bồi dưỡng kiến thức qua sách
báo, phương tiện thông tin đại chúng, internet, qua bạn bè, đồng nghiệp để nâng
cao trình độ chuyên môn, làm phong phú vốn sống và vốn hiểu biết của mình về
nhiều lĩnh vực.
Giáo viên có sự trao đổi tích cực với phụ huynh thông qua: giao tiếp hàng
ngày, bảng tuyên truyền và thông qua các tài liệu trực quan sẽ nâng cao hiệu quả
giáo dục. Phụ huynh ngày càng tin tưởng vào cô giáo, đồng thời cô giáo đã góp
phần tuyên truyền phổ biến kiến thức cho cộng động, vận động cộng đồng cùng
chung tay giáo dục trẻ kỹ năng sống.
3.2: Kiến nghị
* Đối với phòng giáo dục:
- Các cấp lãnh đạo tạo điều kiện tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn tích
hợp nội dung hình thành kỹ năng sống vào những hoạt động học và chơi hàng
ngày của trẻ.
- Phòng giáo dục, tổ chức các tiết kiến tập theo chuyên đề: Giáo dục kỹ

năng sống cho trẻ.
* Đối với nhà trường:
- Bổ sung các tài liệu giáo trình giảng dạy về kỹ năng sống cho trẻ mầm
non đến giáo viên.
- Tổ chức cho giáo viên được tham gia nhiều buổi kiến tập.
- Xây dựng các chuyên đề tích hợp nội dung hình thành kỹ năng sống vào
những hoạt động học và chơi của trẻ.
- Trang bị thêm cho lớp học các phương tiện hiện đại để cho cô và trẻ
được tham gia và khám phá những trò chơi mới, đưa ứng dụng công nghệ thông
tin vào hoạt động nhiều hơn.
* Đối với phụ huynh:
- Cần tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huynh do nhà trường tổ chức để
trực tiếp nắm được tình hình cũng như công việc của nhà trường, của lớp và tình
hình học tập của con em mình.

17


-Thông cảm với nhà trường cũng như với giáo viên trên lớp tạo điều kiện
nâng cao cơ sở vật chất để có hiệu quả và chất lượng hơn trong việc giáo dục
trẻ.
- Làm tốt công tác phối kết hợp với nhà trường, với giáo viên trong việc
dạy trẻ trên lớp cũng như ở nhà.
Trên đây là một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi
trong trường mầm non của tôi đã triển khai thực hiện. Tôi đã áp dụng thành
công ở lớp 5 – 6 tuổi trong trường mầm non và thu được kết quả tốt. Rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, chị em đồng nghiệp để đề
tài này ngày một hoàn thiện hơn, thực hiện tốt hơn trong năm học tiếp theo.
Trên đây là những sáng kiến của bản thân tôi về một số biện pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trong trường mầm non rất mong được sự

góp ý, đánh giá của hội đồng khoa học, các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để đề
tài được áp dụng vào thực tiễn hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

18

Ngày 10 tháng 03 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
NGƯỜI VIẾT SKKN


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tâm lý học trẻ em – Tác giả: Nguyễn Ánh Tuyết – Nguyễn Thị Như Mai –
Đinh Thị kim Thoa
- Giáo trinh tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non - Sở Giáo Dục Đào Tạo
Hà Nội
- Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non - TS. Lê thu
Hương, PGS.TS Lê Thị Ánh Tuyết
- Chương trình giáo dục mầm non - Bộ giáo dục và tạo tạo
- Tự bảo vệ mình (Thương hiệu sách thiếu nhi)
- Nuôi dạy con kiểu Nhật (Nhà sách Vinabook)

19


20



21



×