Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Đối tượng chứng minh trong vụ án giết người từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỨA THỊ THẢO

ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TP. HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỨA THỊ THẢO

ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TP. HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

HÀ NỘI – 2018



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỐI TƯỢNG CHỨNG
MINH TRONG VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI ....................................................... 7
1.1 Khái niệm, vai trò của đối tượng chứng minh trong vụ án giết người. ........
.......................................................................................................................... 7
1.2 Đối tượng chứng minh trong vụ án giết người ....................................... 17
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI TƯỢNG CHỨNG
MINH TRONG VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................... 36
2.1 Quy định của pháp luật về đối tượng chứng minh trong vụ án giết người
......................................................................................................................... 36
2.2 Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về đối tượng chứng minh
trong vụ án giết người tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh .............48
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM, XÁC
ĐỊNH ĐÚNG, ĐẦY ĐỦ ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN
GIẾT NGƯỜI ............................................................................................... 58
3.1 Các yêu cầu bảo đảm xác định đúng, đầy đủ đối tượng chứng minh trong
vụ án giết người .............................................................................................. 58
3.2 Các giải pháp bảo đảm xác định đúng, đầy đủ đối tượng chứng minh trong
vụ án giết người .............................................................................................. 62
KẾT LUẬN ................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS


: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng Hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

HSST

: Hình sự sơ thẩm

TAND

: Tòa án nhân dân

TPHCM

: Thành phố Hồ Chí Minh

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tỷ lệ giữa số vụ án giết người bị khởi tố và số vụ án giết người bị xét xử

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017............................49
Bảng 3.2: So sánh tội giết người theo quy định của BLHS năm 1999 và Bộ luật hình
sự năm 2015..............................................................................................................64


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đến nay, chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đời sống của
nhân dân ngày một nâng cao. Bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng có nhiều
vấn đề tiêu cực nảy sinh như: dân số, việc làm, các tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm
nói chung trong đó có tội phạm giết người.
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian gần đây cũng có sự diễn
biến phức tạp của tình hình tội phạm nói chung và đặc biệt là tội Giết người nói
riêng. Nhiều vụ án giết người mang tính chất côn đồ, man rợ, rúng động dư luận,
gây ảnh hưởng tâm lý và đời sống của người dân.
Do vậy, nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đặt ra
ngày càng bức thiết. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biết đối với tội
giết người, việc xác định đúng đối tượng chứng minh và chứng minh đầy đủ nó
không những đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn mà còn rút ngắn
được thời gian, giảm chi phí, góp phần nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng
chống tội phạm, tránh oan sai, thiệt hại...
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy do không xác định đối tượng chứng minh
của vụ án một cách chính xác nên dẫn đến nhiều vụ án phải điều tra đi điều tra lại,
dẫn đến việc giải quyết vụ án nhiều sai sót, làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm.
Đối với vụ án giết người thì việc không xác định được đối tượng chứng minh hoặc
xác định sai đối tượng của vụ án lại càng gây ra nhiều hệ lụy khó khắc phục được,
bởi tội phạm thuộc tội này luôn ở khung hình phạt cao nhất (chung thân, tử hình,..)
nên việc khắc phục hậu quả hoặc nhận ra sai sót của quá trình tố tụng khi bị cáo đã
chấp hành án xong (tử hình,..) thì gần như không thể.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như: quy định của pháp luật
TTHS về đối tượng chứng minh còn nhiều bất cập, việc xác định chứng cứ cũng
nhiều mâu thuẫn... Nên việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và
thực tiễn về đối tượng chứng minh trong vụ án giết người, đánh giá thực trạng về

1


đối tượng chứng minh tại thành phố Hồ Chí Mịnh để từ đó đề ra giải pháp hoàn
thiện về mặt lập pháp và giải quyết nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong giải quyết
vụ án giết người là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, mang tính cấp thiết, góp phần
nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự. Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài
“Đối tượng chứng minh trong vụ án giết người từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh” làm luận văn thạc sỹ luật học về chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình
sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua, vấn đề đối tượng chứng minh trong vụ án giết
người đã được đề cập đến trong nhiều công trình khoa học, các bài biết tạp chí, bài
nghiên cứu như:
''Điều tra các vụ án giết người chưa rõ thủ phạm ở Việt Nam hiện nay''
của tác giả Triệu Quốc Kế, Nxb: Công an nhân dân, 1998, Hà Nội. Tác giả nghiên
cứu Thực trạng về tội phạm giết người và công tác điều tra án giết người ở Việt
Nam. Phương pháp điều tra, các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác
điều tra và phòng ngừa tội phạm giết người ở Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ về đề tài Hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ
trong điều tra vụ án giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt nam từ thực tiễn
thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Huỳnh Tấn Hải - bảo vệ năm 2012.
Luận án Tiến sỹ Luật học về đề tài “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng
cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương –
bảo vệ năm 2000.

Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội năm
2000.
Trong khóa luận tốt nghiệp Cử nhân luật học về đề tài: “ Chứng minh
trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Thế Lực – K41B – Khoa Luật –
Đại học QGHN.
Trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật học về đề tài: “Đối tượng chứng
minh và phương tiện chứng minh trong vụ án giết người” của tác giả Nguyễn Văn

2


Hoan – K41C – Khoa luật – ĐHQG Hà Nội.
Các công trình trên đã có nhiều đóng góp, có đề cập đến: đối tượng chứng
minh, khái niệm đối tượng chứng minh và phân loại đối tượng chứng minh, những
vấn đề cần phải chứng minh trong TTHS Việt Nam. Nhưng đây không phải là đối
tượng nghiên cứu chính của luận văn, nên tác giả cũng chỉ giải quyết vấn đề một
cách khái quát chung và làm rõ mối quan hệ của nó với các vấn đề khác trong luận
văn để từ đó nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề chính của
luận văn
Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong
vụ án giết người theo Luật Hình sự và tố tụng hình sự hiện hành, đặc biệt là đi sâu
vào nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn ... trên một địa bàn cụ thể như đối tượng
chứng minh trong vụ án giết người từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đề tài “đối tượng chứng minh trong vụ
án giết người từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” với một cái nhìn xuyên suốt từ
lý luận và thông qua thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh để có những kiến nghị, giải
pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTHS nước ta về

đối tượng chứng minh trong vụ án giết người.
Đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự tập trung là
giai đoạn xét xử trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh liên quan đến đối tượng chứng
minh, tìm ra những điểm còn tồn tại từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn
thiện mặt lập pháp có liên quan đến đối tượng chứng minh và nâng cao hiệu quả áp
dụng nó trong thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình
sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu, cần giải quyết
những vấn đề sau:

3




Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đối tượng chứng minh trong vụ

án giết người;


Đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự liên quan tập

trung giai đoạn xét xử sơ thẩm đến đối tượng chứng minh trong vụ án giết người tại
thành phố Hồ Chí Minh;


Đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của luật TTHS Việt Nam về đối

tượng chứng minh trong vụ án giết người và giải pháp nâng cao hiệu quả thực tiễn

áp dụng những quy định đó của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài được tập trung nghiên cứu làm rõ một cách cơ bản và toàn diện
những vấn đề lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự cụ
thể là tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đánh giá thực trạng hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh liên
quan đến đối tượng chứng minh.
4. 2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi nghiên cứu: được giới hạn đối tượng chứng minh trong vụ án Giết
người trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam.
+ Không gian: trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .
+ Thời gian: Thực tiễn xác định đối tượng chứng minh trong các vụ án về tội
giết người trong năm năm (từ năm 2013-2017).
Đề tài: “Đối tượng chứng minh trong vụ án giết người từ thực tiễn Thành
phố Hồ chí Minh” được nghiên cứu dưới góc độ của Luật hình sự và tố tụng hình
sự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
4


Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như quy nạp, diễn dịch,
phân tích, so sánh, đánh giá, điều tra, khảo sát, tổng hợp, thống kê... để thực hiện
luận văn. Có thể có nhiều phương pháp khác nhau, nhưng trong đó có những
phương pháp quan trọng như sau:
+ Phương pháp phân tích: Là việc làm rõ chi tiết các vấn đề có liên quan đến

hoạt động chứng minh, đối tượng chứng minh; từ đó có thể xác định được đối tượng
chứng minh trong vụ án giết người. Các nội dung cần phân tích bao gồm: Chứng
cứ, các phạm trù chứng minh, đối tượng và phạm vi chứng minh, giới hạn chứng
minh, nghĩa vụ chứng minh, cơ sở khoa học, cơ sở phương pháp luận và cơ sở pháp
lý của việc thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự.
+ Phương pháp tổng hợp: Đó là việc khái quát toàn bộ các nhận định độc lập
sau khi phân tích. Phương pháp tổng hợp giúp cho quá trình đánh giá tránh khỏi sự
thiếu trọng tâm. Các nội dung tổng hợp được đặt trong một hệ thống có mối liên hệ
qua lại.
+ Phương pháp thống kê: Nguồn của thống kê được lấy từ cơ quan có thẩm
quyền trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về luật hình sự, tố tụng
hình sự về đối tượng chứng minh đối với tội Giết người. Luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên trong các trường Đại học, Học
viện chuyên về Luật.
Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận chung về đối tượng
chứng minh trong vụ án giết người.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn cũng cung cấp thông tin hữu ích cho việc nghiên cứu thực tiễn:
chứng cứ, các phạm trù chứng minh, đối tượng, phạm vi chứng minh, giới hạn

5


chứng minh, nghĩa vụ chứng minh,...nhằm định tội danh và quyết định hình phạt tội
Giết người trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Phát hiện những điểm còn bất cập trong luật TTHS Việt Nam về đối

tượng chứng minh. Những thiếu sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan
THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh trong vụ án giết
người, tìm ra những nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó. Đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện những quy định của luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng
minh trong vụ án giết người và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của luật
TTHS về đối tượng chứng minh. Có giá trị trong việc nghiên cứu tiếp tục hoàn
thiện pháp luật Tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đối tượng chứng minh trong vụ án giết
người.
Chương 2: Quy định của pháp luật về đối tượng chứng minh trong vụ án
giết người và thực tiễn thi hành tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm xác định đúng, đầy đủ đối
tượng chứng minh trong vụ án giết người.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ
ÁN GIẾT NGƯỜI
1.1 Khái niệm, vai trò của đối tượng chứng minh trong vụ án giết người.
1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt, đối tượng là người, vật, hiện tượng mà con
người tác động tới. Chứng minh là làm sáng tỏ sự thật khách quan vụ án hình sự để
giải quyết vụ án một cách đúng đắn. Từ điển Tiếng Việt có giải thích: “…Chứng
minh là việc dùng suy luận logic vạch rõ điều gì là đúng”. Hoạt động chứng minh là
hoạt động của những chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự trên cơ sở các

quy định của bộ luật tố tụng hình sự nhằm làm rõ những vấn đề cần phải chứng
minh bằng hệ thống chứng cứ (bao gồm hoạt động tư duy (kiểm tra, đánh giá) và
hoạt động thực tiễn pháp lý (thu thập chứng cứ bằng biện pháp điều tra). Quá trình
giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn như: giai đoạn khởi tố; giai đoạn
điều tra và truy tố; xét xử… Mỗi giai đoạn có nhiệm vụ và định hướng khác nhau
nhưng đều hướng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, toàn diện đúng quy
định của pháp luật và do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Để giải quyết vụ
án hình sự thì vấn đề mang tính tất yếu và được pháp luật tố tụng hình sự quy định
là: các cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành chứng minh để làm rõ, khôi phục lại
toàn bộ sự thật khách quan của vụ án và làm sáng tỏ những vấn đề khác có liên
quan đến vụ án.
Hoạt động chứng minh được sử dụng trong rất nhiều các lĩnh vực của đời
sống xã hội trong đó có lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự. Hoạt động chứng minh
trong tố tụng hình sự chính là quá trình nhận thức làm sáng tỏ nội dung của vụ án và
các tình tiết có liên quan đến vụ án. Mục đích của hoạt động chứng minh trong tố
tụng hình sự là để phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Như vậy, trong vụ án hình sự tất cả các tình tiết, những vấn đề cần được
làm sáng tỏ, cần phải chứng minh, để làm rõ nội dung và bản chất vụ án hình sự để

7


xác định sự thật khách quan, đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan,
toàn diện vụ án hình sự tạo nên đối tượng chứng minh.
Đối tượng chứng minh được xác định là cơ sở của trách nhiệm hình sự, đó
là sự việc phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có
liên quan đến vụ án. Những vấn đề đó cần được các cơ quan tiến hành tố tụng làm
rõ để xác định bản chất vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về đối
tượng chứng minh tại Điều 63 như sau: Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh:


1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết
khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay
vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can,
bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Tìm hiểu các quy định về chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003, ta thấy, Bộ luật chỉ liệt kê ra các vấn đề cần phải chứng minh
trong vụ án hình sự mà không đưa ra khái niệm cụ thể về đối tượng chứng minh.
Tuy nhiên, khái niệm này đã được đưa ra trong một số nghiên cứu, cụ thể:
Trong giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội
đã đưa ra khái niệm về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự, theo đó thì: “Đối
tượng chứng minh là tất cả các tình tiết phải được xác định đảm bảo cho việc giải
quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án hình sự”. Phân tích khái niệm trên đây
ta thấy, về cơ bản khái niệm đã chỉ ra được nội dung chủ yếu là “tất cả các tình tiết
phải được xác định đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ
án hình sự”.
Trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học “Đối tượng chứng minh và
phương tiện chứng minh trong vụ án hình sự về tội giết người” của tác giả Nguyễn
Văn Hoan có đưa ra khái niệm: “Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tổng
8


hợp tất cả những tình tiết thực tế phản ánh bản chất của sự việc liên quan đến tội
phạm và người phạm tội, những tình tiết khác giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ

án hình sự”.
Từ những phân tích trên đối tượng chứng minh trong vụ án giết người là
tất cả các sự kiện, tình tiết của vụ án cần phải được làm rõ bằng chứng cứ, để kết
luận có đủ các yếu tố của tội giết người hay không, đường lối xử lý và giải quyết
các vấn đề khác liên quan trong vụ án đúng pháp luật.
1.1.2 Vai trò của việc xác định đúng đối tượng chứng minh trong vụ án giết
người
Việc xác định đúng và đầy đủ đối tượng chứng minh trong vụ án giết
người có vai trò rất quan trọng.
Thứ nhất, đầu tiên và tổng thể nhất là xác định các yếu tố cấu thành tội phạm của
tội giết người.
Đối tượng tác động của tội giết người: Tội giết người xâm phạm quyền sống của
con người, quyền được sống là một trong các quyền về nhân thân của con người,
đây là quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất của con người, bất kỳ một người
nào khi sinh ra không phân biệt giai cấp, quốc gia, dân tộc đều có quyền sống, đây
là quyền mà tất cả nhân loại tiến bộ trên thế giới đều công nhận. Con người đang
sống là đối tượng tác động của tội giết người, trừ trường hợp người phạm tội có sự
sai lầm về đối tượng tác động, quyền sống của con người là khách thể của tội giết
người nói chung.
Mặt khách quan của tội giết người: Mặt khách quan của tội giết người là những
biểu hiện của tội giết người diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, bao
gồm: Hành vi khách quan của tội giết người, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội
giết người và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan của tội phạm với hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
Mặt khách quan của tội giết người được thể hiện bằng hành vi tước đoạt tính
mạng của người khác một cách trái pháp luật.

9



Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được hiểu là hành vi có khả
năng gây ra cái chết cho con người. Những hành vi không chứa đựng khả năng này
không thể coi là hành vi khách quan của tội giết người. Hành vi có thể gây ra cái
chết cho con người có thể được thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành
động phạm tội.
Hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan gây
thiệt hại cho khách thể của tội phạm, quyền sống của con người, thông qua việc chủ
thể làm một việc mà pháp luật cấm. Không hành động phạm tội giết người là hình
thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác
động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm, quyền sống của con
người, thông qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu mặc dù có
đủ điều kiện để làm.
Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được coi là hành vi khách
quan của tội giết người phải là hành vi tước đoạt một cách trái pháp luật. Hành vi
tước đoạt tính mạng của chính mình không được coi là hành vi khách quan của tội
giết người hoặc hành vi gây ra cái chết cho người khác được pháp luật cho phép
cũng không phải là hành vi khách quan của tội giết người, như: Phòng vệ chính
đáng, thi hành bản án tử hình… Trường hợp tước đoạt tính mạng của người khác do
chính nạn nhân yêu cầu dù với bất kỳ động cơ nào cũng bị coi là trái pháp luật hình
sự Việt Nam.
Hậu quả của tội giết người: Tội giết người có cấu thành tội phạm vật chất. Đối
với tội giết người, thời điểm được xem là tội phạm hoàn thành là khi hậu quả chết
người xảy ra. Thông thường, các vụ án giết người xảy ra thì hậu quả trực tiếp làm
chết người trong trường hợp tội phạm hoàn thành. Nhưng cũng có trường hợp người
bị hại chỉ bị thương, bị cố tật, thậm chí không bị ảnh hưởng gì từ hành vi giết người,
đó là các trường hợp như nạn nhân bị đầu độc bằng thuốc giả, bị bắn súng nhưng
không bị bắn trúng… Những trường hợp này được xem là phạm tội chưa đạt đã
hoàn thành.

10



Hậu quả của tội giết người chính là thiệt hại do hành vi giết người gây ra
cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và quyền sống của con người, thiệt hại
này được biểu hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất, hậu quả là chết người.
Mối quan hệ nhân quả trong tội giết người: Ở tội giết người, việc xác định chính
xác nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người sẽ giúp cho các CQĐT chứng minh
được có tội phạm giết người xảy ra hay không, người nào là người thực hiện hành
vi dẫn đến hậu quả chết người đó. Từ thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm
trong những năm gần đây cho thấy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm
giết người đã có không ít những trường hợp xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm do
không xác định đúng mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan với hậu quả
nguy hiểm cho xã hội.
Mặt chủ quan của tội giết người: Khi nói đến mặt chủ quan của tội giết người,
tức là chúng ta muốn nói đến diễn biến tâm lý bên trong của chính người phạm tội
đó có lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Trong các dấu hiệu về lỗi, động cơ, mục
đích thì dấu hiệu lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mặt chủ quan của tội phạm
này.
Lỗi của người phạm tội giết người là thái độ tâm lý của người đó với hành
vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật và đối với hậu quả
chết người do hành vi của họ gây nên, được biểu hiện dưới hình thức cố ý trực tiếp
hoặc cố ý gián tiếp.
Trong tội giết người thì hậu quả chết người là lỗi cố ý trực tiếp do tội
phạm gây ra với mong muốn của chủ thể, còn trong các tội khác như cố ý gây
thương tích, hiếp dâm, cướp tài sản…thì hậu quả chết người chỉ là lỗi do vô ý
(không thấy trước hậu quả chết người hoặc tuy thấy trước hậu quả chết người,
nhưng có ý thức loại trừ hậu quả xảy ra). Trong thực tiễn, nếu không xác định đúng
lỗi của người phạm tội ngay từ đầu, sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm, xử lý oan sai, từ đó
gây ra các hiện tượng tiêu cực trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, làm giảm hiệu
quả đấu tranh trong công cuộc phòng chống tội phạm.


11


Chủ thể của tội giết người: Chủ thể của tội giết người là một con người cụ thể có
đủ điều kiện để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Theo khoản 1
Điều 13 BLHS, nếu người thực hiện hành vi giết người trong khi đang mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 12, khoản 3 Điều 8 và Điều 93 BLHS
năm 1999 thì chủ thể của tội giết người là những người từ đủ 14 tuổi trở lên có đủ
năng lực TNHS.
Như vậy, việc nghiên cứu và nhận thức đúng đắn về khái niệm và các dấu
hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm giết người là cơ sở giúp cho các cơ quan THTT
nói chung và CQĐT nói riêng xác định được một hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy
ra trong thực tế có cấu thành tội phạm giết người hay không, nhằm nâng cao hiệu
quả công tác điều tra khám phá tội phạm. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động thu nhập, đánh giá, sử dụng chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm
tội được chính xác trong điều tra vụ án giết người.
Thứ hai, bảo đảm có đường lối xử lý đúng đắn. Khi xác định có tội thì
thuộc khoản 1 hay khoản 2 điều 93 BLHS 1999 (Điều 123 BLHS 2015), các tình
tiết tăng nặng giảm nhẹ để quyết định hình phạt đúng. (Theo Điều 93 Luật quy định
về tội giết người).
Điều luật quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định
của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Như vậy, theo quy định của Điều 45 Bộ luật Hình sự thì những căn
cứ có tính bắt buộc do Bộ luật quy định mà Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh để
quyết định hình phạt là :
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự:

Theo Luật hình sự Việt Nam thì nội dung các quy định của Bội luật Hình sự mà
Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh khi quyết định hình phạt gồm:

12


-

Các quy định có tính nguyên tắc về tội phạm và hình phạt trong Phần

chung của Bộ luật Hình sự.
-

Điều luật quy định hình phạt đối với tội phạm cụ thể trong Phần các tội

phạm của Bộ luật Hình sự.
Trước khi quyết định hình phạt, Tòa án phải xác định xem bị cáo bị xét xử về
tội gì và trên cơ sở điều khoản nào của Bộ luật Hình sự. Sau khi định tội, Tòa án quyết
định hình phạt đối với người phạm tội và việc quyết định hình phạt phải căn cứ vào các
quy định của Phần chung Bộ luật hình sự như “nguyên tắc xử lý” (Điều 3 Bộ luật Hình
sự), vấn đề chuẩn bị phạm tội (Điều 17 Bộ luật Hình sự), phạm tội chưa đạt, (Điều 18
Bộ luật Hình sự), vấn đề đồng phạm (Điều 20 Bộ luật Hình sự).
Ngoài một số quy định đã nói trên, còn có các quy định khác có tính nguyên tắc của
Phần chung Bộ luật Hình sự mà Tòa án cũng phải xem xét. Đó là mục đích hình phạt
(Điều 27 Bộ luật Hình sự), nội dung, phạm vi và điều kiện của từng loại hình phạt (các
điều từ 29 đến Điều 40 của Bộ luật Hình sự).
Tuân thủ nghiêm chỉnh Điều luật quy định mức hình phạt đối với tội phạm cụ thể
trong Phần các tội phạm có ý nghĩa rất lớn khi quyết định hình phạt. Bởi lẽ, Tòa án chỉ
được phép quyết định hình phạt trong phạm vi chế tài mà Điều luật đã quy định cho tội
mà bị cáo đã phạm.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm:
Thực tiễn xét xử cho thấy, khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm đã thực hiện, Tòa án cần xem xét các yếu tố sau:
-

Hành vi (hành động hay không hành động) nguy hiểm cho xã hội đã thực

hiện;
-

Tội phạm được thực hiện dưới hình thức gì (một người đồng phạm hay tội

phạm có tổ chức);
-

Giai đoạn thực hiện tội phạm (chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt hay

tội phạm hoàn thành);
-

Thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh, địa điểm, thời gian phạm tội..

-

Hậu quả thiệt hại;

13


-


Hình thức lỗi, mức độ lỗi, mục đích, động cơ phạm tội…

Xem xét nhân thân người phạm tội:
Theo Luật hình sự Việt Nam, những đặc điểm về nhân thân có ảnh hưởng trực
tiếp đến tội phạm được coi là những đặc điểm mang tính chất pháp lý và được quy định
là những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trong hình phạt (như phạm tội lần đầu hay
đã có tiền án, tiền sự, tái phạm hay tái phạm nguy hiểm, có tính chất chuyên nghiệp
hay không; là người chưa thành niên hay là người đã thành niên; có thái độ ăn năn hối
cải, lập công chuộc tội hay là ngoan cố không chịu cải tạo…)
Những đặc điểm khác tuy không mang tính chất pháp lý cũng phải được xem xét
một cách toàn diện, nếu chúng có tính chất bền vững nói lên bản chất của người phạm
tội và có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội. Trong đó phải chú ý đến những
đặc điểm có quan hệ đến ý thức chính trị, ý thức lao động, trình độ nhận thức, hiểu biết
của người phạm tội (như thành phần, quá trình hoạt động chính trị - xã hội, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp...) hoặc những đặc điểm có quan hệ đến các đối tượng của chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước (như người phạm tội thuộc dân tộc ít người; thuộc gia đình
liệt sĩ, là nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, là chức sắc tôn giáo…)
Ngoài ra còn có một số đặc điểm, tuy phản ánh hoàn cảnh thực tế của người phạm
tội, nhưng nhiều khi có ý nghĩa quan trọng ( như họ đang bị bệnh hiểm nghèo, là người
già yếu, là phụ nữ có thai hoặc con nhỏ, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của bản thân hoặc
của gia đình…)
Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Khi quyết định hình phạt thì Tòa án phải cân nhắc đồng thời cả hai loại tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết làm cho
các trường hợp phạm tội cụ thể của một tội phạm khác nhau về mức độ nguy hiểm. Các
tình tiết này không có tính chất bắt buộc như những tình tiết định tội và định khung mà
chỉ có ý nghĩa khi quyết định hình phạt, có tác dụng làm tăng hoặc giảm hình phạt
trong phạm vi một khung hình phạt nhất định. Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách

nhiệm hình sự không được ghi trong các điều khoản của Phần các tội phạm của Bộ luật

14


Hình sự như các tình tiết định tội hoặc xác định khung nhưng được quy định tại các
Điều của Phần chung Bộ luật Hình sự (Điều 46 và Điều 48 Bộ luật Hình sự).
Thứ ba, loại trừ nguyên nhân, điều kiện tội giết người (có biện pháp phòng ngừa có
hiệu quả):
Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu của tội giết người là những nhân tố đóng vai trò
chủ chốt trong việc làm phát sinh tội giết người và những nhân tố này chiếm tỉ lệ đáng
kể.
Nguyên nhân và điều kiện thứ yếu làm phát sinh tình hình tội giết người là những
nhân tố chỉ đóng vai trò hạn chế và chiếm tỉ lệ không đáng kể.
Nguyên nhân và điều kiện của tội giết người bắt nguồn từ môi trường sống và điều
kiện xuất phát từ phía người phạm tội. Cụ thể:
- Nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống như là các nhân tố: môi
trường gia đình không hoàn thiện như gia đình có ba mẹ ly hôn; môi trường giáo dục
không tốt; môi trường sống, môi trường làm việc, môi trường giải trí không lành
mạnh, tiêu cực, có nhiều tệ nạn xã hội…
- Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội như thuộc về sinh học,
tâm lý, xã hội, nghề nghiệp… của người phạm tội.
- Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế – xã hội. Đây là những nhân tố thuộc về lĩnh
vực kinh tế – xã hội có thể tác động làm phát sinh tình hình tội giết người như thất
nghiệp, nghèo đói, quá trình đô thị và công nghiệp hóa...
-

Nguyên nhân và điều kiện về văn hóa, giáo dục. Đây là những nhân tố hạn

chế trong quá trình quản lý, triển khai thực hiện các chính sách, chương trình về văn

hóa, giáo dục có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội giết người.
-

Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức, quản lý. Đây là những thiếu sót, bất

cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý trong những
lĩnh vực nhất định. Chủ yếu như: quản lý yếu kém, buông lỏng quản lý, kém trách
nhiệm, kém ý thức...

15


-

Nguyên nhân và điều kiện về yếu kém trong phát hiện và xử lý tội phạm.

Việc chậm trễ giải quyết những bức xúc xã hội hoặc xử lý chưa nghiêm, chưa thỏa
đáng, chưa kiên quyết triệt để trong đấu tranh đối với tội phạm giết người thông qua
một số vụ án xảy ra, chưa làm tròn trách nhiệm trong việc bảo vệ sự bình yên của
người dân đã dẫn đến tình trạng một số đối tượng coi thường pháp luật, coi thường
tính mạng người khác, xem thường trật tự xã hội cũng là một trong những điều kiện
dẫn đến nguyên nhân tình hình tội giết người.
Tóm lại, nguyên nhân và điều kiện của tội giết người là sự tác động qua lại
giữa các yếu tố khách quan của môi trường sống với các yếu tố chủ quan thuộc về cá
nhân người phạm tội. Cơ chế tác động của các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách
quan vô cùng phức tạp. Tuy nhiên, từ việc xác định đúng đối tượng chứng minh trong
vụ án giết người, ta xác định được nguyên nhân, điều kiện tội giết người từ đó có biện
pháp phòng ngừa hiệu quả.
Thứ tư, bảo đảm giải quyết vụ án toàn diện, xử lý vật chứng, bồi thường,...

Khi giải quyết vụ án giết người, ngoài việc định tội danh, quyết định hình
phạt (gồm hình phạt chính, hình phạt bổ sung), nguyên nhân điều kiện phạm tội,...một
trong những vấn đề cũng vô cùng quan trọng đó là việc xem xét, giải quyết về vấn đề
dân sự trong vụ án giết người, áp dụng biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng. Do quy
định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự về các vấn đề này chưa đầy đủ và
một số quy định về biện pháp tư pháp liên quan đến trách nhiệm bồi thường có sự
tương đồng với quy định về vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và việc áp dụng biện
pháp tư pháp về xử lý tài sản trong vụ án hình sự còn có nhiều điểm tương đồng với
quy định về xử lý vật chứng nên chưa có áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Nên việc
xác định đúng đối tượng chứng minh trong vụ án giết người nhằm bảo đảm giải quyết
vụ án được toàn diện, xử lý vật chứng, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án giết người
một cách triệt để.
Biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, vấn đề dân sự trong vụ án giết người là
những nội dung luôn được áp dụng khi giải quyết vụ án giết người. Tuy nhiên, do chưa
chú trọng đúng mức và quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự liên

16


quan đến các quy định này chưa chặt chẽ nên chưa có cách hiểu, áp dụng thống nhất.
Tuy nhiên, nếu xác định đúng đối tượng chứng minh thì chúng ta sẽ có cách nhìn bao
quát trong việc áp dụng biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, vấn đề dân sự trong vụ án
giết người nhằm hạn chế sai sót cũng như hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự,
pháp luật tố tụng hình sự có liên quan, bảo đảm giải quyết vụ án toàn diện.
1.2 Đối tượng chứng minh trong vụ án giết người
1.2.1 Đối tượng chứng minh xác định khách thể và mặt khách quan của tội giết
người
Khách thể của tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền sống của
con người. Tội Giết người xâm phạm quyền sống của con người. Việc xác định đối
tượng tác động của tội Giết người có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi vì, nếu hành vi

nào đó tác động vào đối tượng không phải hay chưa phải là con người hoặc là con
người nhưng đã chết thì những hành vi đó không xâm phạm đến quyền sống của con
người nên không phải là tội Giết người. Thực tiễn xét xử tội Giết người ở Việt Nam
xác định thời điểm bắt đầu sự sống của con người là thời điểm đứa trẻ đã được sinh ra
khỏi cơ thể người mẹ và tồn tại độc lập trong thế giới khách quan với tư cách là một
thực thể tự nhiên và xã hội. Thời điểm kết thúc sự sống của con người là thời điểm
chết sinh vật, bởi vì đây là giai đoạn cuối cùng của sự chết. Ở giai đoạn này, sự sống
của con người không có khả năng hồi phục.
Như vậy, đối tượng chứng minh xác định khách thể của tội giết người là ai bị giết, tại
sao bị giết; giết trong hoàn cảnh nào?
Mặt khách quan của tội giết người được thể hiện ở hành vi tước bỏ quyền sống của
người khác một cách trái pháp luật bằng những thủ đoạn và phương tiện khác nhau
gây hậu quả là gây ra cái chết.
Ví dụ, Bản án số: 103/2014/HSST. Ngày 12/10/2014, trong lúc đánh nhau, nhìn
thấy cây tầm vông dưới dất, Ân liền nhặt lên định đánh Ngọc, thì bị chị Lan (em
của Ngọc) xông lên giật lấy và giằng co với Ân. Thấy Lan té ngã và Ân giơ cây tầm
vông định đánh Ngọc, Huỳnh Văn Lượng (cha của Ngọc) liền chạy vào giật lấy cây
tầm vông từ tay Ân, đánh Ân trúng vào đầu khiến Ân bỏ chạy về phòng trọ. Lúc

17


này, Tuấn cầm cây (chưa xác định đặc điểm) đánh vào lưng Lượng, liền bị Lượng
quay lại dùng cây tầm vông đánh vào đầu ngã xuống bất tỉnh. Ngọc thấy không bị ai
đánh nên đứng dậy bỏ chạy. Lượng ném cây tầm vông rồi về phòng trọ. Ngọc chạy
về phòng trọ của Đức, số C3/16, ấp 3, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, thành phố
Hồ Chí Minh, nhờ Đức chở ra bến xe về Trà Vinh trốn.
Ân, Phong, Cảnh đưa Vũ Trí Tuấn đi cấp cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy, đến khoảng
12 giờ ngày 16/4/2014, Tuấn tử vong.
Ở đây, mặt khách quan của tội giết người được thể hiện ở các dấu hiệu, bị cáo

Lượng có hành vi dùng cây tầm vông đánh vào đầu (tước đoạt trái pháp luật tính
mạng con người bằng mọi hình thức) và gây hậu quả là Vũ Trí Tuấn bị chấn thương
sọ não gây ra cái chết.
Hành vi khách quan của tội phạm, là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng
của người khác. Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được hiểu là hành vi
có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Hành vi này
có thể là hành động phạm tội như hành vi đâm chém, bắn... nhưng cũng có thể là
hành động phạm tội như hành vi của người mẹ không cho con bú dẫn đến đứa trẻ
chết.
Hành vi tước đoạt tính mạng chỉ được coi là hành vi khách quan của tội giết
người nếu hành vi đó phải là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người
khác. Ví dụ, trong Bản án số: 207/2016/HSST, ngày 5/12/2016 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Văn Út có hành vi dùng dao đâm chết
Nguyễn Nhật Lâm nhằm giải quyết mâu thuẫn nhỏ của bị cáo Nguyễn Văn Út đã đủ
yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật hình sự.
Hành vi tự tước đoạt tính mạng của chính mình không thuộc hành vi khách quan
của tội Giết người. Những hành vi gây ra cái chết cho người khác được pháp luật
cho phép cũng không phải là hành vi khách quan của tội Giết người (Ví dụ: trường
hợp thi hành án tử hình...).
Trong thực tiễn xét xử còn gặp những trường hợp tước đoạt tính mạng người
khác do được sự đồng ý của nạn nhân. Động cơ của những hành vi này có thể khác

18


nhau, trong đó có những động cơ mang tính nhân đạo. (Ví dụ: Hành vi tước đoạt
tính mạng của người bị bệnh hiểm nghèo nhằm tránh đau khổ kéo dài cho họ). Tuy
nhiên, theo Luật hình sự Việt Nam, những trường hợp này vẫn bị coi là trái luật.
Hậu quả của tội phạm là nạn nhân phải chết, đây là dấu hiệu bắt buộc được quy
định trong cấu thành tội phạm của tội Giết người. Như vậy, tội Giết người chỉ được

coi là hoàn thành khi có hậu quả chết người xảy ra. Nếu hậu quả chết người không
xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì hành vi phạm tội bị coi là Giết người chưa đạt
hoặc tội Cố ý gây thương tích tùy theo lỗi của người phạm tội trong từng trường
hợp cụ thể.
Như vậy, đối tượng chứng minh xác định mặt khách quan của tội giết người là có
hành vi phạm tội không? Hành vi đó được thực hiện như thế nào (bắn, đâm...) ở
đâu, vào thời gian nào?
1.2.2 Đối tượng chứng minh xác định chủ thể và mặt chủ quan của tội giết người
Mặt chủ quan của tội giết người là lỗi của người phạm tội, là lỗi cố ý. Lối cố ý ở
đây có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Trong trường hợp lỗi cố ý
trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra hoặc tất nhiên xảy ra nhưng vì mong
muốn hậu quả đó nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp lỗi cố ý gián
tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả chết người có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng để đạt được
mục đích của mình người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra,
hay nói cách khác, họ có ý thức chấp nhận hậu quả chết người đó.
Trong trường hợp hậu quả chết người xảy ra thì việc xác định lỗi cố ý trực tiếp
hay lỗi cố ý gián tiếp không có ý nghĩa trong việc định tội nhưng nếu người phạm
tội đã thực hiện hành vi khách quan nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra thì việc
xác định hình thức lỗi cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp lại có ý nghĩa rất quan trọng.
Cụ thể, nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý
trực tiếp thì người phạm tội phải chịu TNHS về tội giết người chưa đạt. Nếu hậu
quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp thì người

19


phạm tội không phải chịu TNHS về tội Giết người mà chỉ phải chịu TNHS về tội
Cố ý gây thương tích nếu tỉ lệ thương tích thỏa mãn đòi hỏi của cấu thành tội phạm

này. Ví dụ: Vụ án Nguyễn Văn Mơ dùng thuốc trừ sâu định giết vợ nhưng không
giết được vì khi đến gần nhà vợ, Mơ đã bị vướng vào dây điện và bị điện giật bất
tỉnh (dây điện này do ông Lê Hồng Lâm là bố vợ của Mơ giăng xung quanh nhà để
phòng ngừa trộm). Trong vụ án này, vì Mơ cố ý trực tiếp giết vợ nên cho dù vợ Mơ
không chết thì Mơ vẫn phạm tội giết người. Còn ông Lê Hồng Lâm vì không cố ý
trực tiếp giết người cho nên khi Mơ không chết thì ông Lâm không phạm tội Giết
người.
Từ sự phân tích trên, đối tượng chứng minh xác định mặt chủ quan của tội
giết người là có lỗi hay không có lỗi, lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp, động cơ, mục
đích...
Chủ thể của tội giết người là Khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử vụ án giết
người, một vấn đề đặt ra cho các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh ai là
người đã thực hiện tội phạm giết người. Đây là một yếu tố quan trọng không thể
thiếu được. Để chứng minh được điều này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, có
đầy đủ chứng cứ chứng minh rằng con người đó, có hành vi nguy hiểm cho xã hội,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa
đến quyền được sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người được luật hình sự bảo vệ.
Việc chứng minh ai là người phạm tội, không thể thỏa mãn với một số tài liệu về
hiện trường bên ngoài, rồi suy đoán, kết luận rằng người đó có phạm tội. Ví dụ
trong vụ án giết người, tuy có những bằng chứng về mối thù gay gắt giữa nạn nhân
và bị cáo, việc có người gặp bị cáo ở gần nơi nạn nhân bị giết chết, trong hoặc sau
khi xảy ra sự việc .v.v..cũng chưa đủ chứng cứ để kết luận là bị cáo phạm tội, mà
phải có thêm một số chứng cứ khác. Lời khai nhận tội của bị cáo không phải là lý
do để coi nhẹ chứng cứ khác. Vì trong thực tế có những bị can, bị cáo có thể nhận
tội bừa trái với sự thật khách quan của vụ án vì nhiều động cơ khác nhau, chẳng hạn
có những vụ án giết người, người bị tình nghi là phạm tội, trong quá trình điều tra

20



×