Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thi hành án hành chính từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.94 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ PHẨM

THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ PHẨM

THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02.

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ VĂN NHIÊM

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu đề tài “Thi hành án hành chính
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả trong luận văn không trùng lắp với các công trình có liên quan đã
được công bố. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn là trung thực.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Phẩm


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành là nhờ Quý thầy cô giáo đã tận tình truyền
đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu tại Học viện Khoa học xã hội. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc
Học viện, Quý thầy cô giáo cùng toàn thể cán bộ, nhân viên của Học viện
Khoa học xã hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm đã trực
tiếp dành nhiều thời gian, công sức hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự
thành phố Hồ Chí Minh và các đồng nghiệp đã quan tâm và tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong việc nghiên cứu hồ sơ liên quan đến đề tài.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong luận văn này không tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế, tôi kính mong Quý thầy cô, những người quan tâm
đến đề tài, đồng nghiệp, có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ để đề tài được
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Phẩm



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH ............................................................................ 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án hành chính .................... 9
1.1.1. Khái niệm thi hành án hành chính .................................................. 9
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án hành chính .......................................... 13
1.1.3. Ý nghĩa của thi hành án hành chính ............................................. 14
1.2. Trình tự, thủ tục thi hành án hành chính .............................................. 16
1.2.1. Tự nguyện thi hành án .................................................................. 16
1.2.2. Yêu cầu ra quyết định buộc thi hành án hành chính .................... 18
1.2.3. Thi hành án hành chính sau khi có quyết định buộc thi hành án
hành chính của Tòa án ............................................................................ 19
1.2.4. Những trường hợp thi hành án hành chính cụ thể ........................ 20
1.3. Trình tự, thủ tục theo dõi thi hành án hành chính ................................ 25
1.3.1. Thẩm quyền theo dõi thi hành án hành chính ............................... 25
1.3.2. Trình tự, thủ tục theo dõi thi hành án hành chính ........................ 26
1.4. Trách nhiệm và xử lý trách nhiệm trong thi hành án hành chính .......... 30
1.4.1. Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong thi hành án
hành chính ............................................................................................... 30
1.4.2. Xử lý trách nhiệm trong thi hành án hành chính .......................... 32
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................................... 35
2.1. Thực tiễn thi hành án hành chính ......................................................... 35
2.1.1. Tổng quan về thành phố Hồ Chí Minh ......................................... 35
2.1.2. Đánh giá chung tình hình thi hành án hành chính tại thành phố
Hồ Chí Minh............................................................................................ 36



2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành án hành chính ... 40
2.2.1. Kết quả thi hành ............................................................................ 40
2.2.2. Những trường hợp thi hành án hành chính .................................. 43
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ THI
HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM ................................................. 58
3.1. Quan điểm đảm bảo hiệu quả thi hành án hành chính ......................... 58
3.1.1. Thi hành án hành chính phải được đặt trong tổng thể chủ trương
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
................................................................................................................. 58
3.1.2. Khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thi hành án hành chính 59
3.2. Giải pháp đảm bảo hiệu quả thi hành án hành chính ........................... 61
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật thi hành án hành chính về nội dung .......... 61
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật thi hành án hành chính về hình thức ......... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT
THADS

Thi hành án dân sự

THAHC

Thi hành án hành chính

THAHS

Thi hành án hình sự


TTHC

Tố tụng hành chính


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng số vụ việc thi hành án hành chính năm 2017 - 2018 ............ 39


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, cơ quan, tổ
chức luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng. Để xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân thì hoạt động giải quyết các khiếu kiện của Nhân dân cần phải
được giải quyết có hiệu quả. Thông qua hoạt động giải quyết các khiếu nại,
khiếu kiện của người dân thì việc giải quyết khiếu kiện tại Tòa án ngày càng
được phát huy. Số lượng vụ án hành chính do Tòa án giải quyết ngày càng
tăng, năm sau cao hơn năm trước. Điều đó buộc các cơ quan hành chính nhà
nước phải nâng cao năng lực quản lý, thận trọng hơn khi ra các quyết định
hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành chính tác động đến các cá nhân,
tổ chức trong xã hội. Thế nhưng việc ban hành ra bản án, quyết định của Tòa
án về việc giải quyết khiếu kiện hành chính chưa phải là mục đích cuối cùng
của người khiếu kiện mong muốn mà là khi bản án, quyết định đó được thi
hành trên thực tế thông qua hoạt động thi hành án hành chính.
Thi hành bản án, quyết định của Tòa án được coi là một phần không thể
thiếu của việc giải quyết vụ án với mục đích cuối cùng là bản án, quyết định
đó được thi hành trong thực tế. Trong đó, THAHC là hoạt động hết sức phức
tạp và nhạy cảm vì người phải thi hành án là cơ quan hành chính nhà nước

hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước. Từ tính
chất đặc thù này mà trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt
quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật về THAHC, không ngừng củng cố, hoàn thiện bộ máy
các cơ quan liên quan đến hoạt động THAHC. Trước đây, việc THAHC chỉ
được quy định duy nhất trong Điều 74 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
1


án hành chính năm 1996. Sau đó, Luật TTHC năm 2010 và Luật TTHC năm
2015 đã quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm quản lý trong
công tác THAHC. Cụ thể hóa Luật TTHC năm 2015, Nghị định số
71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ (Nghị định số 71) đã quy
định cụ thể về thời hạn, trình tự, thủ tục THAHC và xử lý trách nhiệm đối với
người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Đồng thời Nghị định
này cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
THAHC. Nhìn chung, Nghị định số 71 đã tạo cơ sở pháp lý cơ bản góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả cho công tác THAHC ở nước ta.
Tuy nhiên, Luật TTHC năm 2015 cũng như Nghị định số 71 có những
quy định chưa phù hợp, còn nhiều bất cập gây không ít khó khăn trong việc
áp dụng. Thực tiễn công tác THAHC vẫn còn rất nhiều tồn tại và vướng mắc
dẫn đến tình trạng bản án, quyết định của Tòa án không được thi hành hoặc
thi hành không hiệu quả. Điều đó đã gây tâm lý bất an, mất niềm tin của
người dân đối với các cơ quan nhà nước khi mà bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành trên thực tế.
Hiện nay, công tác THAHC đang là vấn đề “nóng” đặt ra cho ngành Tư
pháp. Mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt nhưng kỷ luật, kỷ cương của
các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chấp hành các bản án, quyết định
hành chính có hiệu lực pháp luật còn chưa có chuyển biến rõ rệt. Tình trạng
không chấp hành nghiêm bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính

của một số cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn, điều đó làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, ảnh hưởng đến uy tín của cơ
quan nhà nước, gây bức xúc, khiếu kiện kéo dài của người dân. Từ sự cấp
thiết này, ngày 08/6/2018, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1305/QĐBTP về việc phê duyệt danh mục đặt hàng nhiệm vụ khoa học cấp Bộ, trong

2


đó có đề tài “Thực trạng công tác thi hành án hành chính và định hướng hoàn
thiện pháp luật về thi hành án hành chính ở Việt Nam”.
Từ thực tiễn nêu trên, đòi hỏi phải hoàn thiện một cách hệ thống pháp
luật về THAHC, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả
THAHC ở Việt Nam. Với tình hình như vậy, việc nghiên cứu về công tác
THAHC từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, một địa phương có vị thế lớn
của cả nước sẽ là một đề tài có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn, tác giả
đã chọn đề tài “Thi hành án hành chính từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thi hành án hành chính là một lĩnh vực vẫn còn mới và vô cùng nhạy
cảm, bởi hầu hết người phải thi hành án liên quan đến cơ quan hành chính nhà
nước. Trước đây, việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành
chính được Luật TTHC năm 2010 quy định ở mức độ đôn đốc thi hành án. Từ
khi Luật TTHC năm 2015 ban hành thì THAHC mới thực sự được triển khai
thi hành theo trình tự, thủ tục rõ ràng cụ thể. Tuy nhiên, những văn bản pháp
luật về THAHC vẫn chưa được hoàn thiện, việc áp dụng trên thực tiễn còn
nhiều vướng mắc nên chưa có được hiệu quả cao, cần có những công trình
nghiên cứu khoa học, đánh giá và đề xuất giải pháp hữu ích để nâng cao hiệu
quả THAHC. Cho đến nay, chỉ có một số ít công trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài này như:
Đề tài khoa học cấp Bộ “Kinh nghiệm thi hành án hành chính của các

nước trên thế giới và khả năng áp dụng tại Việt Nam” do Vũ Thị Hằng và
Nguyễn Thị Ngân – Tổng Cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp và một số tác
giả đồng thực hiện. Đề tài nghiên cứu pháp luật về THAHC ở một số nước
trên thế giới như Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Phần
Lan, Vương quốc Thụy Điển, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, từ đó rút ra

3


kinh nghiệm của các nước về THAHC để đề xuất những giải pháp áp dụng tại
Việt Nam.
Chuyên đề “Khái niệm, bản chất, đặc điểm và những điều kiện ảnh
hưởng đến thi hành án hành chính” của Trương Hồng Quang, Viện Khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp. Thông qua khái niệm, bản chất và đặc điểm của
THAHC, chuyên đề đã đề cập đến những điều kiện ảnh hưởng đến công tác
THAHC từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả THAHC.
Chuyên đề “Quy định mới trong thi hành án bản án, quyết định hành
chính” của Võ Công Hoàng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 4-2016.
Chuyên đề đã đưa ra những điểm mới của Luật TTHC năm 2015 so với Luật
TTHC năm 2010 như về thẩm quyền ra quyết định buộc thi hành bản án,
quyết định hành chính của Tòa án hay giao cho cơ quan THADS có trách
nhiệm theo dõi việc THAHC. Tác giả nhận định những điểm mới này sẽ khắc
phục được những vướng mắc, bất cập trong việc THAHC.
Chuyên đề “Bảo đảm thực thi phán quyết của Tòa án hành chính” của
Dương Thị Tươi, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 10-2016. Tác giả đã
chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi phán quyết của Tòa hành chính
và đã có những đề xuất kiến nghị về hoàn thiện pháp luật THAHC và kiện
toàn tổ chức bộ máy quản lý công tác THAHC.
Chuyên đề “Bàn về hoạt động tài phán hành chính ở nước ta hiện nay”
của Trần Minh Đức, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 10-2017. Chuyên

đề nghiên cứu về thực trạng hoạt động tài phán hành chính ở Việt Nam, đồng
thời đặt ra những vấn đề để nâng cao hiệu quả của hoạt động tài phán hành
chính và gắn hoạt động tài phán hành chính là một đặc trưng của Nhà nước
pháp quyền của nước ta hiện nay.
Những nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến THAHC ở nhiều khía cạnh
khác nhau nhưng nhìn chung chủ yếu nghiên cứu về mặt lý luận mà chưa có

4


công trình nào nghiên cứu tổng thể về thực tiễn THAHC. Các công trình
nghiên cứu đã định hướng quan điểm về mặt lý luận để giải quyết vấn đề
trong thực tiễn. Điểm mới của luận văn đã chỉ ra được những bất cập trong lý
luận về THAHC dẫn đến những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn THAHC từ đó
đưa ra những định hướng và giải pháp đảm bảo THAHC ở Việt Nam. Với đề
tài “Thi hành án hành chính từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, tác giả là
người làm công tác thực tiễn liên quan đến THAHC, do vậy việc nghiên cứu
đề tài này có nhiều thuận lợi và phù hợp với tình hình nghiên cứu. Bên cạnh
việc kế thừa những giá trị khoa học của các công trình nghiên cứu, các
chuyên đề đã được công bố trước đây, tác giả mong muốn với việc nghiên
cứu tổng thể về lý luận và thực tiễn sẽ là một công trình nghiên cứu có ý
nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu pháp luật về THAHC, thông qua thực tiễn
THAHC tại thành phố Hồ Chí Minh để từ đó làm rõ những vấn đề lý luận về
THAHC, đánh giá đúng thực trạng thi hành pháp luật về THAHC. Đề xuất
định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về THAHC ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích cơ sở lý luận về THAHC, thông qua đó có những đánh giá về
kết quả đã đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế và vướng mắc trong việc
áp dụng trên thực tế.
Đánh giá đúng đắn về thực trạng THAHC tại thành phố Hồ Chí Minh,
từ đó làm rõ những nguyên nhân của thực trạng đó để xây dựng những giải
pháp và định hướng nâng cao hiệu quả THAHC.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5


4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về THAHC, thực
tiễn THAHC tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung
pháp luật về THAHC. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về THAHC, thực
trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật, những thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân. Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả của THAHC.
Phạm vi về không gian và thời gian: Trong khuôn khổ của luận văn, tác
giả nghiên cứu thực tiễn thi hành các bản án, quyết định thuộc thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh do Cục Thi hành án
dân sự thành phố Hồ Chí Minh theo dõi việc THAHC trong giai đoạn từ năm
2017 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về chính sách pháp luật, về chủ trương đường lối của Đảng
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tham khảo

những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến công tác THAHC.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau
như phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp chứng minh,
phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích và tổng hợp để làm rõ
cơ sở lý luận cũng như việc đánh giá công tác THAHC từ thực tiễn.
Ở chương 1: Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích để
làm rõ các khái niệm, các quy định của pháp luật liên quan đến THAHC. Qua

6


đó, tổng hợp và hệ thống các quy định để đánh giá nhưng những quy định phù
hợp, những vướng mắc gây khó khăn trong công tác THAHC.
Ở chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh
và phân tích để đánh giá tình hình thực tiễn THAHC tại thành phố Hồ Chí
Minh. Những kết quả đạt được cũng như những tồn tại hạn chế, xác định
nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả THAHC.
Ở chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, để đối
chiếu từ cơ sở lý luận, những quy định của pháp luật và từ thực tiễn về
THAHC để đề xuất những giải pháp, những định hướng khắc phục những tồn
tại, hạn chế và nâng cao hiệu quả THAHC trong giai đoạn mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã chỉ ra được những hạn chế, vướng mắc về mặt lý luận và
thực tiễn của hoạt động THAHC, đề xuất được những giải pháp, những định
hướng hoàn thiện pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án
về vụ án hành chính.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác

THAHC, các giải pháp có ý nghĩa trong việc áp dụng trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, luận văn còn có giá trị là tài liệu tham khảo cho những cá
nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu về công tác THAHC.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục viết tắt và mục lục, luận văn được chia thành 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thi hành án hành
chính

7


Chương 2: Thực tiễn thi hành án hành chính tại thành phố Hồ Chí
Minh
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án
hành chính ở Việt Nam.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án hành chính
1.1.1. Khái niệm thi hành án hành chính
Ở nước ta, khái niệm thi hành án hành chính còn tồn tại nhiều cách hiểu
khác nhau. Trên cơ sở nghĩa của từ “thi hành”, “thi hành án” thì hiện nay có
nhiều cách hiểu, nhiều quan điểm khác nhau về “thi hành án hành chính”.
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học Nhà xuất bản Giáo
dục năm 1994 thì nghĩa của từ “thi hành” là làm cho thành hiện thực điều đã

quyết định [20, tr.903]. Từ khái niệm này có thể khái quát “thi hành án” là
việc đưa các bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác ra
thi hành trên thực tế.
Khái niệm “thi hành án” chưa được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật ở nước ta, kể cả trong các văn bản pháp luật chuyên ngành
như Luật THAHS, Luật THADS vẫn chưa đưa ra khái niệm thế nào là “thi
hành án”. Do vậy, dưới nhiều phương diện khác nhau, “thi hành án hành
chính” có nhiều khái niệm khác nhau.
Theo Tập bài giảng Luật TTHC của Trường Đại học Luật thành phố
Hố Chí Minh thì “Thi hành án hành chính là một giai đoạn độc lập, kết thúc
quá trình tố tụng hành chính. Nội dung của giai đoạn này bao gồm tổng thể
các hoạt động mang tính bắt buộc nhằm đưa các kết luận của Tòa án dưới
hình thức bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật vào thực tế” [23, tr.229230].
Theo Giáo trình Luật TTHC của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “Thi
hành bản án, quyết định của Tòa án đối với vụ án hành chính là một giai đoạn
9


tố tụng độc lập, nó kết thúc và đánh giá kết quả Tòa án giải quyết tranh chấp
mà chủ yếu một bên là công dân với một bên là chính quyền trên cơ sở quyết
định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện. Bản án, quyết định đó được
đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật” [22, tr.193-194].
Theo Nghị định số 71 thì “Thi hành án hành chính là việc thi hành bản
án, quyết định của Tòa án hành chính được thi hành quy định tại Điều 309
Luật tố tụng hành chính, trừ quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết
định của Tòa án về vụ án hành chính” [4, Điều 3, khoản 1].
Như vậy, văn bản pháp luật duy nhất có đưa ra khái niệm về “thi hành
án hành chính” là Nghị định số 71. Theo khái niệm này thì việc thi hành
những bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực

pháp luật; bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; quyết định theo thủ tục đặc biệt của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời của Tòa án mặc dù có khiếu nại, kiến nghị mà trong đó có phần
hành chính, được điều chỉnh bởi Luật TTHC thì được xem là THAHC.
Thông thường trong một bản án, quyết định về vụ án hành chính có hai
phần nội dung phải thi hành là phần hành chính và phần tài sản. Trong đó
quyết định về phần tài sản như án phí hành chính, hoàn trả tạm ứng án phí
hành chính, bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên cụ
thể thì được điều chỉnh bởi Luật THADS và được tổ chức thực hiện theo trình
tự, thủ tục của Luật THADS. Còn quyết định về phần hành chính trong bản
án, quyết định của Tòa án như không chấp nhận yêu cầu khởi kiện; hủy toàn
bộ hoặc một phần quyết định hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; hủy quyết định buộc thôi việc; hành vi
hành chính đã thực hiện là trái pháp luật, hành vi không thực hiện nhiệm vụ

10


công vụ là trái pháp luật; buộc sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri, quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ
án hành chính thì được điều chỉnh bởi Luật TTHC. Việc thi hành những bản
án, quyết định trong những trường hợp này được xem là THAHC.
Xung quanh các khái niệm về “thi hành án hành chính” cho thấy mỗi
một khái niệm đưa ra xuất phát từ góc độ khác nhau nhưng nhìn chung chưa
có một khái niệm nào thể hiện rõ nội dung của THAHC. Theo khái niệm của
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh là bao gồm “tổng thể các hoạt
động mang tính bắt buộc”, trong khi đó quy định của Luật TTHC về tự
nguyện thi hành án là cơ bản nhất. Theo khái niệm của Trường Đại học Luật
Hà Nội là “bản án, quyết định đó được đưa ra thi hành theo quy định của pháp

luật”, khái niệm này còn quá trừu tượng chưa xác định đối tượng thi hành án.
Theo Nghị định số 71 thì THAHC không bao gồm phần tài sản trong bản án,
quyết định của Tòa án về vụ án hành chính.
Tóm lại, từ nhận định nêu trên có thể đưa ra khái niệm mang tính khái
quát về “thi hành án hành chính” là việc thi hành quyền và nghĩa vụ trong bản
án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính bao gồm phần tài sản theo quy
định của Luật THADS và phần hành chính theo quy định của Luật TTHC.
Trong luận văn này chỉ nghiên cứu THAHC theo quy định của Luật TTHC
năm 2015.
Trong THAHC, có một số khái niệm được hiểu như sau:
Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức ban hành để quyết định về vấn đề cụ
thể trong hoạt động quản lý hành chính, được áp dụng một lần đối với một
hoặc một số đối tượng cụ thể.

11


Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức
được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải thực hiện hoặc không
thực hiện nhiệm vụ, công vụ, thông thường là hành vi thực hiện các thủ tục
hành chính.
Đương sự bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án.
Trong đó, người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng
quyền lợi trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính. Thông
thường người được thi hành án là cá nhân, người đã khởi kiện. Còn người
phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong
bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính. Người phải thi hành án

trong THAHC chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước, người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước, cán bộ công chức trong các cơ quan nhà nước
hoặc cá nhân, tổ chức khác được ủy quyền trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.
Chậm thi hành án là hành vi cố ý của người phải thi hành án trong thời
gian tự nguyện thi hành án không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án về
vụ án hành chính.
Không chấp hành án là hành vi cố ý của người phải thi hành án khi đã
có quyết định buộc THAHC của Tòa án hoặc từ thời điểm có biên bản yêu
cầu tổ chức thi hành án của Chấp hành viên trong trường hợp người phải thi
hành án không sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri mà họ không chấp hành,
chấp hành không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ hoặc không thực hiện quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án về vụ án hành chính.
Nói đến THAHC còn có một khái niệm gắn liền với nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan THADS là “theo dõi việc thi hành án hành chính”. Khái
niệm này hiện nay cũng chưa được quy định trong các văn bản quy phạm

12


pháp luật ở nước ta, kể cả trong Luật TTHC và Nghị định số 71, nó được sử
dụng như một thuật ngữ. Do vậy, “theo dõi việc thi hành án hành chính” được
hiểu là việc cơ quan THADS chủ động nắm thông tin và cập nhật về tình hình
thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, trên cơ sở đó đề
nghị người phải thi hành án chấp hành nghiêm bản án, quyết định đã có hiệu
lực thi hành, đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền có giải pháp bảo
đảm thực thi bản án, quyết định của Tòa án.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án hành chính
Thi hành án hành chính cũng có những đặc điểm của thi hành án nói
chung đồng thời cũng có những đặc điểm riêng so với các hoạt động thi hành

án khác.
Thứ nhất, đương sự trong THAHC luôn một bên là cơ quan hành chính
nhà nước, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ công chức
trong các cơ quan nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức khác được ủy quyền trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đối tượng của THAHC khác so với
THADS, THAHS. Trong THADS, đối tượng của thi hành án mang tính chất
tài sản và nhân thân. Trong THAHS, đối tượng của thi hành án là hình phạt và
các biện pháp tư pháp. Còn đối tượng của THAHC là các quyết định, hành vi
liên quan đến cơ quan nhà nước, chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước.
Đây là đặc điểm khác biệt nhất của THAHC với THADS và THAHS.
Thứ hai, THAHC mang tính tự nguyện là chủ yếu, trong trường hợp
cần thiết thì áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Tính tự nguyện của THAHC
thể hiện ở các quy định về thời hạn tự nguyện thi hành án. Cưỡng chế trong
THAHC không giống như trong THAHS nhằm răn đe, tước đoạt quyền nhân
thân hoặc thực hiện quyền tài sản như trong THADS. Cưỡng chế trong
THAHC nhằm đảm bảo cho các quyết định hành chính, hành vi hành chính
đúng pháp luật mà lẽ ra phải được thực hiện trước khi có khởi kiện hành

13


chính hoặc hủy bỏ các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp
luật để không cho thi hành trên thực tế.
Thứ ba, THAHC có thể tổ chức thi hành bởi nhiều cơ quan khác nhau,
trong đó cơ quan nào thi hành tùy vào nội dung bản án, quyết định của Tòa án
về giải quyết vụ án hành chính và quy định về tổ chức và hoạt động, chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Các quyết định, hành vi hành
chính bị khởi kiện rất đa dạng nên người có nghĩa vụ THAHC cũng rất đa
dạng, có thể là cơ quan nhà nước hay cá nhân cán bộ, công chức có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước.

Thứ tư, THAHC có tính phức tạp đặc biệt, trong trường hợp Tòa án
quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên bố quyết định hành chính,
hành vi hành chính là trái pháp luật, Tòa án hủy quyết định hành chính hoặc
buộc chấm dứt hành vi hành chính đó và bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn,
lúc này cơ quan ban hành quyết định hành chính trái pháp luật vừa là cơ quan
tổ chức thi hành án vừa là cơ quan phải thi hành án.
1.1.3. Ý nghĩa của thi hành án hành chính
Từ tính chất đặc thù của THAHC luôn có một bên đương sự là “cơ
quan hành chính nhà nước” hoặc “người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước” hoặc “cá nhân, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành
chính nhà nước” với đối tượng phải thi hành là các quyết định hành chính,
hành vi hành chính nên THAHC có nhiều ý nghĩa.
Một là, THAHC thể hiện bản chất nghiêm minh khách quan của pháp
luật và hoạt động áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn quyết định trong việc
hiện thực hóa kết quả của quá trình giải quyết vụ án hành chính trước đó. Các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải trải qua một quá trình
phức tạp không phải chỉ để có bản án, quyết định phù hợp với quy định của
pháp luật mà cuối cùng là để các phán quyết đó được thi hành trên thực tế.

14


Bản án, quyết định của Tòa án khi được thực hiện nghiêm chỉnh góp phần thể
hiện bản chất nghiêm minh của pháp luật và của hoạt động áp dụng pháp luật.
Hai là, THAHC đạt hiệu quả là thể hiện sự công bằng của xã hội,
quyền dân chủ của người dân được đảm bảo. Bản án, quyết định của Tòa án là
một kết quả có ý nghĩa hết sức quan trọng, được xem như thể hiện công lý.
Qua đó, người dân nhận được sự công bằng, lẽ phải mà họ mong muốn. Tuy
nhiên, nếu kết quả đó không được thi hành trên thực tế hoặc thi hành không
nghiêm chỉnh thì hoạt động giải quyết, xét xử của Tòa án cũng chưa đạt được

hiệu quả về mặt thực tế. Điều đó cũng không thể hiện được sự công bằng của
xã hội, quyền dân chủ và những lợi ích hợp pháp của người dân cũng chưa
được đảm bảo.
Ba là, hiệu quả của THAHC có tác động lớn trong việc hình thành tâm
lý pháp luật của người dân về hệ thống pháp luật và hoạt động của bộ máy
nhà nước. Bản án, quyết định của Tòa án quyết định những vấn đề gắn với
người dân, cơ quan nhà nước, nếu việc thi hành án trong trường hợp này
không hiệu quả sẽ gây ra sự bất mãn và làm giảm sút niềm tin của người dân
về sự nghiêm minh của pháp luật. Hiệu quả của THAHC có tác động đến việc
hình thành tâm lý pháp luật của người dân về hệ thống pháp luật và hoạt động
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Nếu THAHC được nghiêm minh thì
người dân càng có niềm tin vào pháp luật và sự bảo vệ của pháp luật đối với
quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Bốn là, thi hành án hành chính góp phần quan trọng vào việc nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, quản lý hành chính. Những
bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính là một trong những yếu tố
định hướng cho các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước
khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Những sai sót trong quản lý nhà nước được
ngăn chặn, được cảnh báo và đề nghị sửa chữa, bên cạnh đó những quyết định

15


hành chính, hành vi hành chính đúng đắn trong quản lý được ủng hộ, từ đó
hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao. Thông qua việc thi hành các bản
án, quyết định hành chính, các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức phải tự
xem xét lại mình, cẩn trọng hơn trong việc ban hành quyết định, thực hiện
hành vi hành chính. Từ đó, nâng cao trách nhiệm thi hành công vụ của cán bộ,
công chức trong cơ quan nhà nước.
Năm là, THAHC hiệu quả là góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ xã

hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Qua đó, giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật, bảo đảm tính ổn định, thông suốt và hiệu lực của nền hành chính
quốc gia.
1.2. Trình tự, thủ tục thi hành án hành chính
1.2.1. Tự nguyện thi hành án
Người phải thi hành án phải thi hành ngay việc lập danh sách cử tri, sửa
đổi, bổ sung danh sách cử tri và quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Trong những trường hợp này, người phải thi hành án không có thời hạn
tự nguyện thi hành án mà phải thực hiện ngay khi nhận được bản án, quyết
định của Tòa án.
Người phải thi hành án có thời hạn tự nguyện thi hành án là 30 ngày kể
từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án đối với những trường hợp
Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện quyết định hành chính, quyết định
kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh, danh sách cử tri; hủy toàn bộ hoặc một phần quyết định hành
chính, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
hủy quyết định kỷ luật buộc thôi việc; hành vi hành chính đã thực hiện là trái
pháp luật; hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ là trái pháp luật.

16


Quy định thời hạn tự nguyện thi hành án là cơ sở quan trọng để xác
định người phải thi hành án đã tự thi hành án hay chậm thi hành án, từ đó có
căn cứ xử lý trách nhiệm trong THAHC. Tuy nhiên, từ quy định của pháp luật
về tự nguyện thi hành án cho thấy THAHC thực hiện theo cơ chế tự thi hành
của người phải thi hành án, người phải thi hành án tự mình chấp hành các
nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án mà không có sự tham gia của chủ
thể khác được giao trách nhiệm tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa

án như cơ chế thi hành án theo Luật THADS.
Hết thời hạn tự nguyện thi hành án, cơ quan phải thi hành án phải thông
báo bằng văn bản tình hình, kết quả thi hành án cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm,
Viện kiểm sát và cơ quan THADS cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm,
đồng thời báo cáo cho cơ quan cấp trên trực tiếp trong thời hạn 03 ngày làm
việc, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án [4, Điều 10, khoản 2].
Tuy nhiên, quy định quá chi tiết thời hạn thông báo làm cho cơ quan
phải thi hành án rơi vào trạng thái bị động. Khi cơ quan phải thi hành án đã
thi hành án trong thời hạn tự nguyện nhưng phải chờ đến hết thời hạn tự
nguyện mới thông báo về kết quả thi hành án mà cơ quan đó đã thực hiện.
Điều này đã không tạo sự khuyến khích, chủ động trong việc thi hành án của
cơ quan phải thi hành án. Bởi lẽ, việc thi hành án ngay khi nhận được bản án,
quyết định của Tòa án cũng giống như thời điểm thi hành án vào ngày cuối
cùng của thời hạn tự nguyện. Do vậy, cần có sự điều chỉnh, bổ sung quy định
về thời hạn thông báo tình hình, kết quả thi hành án mang tính kịp thời và
phát huy tính chủ động của người phải thi hành án.
Trách nhiệm phải thông báo tình hình, kết quả thi hành án chỉ áp dụng
đối với người phải thi hành án là “cơ quan phải thi hành án”, còn trong trường
hợp người phải thi hành án là cá nhân thì không có quy định về trách nhiệm
phải thông báo. Đối với trường hợp người phải thi hành án là cá nhân nếu họ

17


×