Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN nâng cao chất lượng giảng dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.13 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Môn toán ở tiểu học có một tầm quan trọng đặc biệt. Thông qua môn toán
trang bị cho học những kiến thức cơ bản về toán học rèn cho hs kỹ năng tính
toán, kỹ năng giải toán. Đồng thời qua dạy toán giáo viên hình thành cho học
sinh phương pháp học tập; khả năng phân tích tổng hợp, óc quan sát, trí tưởng
tượng tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo, tư duy.
Trong các mạch kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì mạch
kiến thức “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức khó khăn nhất đối với học
sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp 1. Bởi vì đối với lớp 1 : Vốn từ,
vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn
chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa
học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể
đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao
các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự
lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán,
chưa biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình
bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế,
kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp,
phương pháp học toán. Các em học toán và giải toán một cách máy móc nặng về
dập khuôn, bắt chước.
Đối với môn Toán lớp 1, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là điểm xuất
phát của cả một bộ môn khoa học. Môn Toán mở đường cho các em đi vào thế
giới kỳ diệu của toán học, giúp các em biết vận dụng những kiến thức đã học
vào cuộc sống hàng ngày một cách thực tế. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm tôi
nhận thấy học sinh còn nhiều khiếm khuyết trong việc giải toán. Đặc biệt là giải
toán có lời văn.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn chọn đề tài:
“ Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng giảng dạy giải toán có lời văn
cho học sinh lớp một ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu


- Học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn.
- Học sinh đọc hiểu bài toán, phân tích bài toán, tóm tắt bài toán.
- Học sinh nắm được dạng toán đơn về thêm, bớt để xác định phép tính cộng
hay trừ của bài toán
- Học sinh tìm được lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau.
- Học sinh trình bày được bài giải theo 3 bước : câu lời giải, phép tính, đáp số.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- 28 em học sinh lớp 1B tại trường tiểu học Quảng Long – Quảng Xương
- Giải toán có lời văn ở lớp 1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu xây dựng cơ sở lý thuyết
- Trao đổi với đồng nghiệp

1


-

iu tra ,kho sỏt thc t
Quan sỏt, thu thp, tng hp thụng tin
i chng, thc nghim
ỳc rỳt kinh nghim thc tin

2. NI DUNG
2.1. C s lý lun ca sỏng kin kinh nghim :
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n ớc và sự thách thức
trớc nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới
cn bn ton din giáo dục, trong đó có sự đổi mới cơ bản về phơng pháp
dạy học. Những phơng pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi sự
t duy của học sinh đ ợc đặc biệt chú ý. Mục tiêu giáo dục của Đảng ta

đã chỉ rõ: ... Đào tạo có chất lng tốt những ngi lao động mới có ý
thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá phổ thông và
hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có
sức khoẻ tốt... . Muốn đạt đợc mục tiêu này thì dạy và học Toán trong
trng phổ thông là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Cố thủ
tng Phạm Văn Đồng cũng nói về vị trí vai trò của bộ môn Toán:
Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó
có tác dụng lớn đối với kỹ thuật, với sản xuất và chiến đấu. Nó là một
môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện ph
ơng pháp suy nghĩ, phơng pháp suy luận, phơng pháp học tập, ph
ơng pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí thông minh
sáng tạo. Nó còn giúp chúng ta rèn luyện nhiều đức tính quý báu khác
nh: Cần cù và nhn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vt khó, yêu thích
chính xác, ham chuộng chân lý. Để đáp ứng những yêu cầu mà xã hội
đặt ra, Giáo dục và đào tạo phải có những cải tiến, điều chỉnh, phải
thay đổi về nội dung chơng trình, đổi mới ph ơng pháp giảng dạy cho
phù hợp. Hội nghị BCH trung ơng khoá VIII lần thứ 2 đã chỉ rõ: " Đổi
mới mạnh mẽ phơng pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện t duy sáng tạo của ngi học. Từng bc áp dụng
ph ơng pháp tiên tiến, phơng pháp hiện đại vào quá trình dạy học".
Trong luật Giáo dục, Khoản 2, điều 24 đã ghi: " Phơng pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác , chủ động sáng tạo của
học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dng
phơng pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,

2


hứng thú học tập cho học sinh". Đổi mới phng phỏp dy hc là vấn đề

then chốt của chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Mục đích của đổi mới phng phỏp dy hc chính là làm thế
nào để hc sinh phải thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở
tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức k nng
nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình trang b cơ bản cần
thiết cho việc học tập tip theo hoặc bc vào cuộc sống lao động. Rồi
mai đây, các em lớn lên , nhiều em trở thành vĩ nhân, trở thành anh
hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ... trở thành những ngi lao động
sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống ; trên tay có máy tính
xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi... nhng không bao giờ các em quên
đợc những ngày đầu tiên đến trng học đếm và tập viết 1, 2, 3 ...
học các phép tính cộng, trừ... Các em không quên đợc vì đó là kỷ niệm
đẹp đẽ nhất của đời ngi và hơn thế nữa, những con số, những phép
tính ấy cần thiết cho suốt cả cuộc đời.
Đối với mạch kiến thức : "Giải toán có lời văn", là một trong năm
mạch kiến thức c bn xuyờn sut chng trỡnh toỏn cp tiu hc. Thụng qua
gii toỏn cú li văn, các em đợc phát triển trí tuệ, rèn luyện kỹ năng tổng
hợp: đọc, viết diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến
thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học khỏc . Nm c giải toán
có lời văn các em sẽ nm đợc giải các loại toán về số học, các yếu tố đại
số, các yếu tố hình học và đo đại lng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối
giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác.
Gii toỏn cú li vn gúp phn cng c kin thc toỏn, rốn luyn k nng
din t, tớch cc gúp phn phỏt trin t duy cho hc sinh tiu hc.
i vi tr l hc sinh lp 1, mụn toỏn tuy cú d nhng hc sinh chiu bi toỏn cú li vn qu khụng d dng, v li vic vit lờn mt cõu li gii
phự hp vi cõu hi ca bi toỏn cng l vn khụng n gin. Bi vy ni
bn khon ca giỏo viờn l hon ton chớnh ỏng.
Vy lm th no giỏo viờn núi - hc sinh hiu, hc sinh thc hnh, din
t ỳng yờu cu ca bi toỏn. ú l nguyờn nhõn chớnh m tụi chn ti ny
2.2. Thc trng vn trc khi ỏp dng sỏng kin kinh nghim

Trong quỏ trỡnh ging dy Tiu hc, c bit dy lp 1, tụi nhn thy hu
nh giỏo viờn no cng phn nn khi dy n phn gii toỏn cú li vn lp 1.
Hc sinh rt lỳng tỳng khi nờu cõu li gii, thm chớ nờu sai cõu li gii, vit sai
phộp tớnh, vit sai ỏp s. Nhng tit u tiờn ca gii toỏn cú li vn mi lp
ch cú khong 20% s hc sinh bit nờu li gii, vit ỳng phộp tớnh v ỏp s.
S cũn li l rt m h, cỏc em ch nờu theo quỏn tớnh hoc nờu ming thỡ c
nhng khi vit cỏc em li rt lung tỳng, lm sai, mt s em lm ỳng nhng khi

3


cô hỏi lại không biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc
chắn cách giải bài toán có lời văn. Giáo viên phải mất rất nhiều công sức khi dạy
đến phần này.
2.2.1. Về học sinh
Do học sinh mới bắt đầu làm quen với dạng toán này lần đầu, tư duy của
các em còn mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác ở giai đoạn này các em
chưa đọc thông viết thạo, các em đọc còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán
rồi nhưng các em không hiểu bài toán nói gì, thậm chí có những em đọc đi đọc
lại nhiều lần nhưng vẫn chưa hiểu bài toán. Vì vậy học sinh không làm đúng
cũng là điều dễ hiểu. Vậy làm thế nào để học sinh nắm được cách giải một cách
chắc chắn chính xác?
Kết quả khảo sát tại lớp 1B trường tiểu học Quảng Long – Quảng Xương
(Cuối năm học: 2014-2015 )
Đề bài: (Bài tập 3 SGK Toán 1 trang 155)
Lớp 1A trồng được 35 cây, lớp 2A trồng được 50 cây. Hỏi hai lớp trồng được tất
cả bao nhiêu cây?
STT

Lỗi của học sinh trong bài khảo sát


Số học sinh
đạt/Tổng số

Tỉ lệ %

1

Không mắc lỗi

5/28

18,3%

2

Trình bày còn bẩn, câu lời giải chưa chuẩn

6/28

22%

3

Chỉ làm đúng phép tính và đáp số, sai tên
đơn vị, sai câu lời giải

9/28

30,4%


4

Không biết làm bài.

8/28

29,3%

a/ Ưu điểm
- Phần lớn học sinh biết làm phép tính trong bài toán có lời văn. Kết quả
của bài toán đúng.
- Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn toán nói chung và “ Giải bài toán
Có lời văn” nói riêng.
- Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế.
b/Hạn chế
- Trình bày bài làm chưa sạch đẹp.
- Một số học sinh chưa biết cách đặt câu lời giải phù hợp.

4


- Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến không
làm được bài.
2.2.2. Về đồ dùng dạy học :
Tư duy của học sinh lớp 1 là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải toán có
lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học để minh hoạ.
Trong những năm qua, các trường tiểu học đã được cung cấp khá nhiều trang
thiết bị và đồ dùng dạy học cho từng khối lớp nhưng thống kê theo danh mục thì
số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy “Giải toán có lời văn”.

2.2.3. Về giáo viên
Giáo viên chưa chuẩn bị tốt cho các em khi dạy những bài học trước.
Những bài toán nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp, đối với những bài toán
này hầu như học sinh đều làm được nên giáo viên tỏ ra chủ quan, ít nhấn mạnh
hoặc không chú ý lắm, chỉ tập trung vào dạy kĩ năng đặt tính, tính toán cho học
sinh mà quên mất rằng đó là những bài toán làm bước đệm của dạng toán có lời
văn sau này. Khi dạy cần cho học sinh quan sát tranh tập nêu bài toán và thường
xuyên rèn cho học sinh thói quen nhìn hình vẽ nêu bài toán. Có thể tập cho
những em giỏi tập nêu câu trả lời. Trong một thời gian chuẩn bị như thế thì đến
lúc học đến phần bài toán có lời văn học sinh sẽ không ngỡ ngàng và các em sẽ
dễ dàng tiếp thu, hiểu và giải đúng.
Một số giáo viên tiếp cận phương pháp dạy học tích cực còn lúng túng,
chưa phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, phương pháp dạy học
truyền thống “ Thầy truyền thụ, trò tiếp nhận ” đã ăn sâu vào tư duy vào lề lối
dạy học hàng ngày.
Một số giáo viên còn ngại đầu tư làm thêm đồ dùng dạy học để phục vụ cho
tiết dạy, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, ít sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm cách giải và giải toán còn
khó hiểu.
2.2.4. Những sai lầm và khó khăn thường gặp của giáo viên và học sinh khi
dạy và học mạch kiến thức : “Giải toán có lời văn” ở lớp 1.
Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy “Giải toán có lời văn” cho học
sinh lớp 1 là đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp
giảng dạy có hiệu quả.
Vốn từ, vốn kiến thức, kinh nghiệm thực tế của học sinh lớp 1 còn rất hạn chế.
Khi giảng dạy cho học sinh lớp 1 giáo viên lại diễn đạt như với các lớp trên làm
học sinh lớp 1 khó hiểu và không thể tiếp thu được kiến thức và không đạt kết
quả tốt trong việc giải các bài toán có lời văn.
Khả năng phối, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy mạch kiến thức: “ giải
toán có lời văn” ở lớp 1 còn thiếu linh hoạt.

Giáo viên còn lúng túng khi thiết lập các tình huống sư phạm để nêu vấn đề.
Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý cho các nhóm cũng
như các đối tượng học sinh trong quá trình học.

5


Kh nng kiờn trỡ ca hc sinh lp 1 trong quỏ trỡnh hc núi chung cng
nh hc Gii toỏn cú li vn núi riờng cha cao.
2.3. Cỏc gii phỏp ó s dng gii quyt vn :
2.3.1. Nm bt ni dung chng trỡnh
Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, "Giải bài toán có lời văn" nói riêng,
điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chơng trình,
sách giáo khoa. Nhiều ngi nghĩ rằng Toán tiểu học, đặc biệt là toán
lớp 1 thì ai cng cú th dy c. Đôi khi chính giáo viên đang trực tiếp dạy
cũng rất chủ quan và có những suy nghĩ t ng tự nh vậy. Qua dự giờ
một số đồng nghip tôi nhận thấy giáo viên dạy bài nào chỉ cốt khai thác
kiến thức của bài ấy, còn các kiến thức cũ có liên quan giáo viên bc cu
cha tt. Trong chơng trình toán lớp 1 giai đoạn đầu học sinh còn đang
học chữ nên sỏch giỏo khoa cha thể đa ngay "Bài toán có lời văn". Nhng
giỏo viờn cha hiu sõu c, đến tận tuần 23 học sinh mới đợc chính
thức học cách giải
"Bài toán có lời văn" song sỏch giỏi khoa đã có ý ngầm chuẩn bị từ xa cho
việc làm này ngay từ bài "Phép cộng trong phạm vi 3 (Luyện tập) " ở
tuần 7.
* Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 16 trong hầu hết các tiết
dạy về phép
cộng trừ trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng
"Nhìn tranh nêu phép tính" đây học sinh đợc làm quen với việc:
- Xem tranh vẽ - Nêu bài toán bằng lời - Nêu câu trả lời - Điền phép tính

thích hợp (với tình huống trong tranh) .
Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 (SGK), học sinh tập nêu bằng
lời :
"Có 1 quả bóng trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả
bóng?" rồi
tập nêu miệng câu trả lời : "có tất cả 3 quả bóng", sau đó viết vào dãy
năm ô trống để có phép tính :
1
+
2
=
3
* Tiếp theo đó, kể từ tuần 17, học sinh đợc làm quen với việc đọc
tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời sau đó nêu cách giải ri tự điền số và
phép tính thích hợp vào dãy năm ô trống. đây không còn tranh vẽ nữa
(xem bài 3b - trang 87, bài 5 - trang 89).
* Việc ngầm chuẩn bị cho hs các tiền đề để giải toán có lời văn là
chuẩn bị cho học sinh cả về viết câu lời giải và

6


viết phép tính. Chính vì vậy ngay sau các bài tập "nhìn tranh điền
phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống" chỳng ta
chu khú t thờm cho cỏc em nhng cõu hi cỏc em tr li ming.
Ví dụ: Từ bức tranh "3 con chim trên cành, 1 con chim bay tới" ở
trang 47 - SGK, sau khi học sinh điền phép tính vào dãy ô trống:
3
+
1

=
4
Giáo viên nên hỏi tiếp: "Vậy có tất cả mấy con chim?" để
học sinh trả lời
ming : cú tt c 4 con chim ;
hoc S chim cú tt c l bao nhiờu ?
( S chim cú tt c l 4 )
Cứ làm nh vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời
giải bằng miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết đợc các câu lời giải sau
này.
* Tiếp theo, trc khi chính thức học "Giải các bài toán có
lời văn" học sinh đ ợc học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn
(gồm hai thành phần chính là những cái đã cho (đã biết) và những cái
phải tìm (cha biết). Vì khó có thể giải thích cho học sinh "Bài toán là
gì?" nên mục tiêu của tiết này là chỉ giới thiệu cho các em hai bộ phận
của một bài toán:
+ Những cái đã cho (dữ kiện)
+ Cái phải tìm (câu hỏi).
Để làm việc này sách Toán 1 đã vẽ bốn bức tranh, kèm theo là bốn đề
toán: 2 đề còn thiếu dữ kiện, 1 đề còn thiếu câu hỏi, 1 đề thiếu cả
dữ kiện lẫn câu hỏi (biểu thị bằng dấu ...) Học sinh quan sát tranh rồi
nêu miệng đề toán, sau đó điền số vào chỗ các dữ kiện rồi điền từ vào
chỗ câu hỏi (còn để trống). Từ đó giáo viên giới thiệu cho các em " Bài
toán thng có hai phần " . Bài này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo
của "Bài toán có lời văn".
* Các loại toán có lời văn trong chơng trình chủ yếu là hai loại toán
"Thêm Bớt" thỉnh thoảng có biến tấu một chút:
- Bài toán "Thêm" thành bài toán gộp, chẳng hạn: "An có 4 quả bóng,
Bình
có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?", dạng này khá phổ

biến.
- Bài toán "Bớt" thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn : " Lớp 1A có 35
bạn, trong đó có 20 bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn nam?", dạng này
ít gặp vì dạng này hơi khó (trc đây dạy ở lớp 2)

7


* Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải
đầy đủ theo quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp

5:

- Câu lời giải.
- Phép tính giải.
- Đáp số.
Ví dụ: Xét bài toán "Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi
nhà An có tất cả mấy con gà?"
* Học sinh lớp 1 cũ chỉ cần giải bài toán trên nh sau:
Bài giải
5+ 4
=
9 ( con gà )
Học sinh lớp 1 hiện nay phải giải nh sau:
Bài giải
Nh An cú tt c s con g l :
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
* Về số lng bài toán trong một tiết học đ ợc rút bớt để dành thời
gian cho trẻ viết câu lời giải. Chẳng hạn trc đây trong 1 tiết " Bài toán

nhiều hơn" học sinh phải giải 8 bài toán (4 bài mẫu, 4 bài luyện tập) ,
thì bây giờ trong tiết " Giải toán có lời văn (thêm) " học sinh phải giải 4
bài (1 bài mẫu, 3 bài luyện tập) ...
* Để lng trc về vốn từ và khả năng đọc hiểu của học sinh khi
"Giải bài toán có lời văn" chơng trình toán 1 đã có những giải pháp:
- Hạn chế dùng các vần khó và tiếng khó trong đề toán nh : thuyền,
quyển, Quỳnh, ... tăng cng dùng các vần và tiếng dễ đọc , dễ viết
nh : cam, gà, Lan, ... trong các đề toán.
- Lựa chọn câu hỏi trong đề toán sao cho học sinh chỉ cần chỉnh
sửa một chút xíu thôi là đợc ngay câu lời giải.
- Cài sẵn "cốt câu" lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào
tóm tắt mà viết câu lời giải.
- Khuyến khích) hc sinh tự nghĩ ra nhiều cách đặt lời giải khác
nhau. Chẳng hạn, với bài toán : "An có 4 quả bóng. Bình có 3 quả bóng.
Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?"; hc sinh có thể đặt lời giải theo rất
nhiều cách nh:
+ Cả hai bạn có: ........
+ Hai bạn có: ..........
+ An và bình có: ..........
+ Tất cả có: ..........
+ Số bóng tất cả là: ...........

8


2.3.2 Sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học
Nh chúng ta đã biết, con đờng nhận thức của học sinh tiểu học
là: "Từ
trực quan sinh động đến t duy trừu tng, rồi từ t duy trừu tng trở lại
thực tiễn". Đồ dùng thiết bị dạy học là ph ơng tiện vật chất, phơng

tiện hữu hình cực kỳ cần thiết khi dạy "Giải toán có lời văn" cho học sinh
lớp 1. Cũng trong cùng một bài toán có lời văn, nếu chỉ dùng lời để dẫn
dắt, dùng lời để hng dẫn học sinh làm bài thì vừa vất vả tốn công,
vừa không hiệu quả và sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với dùng đồ dùng
thiết bị, tranh ảnh, vật thực để minh hoạ. Chính vì vậy rất cần thiết
phải sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học để dạy học sinh "Giải bài toán có
lời văn". Một điều hết sức quan trọng là một số giáo viên còn ngại, hoặc
lúng túng trong vic sử dụng đồ dùng dạy học khi giảng dạy nói chung và
khi dạy "Giải toán có lời văn" nói riêng. Để khắc phục tình trạng nờu trờn,
giáo viên cần có ý thức chuẩn bị sử dụng đồ dùng dạy học trc khi lên
lớp. Cần cải tiến nội dung sinh hoạt chuyên môn đa việc thống nhất sử
dụng đồ dùng dạy học và phơng pháp sử dụng đồ dùng dạy học vo cỏc
chuyờn ca t chuyờn mụn.

2.3.3. Cỏch dy "Gii bi toỏn cú li vn" lp 1.
a. Dy Gii toỏn cú li vn lp 1 theo tng mc
Mc 1: Ngay t u hc k I cỏc bi toỏn c gii thiu mc nhỡn
hỡnh v- vit phộp tớnh. Mc ớch hc sinh hiu bi toỏn qua hỡnh v, suy ngh
chn phộp tớnh thớch hp. Thụng thng cú 5 ụ vuụng cho hc sinh chn ghi
phộp tớnh v kt qu phự hp. Ban u giỳp hc sinh d thc hin, sỏch giỏo
khoa ghi sn cỏc s v kt qu
VD: Bi 5 trang 46 :Ch yờu cu hs vit du cng vo ụ trng cú : 1 + 2 = 3
a)
1
2
3

b) n cõu ny nõng dn mc - hc sinh phi vit c phộp tớnh v kt qu
1
+ 1

=
2
Yờu cu tng dn, hc sinh cú th nhỡn t mt tranh v ( bi 4 trang 77 ) din
t theo 2 cỏch .

9


Cách 1: Có 8 hộp thêm 1 hộp, tất cả là 9 hộp.
8
+
1
=
9
vào chỗ 8 hộp, tất cả là 9 hộp.
Cách 2: Có 1 hộp đưa
1
+
8
=
9
Đến bài 3 trang 85 :
Học sinh quan sát và cần hiểu được:
Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó rụng 2 quả. Còn lại trên cành 8 quả.
10 2
=
8
Khi dạy bài này cần hướng dẫn học sinh trình bày miệng và động viên các
em viết được phép tính để tăng cường khả năng diễn đạt cho học sinh vì tư duy
toán học được hình thành trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của học sinh.

Mức độ 2: Đến cuối học kì I học sinh đã được làm quen với tóm tắt bằng lời:
Bài 3 trang 87

: 10 quả bóng
Cho : 3 quả bóng
Còn :.... quả bóng?
10 3
=
7
Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần
thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học
sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng
lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải.
Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có thể
động viên học sinh năng khiếu làm nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ một
hình vẽ hay một tình huống sách giáo khoa.
Mức độ 3: Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho học sinh tiếp cận với
một đề bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện ( tiết
81- bài toán có lời văn ). Tư duy học sinh từ hình ảnh phát triển thành ngôn ngữ,
thành chữ viết. Giải toán có lời văn ban đầu được thực hiện bằng phép tính cộng
là phù hợp với tư duy của học sinh.
Cấu trúc một đề toán gồm 2 phần: phần cho biết và phần hỏi

10


Mức độ 4: Để hình thành cách giải bài toán có lời văn, sách giáo khoa đã nêu
một bài toán, phần tóm tắt đề toán và giải bài toán hoàn chỉnh để học sinh làm
quen. ( Bài toán- trang 117)
Giáo viên cần cho học sinh nắm vững đề toán thông qua việc tóm tắt đề

toán. Biết tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên để giải bài toán có lời văn.
Bài giải gồm 3 phần : câu lời giải, phép tính và đáp số.
Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán nhưng phần tóm tắt
cần được luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác. Câu lời giải
trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như nhau, tạo diều
kiện
cho học sinh diễn đạt câu trả lời theo ý hiểu của mình. Quy ước viết đơn vị của
phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ để thực hiện khi trình bày bài giải.
Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành thạo
giải bài toán có lời văn bằng phép tính cộng. Giáo viên chỉ hướng dẫn cách làm
tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán. Ở lớp 1, học sinh chỉ giải
toán về thêm, bớt với 1 phép tính cộng hoặc trừ, mọi học sinh bình thường đều
có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng nếu được giáo viên
hướng dẫn cụ thể.
b. Dạy quy trình" Giải bài toán có lời văn " thông thường qua 4 bước:
- Tìm hiểu đề bài và tóm tắt bài toán.
- Tìm đường lối giải bài toán.
- Trình bày bài giải
- Kiểm tra lại bài giải.
* Đọc, tìm hiểu đề toán và tóm tắt
Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu
tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ
chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như " thêm ,
và , tất cả, ... " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ..." (có thể kết hợp quan sát
tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ
ngữ chính trong đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ,
hoặc gạch chân các từ chưa sát với nội dung cần tóm tắt. Khi gạch chân nên
dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.
Trong giai đoạn đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách
đàm thoại

" Bài toán cho gì? Hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt,
sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để
giúp học sinh ngầm phân tích đề toán. Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc
đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh trả lời câu hỏi. Ví dụ : Bài 3
trang 118, giáo viên có thể hỏi:
- Em thấy dưới ao có mấy con vịt? (Dưới ao có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? ( Trên bờ có 4 con vịt)
- Đàn vịt có tất cả mấy con? (Có tất cả 9 con)

11


Trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn
mẫu vật (gà, vịt, ...) lên bảng từ để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt bằng lời
hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán.
Thông thường có 3 cách tóm tắt đề toán:
- Tóm tắt bằng lời:
Ví dụ 1:
Lan : 3 bông hoa
Vy : 2 bông hoa
Cả hai bạn có : ... bông hoa ?
Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ví dụ 2: Bài 2 trang 123
A 5 cm
B 3 cm C
? cm
-Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật:
Ví dụ 3 : Bài 3 trang 90

Có:


Thêm :
Có tất cả :.....bông hoa?
Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng.
Với cách viết thẳng theo cột như:
14 bông hoa
hay 26 quả
12 bông hoa
33 quả
..... bông hoa ?
... quả?
Kiểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác dụng gợi
ý cho học sinh lựa chọn phép tính giải.
Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa
vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình không nên vội
vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề viết được các câu lời giải, phép tính
và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh
rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) trẻ đọc và
giải được bài toán là đạt yêu cầu.
* Tìm đường lối giải bài toán.
Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái
phải tìm.

12


Chẳng hạn: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả
mấy con gà?
- Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà)
- Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)

- Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính gì?
(tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9); hoặc: "Muốn
biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9); hoặc: "Nhà An có
tất cả mấy con gà ?"(9) Em tính thế nào để được 9 ? (5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta viết
"con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn học
sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học
sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm quen với cách giải loại toán này nên các em rất
lúng túng. Có thể dùng một trong các cách sau:
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đứng đầu (Hỏi) và cuối
(mấy con gà ?) để có câu lời giải: "Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để
có câu lời giải: Nhà An có tất cả là:
Cách 2 : Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và thêm
từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả là:" Cách 3:
Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải rồi
thêm thắt chút ít.
Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh viết
câu lời giải: "Nhà An có tất cả:"
Cách 4 : Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?" để
học sinh trả lời miệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép tính vào để có
cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả:
5+ 4
=
9 (con gà)
Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ vào 9 và
hỏi: "9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất cả). Từ câu trả
lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số gà nhà An có tất

cả là" v.v...
Ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác
nhau, sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc học sinh
nhất nhất phải viết theo một kiểu
* Trình bày bài giải
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy. Thực
tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học
sinh tiếp thu tốt. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một
cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con hay
vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải của một bài toán có lời văn như sau:

13


Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9
(con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ "gà").
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được đặt trong dấu
ngoặc đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể
bằng 9 con gà được. Do đó, nếu viết: "5 + 4 = 9 con gà" là sai. Nói cách khác,
nếu vẫn muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: "5 con
gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các đơn vị đầy đủ như
vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn, tốn nhiều thời gian đối với học
sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai
như sau:
5 con gà + 4 = 9 con gà
5 + 4 con gà = 9 con gà

5 con gà + 4 con gà = 9
Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9 thôi.
Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính khi giải
toán nên phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn
vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9. Có thể hiểu rằng chữ
"con gà” viết trong dấu ngoặc đơn ở đây chỉ có sự ràng buộc về mặt ngữ nghĩa
với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về toán học với số 9. Như vậy cách
viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. d) Kiểm tra lại bài giải
Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 1 thường có thói quen khi làm bài
xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây
dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số
hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.
4 ) Biện pháp khắc sâu loại “Bài toán có lời văn"
Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo viên
cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi tiết về "Giải
toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề toán, tự đặt đề
toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho trước, giải toán từ tóm
tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán vào chỗ chấm ( ... ), đặt câu
hỏi cho bài toán.
Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải bài toán
đó:
Bài toán: Dưới ao có ... con vịt, có thêm ... con vịt nữa chạy xuống.
Hỏi ..........................................................................?
Ví dụ 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau:

:
7 hình tròn
Tô màu
:

3 hình tròn

14


Không tô màu : .......... hình tròn?
2.3.5. Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy:"Giải bài toán có lời
văn"ở lớp 1.
a) Phương pháp trực quan :
Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 thường sử dụng
phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua
việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ … giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn. Từ
đó tìm ra đường lối giải thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 1 có hai
loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: Một loại gợi ra phép
cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã
định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt buộc giáo viên
phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan.
b) Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại) :
Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường lối giải,
chữa bài làm của học sinh ...
c) Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Đây là phương pháp dạy học tích cực với mục đích giúp các em khắc sâu
những kiến thức về “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên
nên áp dụng phương pháp dạy học này.
Ở mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể thay các dữ kiện đã cho hoặc
vị trí các dữ kiện để có những bài toán có vấn đề. Chẳng hạn bài toán “bớt” trở
thành bài toán tìm số hạng, bài toán “thêm” trở thành bài toán tìm số trừ.
Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học
sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho hình
vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải.

Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác để giúp
học sinh thuận lợi cho việc làm bài như : Phương pháp thảo luận nhóm, phương
pháp kiến tạo, phương pháp động não ...
2.3.6. Quá trình thực nghiệm:
Sau khi thực hiện tốt 5 giải pháp trên tôi giảng dạy giải toán có lời văn rất
thuận lợi. Trong phạm vi 27 tiết chính thức dạy giải toán có lời văn ( từ tiết 81
đến tiết 108 ) tôi đặc biệt chú ý vào 1 số tiết chính sau đây:
Tiết 81 Bài toán có lời văn
Có ...bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn?
Học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi rồi điền vào chỗ chấm số 1 và số 3.
- Bài 2: tương tự.
Qua tìm hiểu bài toán giúp học sinh xác định được bài có lời văn gồm 2 phần
- Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố.
- Câu hỏi ( thông tin cần tìm )
Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập ở trang116:
Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?

1


5


Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, học
sinh hoàn thành bài toán 4 trang 116:
Có 4 con chim đậu trên cành , có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi có tất cả bao
nhiêu con chim?
Tiết 82 Giải toán có lời văn.
Giáo viên nêu bài toán .
Học sinh đọc bài toán

- Đây là bài toán gì?
Bài toán có lời văn.
-Thông tin cho biết là gì ?
Có 5 con gà, mua thêm 4 con gà.
- Câu hỏi là gì ?
Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà ?
Dựa vào tranh vẽ và tóm tắt mẫu, Giáo viên đưa ra cách giải bài toán mẫu:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số: 9 con gà
Bài 1 trang117: Hs đọc bài toán- phân tích đề bài- điền vào tóm tắt, giải bài toán
Tóm tắt:
Bài giải
An có
: 4quả bóng
Cả hai bạn có là :
Bình có : 3 quả bóng
4 + 3 = 7 ( quả bóng )
Cả hai bạn có :....quả bóng?
Đáp số : 7 quả bóng
Bài 2 trang 118
Bài giải
Tóm tắt:
Có :
6 bạn
Có tất cả là :
Thêm:
3 bạn
6 + 3 = 9 ( bạn )

Có tất cả :... bạn?
Đáp số : 9 bạn
Qua 2 bài toán trên tôi rút ra cách viết câu lời giải như sau: Lấy dòng thứ 3
của phần tóm tắt + thêm chữ là:
VD - Cả hai bạn có là:
- Có tất cả là:
- Có tất cả là:
Tương tự bài 3 trang118 câu lời giải sẽ là:
Tiết 84 Luyện tập
Bài 1 và bài 2 trang 121 tương tự bài 1,2,3 trang117. Nhưng câu lời giải được
mở rộng hơn bằng cách thêm cụm từ chỉ vị trí vào trước cụm từ có tất cả là
Cụ thể là
Trong vườn có tất cả là:
-Bài 1 tr 121
-Bài 2 tr 121
Trên tường có tất cả là:
Tiết 85 Luyện tập
Bài 1 trang 122: Học sinh đọc đề toán, phân tích bài toán (như trên), điền số vào
tóm tắt, vài ba học sinh nêu câu lời giải khác nhau
Giáo viên chốt lại một cách trả lời mẫu:
- Số quả bóng của An có tất cả là:
Tương tự như vậy : Bài 2 trang122 : - Số bạn của tổ em có là:
Bài 3 trang122 : - Số gà có tất cả là:
Vậy qua 3 bài tập trên học sinh đã mở rộng được nhiều cách viết câu lời giải
khác nhau , song giáo viên chốt lại cách viết lời giải như sau:

16


Thêm chữ Số + đơn vị tính của bài toán trước cụm từ có tất cả là như ở tiết

82 đã làm .
Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài( cm) cần thêm chữ dài
vào trước chữ là
VD cụ thể
Tóm tắt
Bài giải
Đoạn thẳng AB
: 5cm
Cả hai đoạn thẳng dài là :
Đoạn thẳng BC : 3cm
5 + 3 = 8 (cm )
Cả hai đoạn thẳng : ... cm?
Đáp số : 8 cm
Tiết 86 đến Tiết 104
Hầu hết đều có bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung
cấp theo phân phối chương trình. Tuy nhiên, việc phân tích đề- tóm tắt- giải bài
toán phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn
là các mẫu lời giải cho các bài toán thêm là:
- Có tất cả là:
- Số ( đơn vị tính ) + có tất cả là:
- Vị trí ( trong, ngoài, trên, dưới, ...) + có tất cả là:
- ... đoạn thẳng....+ dài là:
Tiết 105 : Giải toán có lời văn (tiếp theo)
Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại
mấy con gà?
HS đọc – phân tích bài toán :
+ Thông tin cho biết là gì?
Có 9 con gà. Bán 3 con gà.
+ Câu hỏi là gì ?
Còn lại mấy con gà?

Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tóm tắt- bài giải mẫu. Giáo viên giúp học sinh
nhận thấy câu lời giải ở loại toán bớt này cũng như cách viết của loại toán thêm
đã nêu ở trên chỉ khác ở chỗ cụm từ có tất cả được thay thế bằng cụm từ còn lại
mà thôi. Cụ thể là :
Bài giải
Số gà còn lại là:
9 – 3 = 6 ( con gà)
Bài 1 trang148
Đáp số: 6 con gà.
Bài giải
Tóm tắt

: 8 con chim
Số chim còn lại là :
Bay đi : 2 con chim
8 – 2 = 6 ( con chim )
Còn lại :... con chim?
Đáp số : 6 con chim
Bài 2 trang 149
Bài giải
Tóm tắt

: 8 quả bóng
Số bóng còn lại là :
Đã thả : 3 quả bóng
8 – 3 = 5 ( quả bóng )
Còn lại:....quả bóng?
Đáp số : 5 quả bóng
Bài 3 trang 149


17


Tóm tắt
Trên Bài giải
Đàn vịt có : 8 con
bờ có là :
ở dưới ao : 5 con
8 - 5 = 3 ( con vịt )
Trên bờ : ... con?
Đáp số : 3 con vịt
Tiết 106 +Tiết 107
Luyện tập Bài 1,2 ( Tương tự tiết 105 )
Nhưng bài 4 trang 150 và bài 4 trang151 thì lời giải dựa vào dòng thứ 3 của
phần tóm tắt bài toán:
Số hình tam giác không tô màu là :
Số hình tròn không tô màu là:
8 - 4 = 4( hình )
15 - 4 = 11( hình )
Đáp số: 4 hình tam giác
Đáp số: 11 hình tròn.
Bài 3 trang 151 Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng
? cm

2cm

13cm
Bài giải
Sợi dây còn lại dài là:
13 – 2 = 11( cm)

Đáp số : 11cm
Tiết 108
Luyện tập chung
Đây là phần tổng hợp chốt kiến thức cả 2 dạng toán đơn thêm và bớt ở lớp 1
Bài 1 trang 152
a, Bài toán : Trong bến có .....ô tô, có thêm....ô tô vào bến.
Hỏi................................................................?
Học sinh quan sát tranh và hoàn thiện bài toán thêm rồi giải bài toán với câu
lời giải có cụm từ có tất cả
b, Bài toán : Lúc đầu trên cành có 6 con chim, có ....con bay đi.
Hỏi .............................................?
Học sinh quan sát tranh rồi hoàn thiện bài toán bớt và giải bài toán với câu
lời giải có cụm từ còn lại
Lúc này học sinh đã quá quen với giải bài toán có lời văn nên hướng dẫn cho
học sinh đọc kĩ câu hỏi chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là:
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.
- Thay chữ bao nhiêu bằng chữ số.
- Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm
Cụ thể Bài 1 trang 152
a,Câu hỏi là: Hỏi có tất cả bao nhiêu ô tô?
Câu lời giải là:
Có tất cả số ô tô là :
b, Câu hỏi là: Hỏi trên cành còn lại bao nhiêu con chim?
Câu lời giải là: Trên cành còn lại số con chim là :
VD khác:

18


-


Câu hỏi là: Hỏi hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
Câu lời giải là:
Hai lớp trồng được tất cả số cây là:
Câu hỏi là: Hỏi con sên bò được tất cả bao nhiêu xăng-ti-mét?
Câu lời giải là:
Con sên bò được tất cả số xăng-ti-mét là?
Câu hỏi là: Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển sách?
Câu lời giải là:
Lan còn phải đọc số trang nữa là:
Trên đây là 2 mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở lớp 1.
Tôi đã đưa ra phương pháp dạy từ dễ đến khó để học sinh có thể giải toán mà
không gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải. Tối thiểu học sinh có lực học trung
bình yếu cũng có thể chọn cho mình một cách viết đơn giản nhất bằng cụm từ:
Có tất cả là hoặc : Còn lại là:
Còn học sinh khá giỏi các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời giải
khác nhau nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu hỏi hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
- Năm học 2015 - 2016: áp dụng kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy và tiếp
tục tìm hiểu, bổ sung những kinh nghiệm của bản thân, thực hiện kiểm tra khảo
sát chất lượng học sinh, kết quả kiểm chứng thu được như sau :
Bảng kết quả kiểm chứng (Qua thực nghiệm áp dụng kinh nghiệm)
STT

Kết quả thu được qua kiểm tra khảo sát

Số học sinh
đạt/Tổng số


Tỉ lệ %

1

Bài làm đúng, sach, đẹp

24/ 28

85,57%

2

Đặt câu lời giải phù hợp

26/28

92,85%

3

Làm phép tính và ghi đơn vị đúng

27/28

96,42%

4

Ghi đáp số đúng, đủ


26/28

92,85%

Nhìn bảng kết quả có thể nhận thấy tỷ lệ học sinh chưa biết đặt câu lời giải ;
chưa biết làm phép tính và tính đúng,chưa biết ghi đáp số đúng ngay từ khi chưa
áp dụng kinh nghiệm tương đối cao. Dễ nhận thấy số học sinh chưa biết viết câu
lời giải khi chưa áp dụng kinh nghiệm cao hơn nhiều so với năm học 2015 –
2016.
Một số sai sót mà học sinh năm trước thường mắc phải là:
- Không biết tóm tắt hoặc tóm tắt không đúng.

19


- Viết lời giải không phù hợp với phép tính.
- Ghi đơn vị ở phép tính và đáp số còn sai hoặc thiếu.
- Trình bày bài giải chưa đẹp, chưa khoa học.
Qua tổng hợp kết quả kiểm tra khảo sát ở cuối năm học 2015-2016 ( với đề
bài tương tự) số học sinh còn sai sót là rất ít so với năm học trước là vì:
- Giáo viên đã chủ động cho học sinh làm quen với giải toán có lời văn ngay
từ bài : Phép cộng trong phạm vi 3( Tuần 7) và tiếp tục nâng dần ở các tuần tiếp
theo. Nhờ vậy, đến tuần 23 chính thức bước vào giải toán có lời văn thì phần lớn
các em đã nắm được trình tự để giải bài toán có lời văn.
- Ngoài đồ dùng dạy học có sẵn, tôi còn đầu tư làm thêm các mô hình hiện vật,
các hình nhằm phục vụ tốt cho tiết học.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận :
Qua việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp dạy toán có lời văn cho học
sinh lớp 1 cho thấy giải toán có lời văn ở lớp 1 không khó ở việc viết phép tính

và đáp số mà chỉ mắc ở câu lời giải của bài toán. Sau quá trình nghiên cứu và áp
dụng kinh nghiệm sáng kiến thì học sinh biết viết câu lời giải đã đạt kết quả rất
cao, học sinh đạt tỉ lệ cao về hoàn thiện bài toán có lời văn. Vì vậy theo chủ
quan của bản thân tôi thì kinh nghiệm này có thể áp dụng và phổ biến nhằm
nâng cao chất lượng cho học sinh về việc giải toán có lời văn. Đó là :
- Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa
về “ Giải toán có lời văn” ở lớp 1 để xác định được trong mỗi tiết học phải dạy
cho học sinh cái gì, dạy như thế nào?
- Đối với học sinh tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp 1, cần coi trọng sử dụng
trực quan trong giảng dạy nói chung và trong dạy “Giải toán có lời văn” nói
riêng, tuy nhiên cũng không vì thế mà lạm dụng trực quan hoặc trực quan một
cách hình thức.
- Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 không thể nóng vội mà
phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỉ mỉ nhưng cũng rất cương quyết để hình
thành cho các em một phương pháp tư duy học tập. Đó là tư duy khoa học, tư
duy sáng tạo, tư duy lô gic. Rèn cho các em đức tính chịu khó cẩn thận trong
“Giải toán có lời văn”.
- Vận dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp, linh hoạt phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo của học sinh. Không có phương pháp dạy học nào là tối
ưu hay vạn năng, chỉ có lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người thầy
với nghề nghiệp là mang lại kết quả cao trong giảng dạy, là chiếc chìa khoá vàng
tri thức để mở ra cho các em cánh cửa khoa học vì một ngày mai tươi sáng. Đó
là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên. Trong khuôn khổ hạn hẹp của
sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi chiêm nghiệm, trăn trở bằng một tình
yêu nghề nghiệp, hy vọng nó sẽ cùng các bạn đồng nghiệp gần xa trao đổi để
hoàn thành xứ mệnh vẻ vang mà Đảng và nhà nước trao cho nghề thầy giáo.

20



Đối với học sinh lớp 1, các em thực sự là những mầm cây non nớt, để có
được một cây to, cây khoẻ, mỗi giáo viên dạy lớp 1 ngoài việc uốn nắn buộc tỉa
phải biết chăm sóc để các em được phát triển một cách toàn diện. Làm tốt việc
dạy “Giải toán có lời văn “cho học sinh lớp 1 sẽ góp phần vô cùng quan trọng để
phát triển trí tuệ cho các em một cách tổng hợp. Từ đó các em sẽ có một nền
tảng vững chắc để học các môn học khác và tiếp tục học lên các lớp trên.
Đối với bản thân sẽ là thiếu sót với các thế hệ học sinh nếu tôi không vận
dụng triệt để đề tài này. Với những kinh nghiệm thu được từ đề tài này, trong
quá trình giảng dạy những năm tiếp theo, bản thân sẽ vận dụng để thực hiện có
hiệu quả dạy học “ giải toán có lời văn” ở lớp một. Nếu không thực hiện được
như đề tài này nghĩa là tôi đã đánh mất đi lương tâm, trách nhiệm, lòng nhiệt
huyết của người thầy đối với lớp lớp học trò thân yêu, đánh mất đi nền móng
vững chắc những tòa lâu đài sau này của mỗi thế hệ học sinh.
3.2. Kiến nghị
Thực tế cho thấy chương trình môn toán lớp 1 còn nặng ở một số bài, một số
tiết về “Giải toán có lời văn”. Phần thời gian dành cho “Giải toán có lời văn”
thường ở cuối tiết nên đôi khi bị phần trên lấn sang, làm cho nội dung này phải
thực hiện một cách vội vàng, chưa thoả đáng. Đối với học sinh lớp 1 còn vướng
mắc về từ ngữ nên cũng là một khó khăn trở ngại đối với giáo viên trong dẫn dắt
gợi mở cho học sinh. Vì vậy bản thân có những đề xuất kiến nghị như sau:
* Đối với tổ chuyên môn : sinh hoạt chuyên môn thường xuyên, định kì, đột
xuất để thống nhất phương pháp giảng dạy, thống nhất sử dụng đồ dùng dạy học
và phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học. Áp dụng sáng kiến kinh nghiệm để
giờ học đạt hiệu quả
* Đối với nhà trường, phòng giáo dục : Thường xuyên tổ chức chuyên đề đổi
mới phương pháp dạy học, chuyên đề “ Giải toán có lời văn” ở từng khối lớp để
ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học của giáo viên, học sinh.
* Đối với các cấp quản lí giáo dục cấp trên : Cần đầu tư, quan tâm hơn
nữa đến trang, thiết bị dạy học của các nhà trường.
* Đối với chính quyền, nhân dân địa phương : Cần đầu tư cơ sở vật chất phục

vụ tốt cho dạy và học của nhà trường.
Lời kết: Người xưa nói: “Ngôn dị – hành nan”, nói dễ làm khó. Tuy vậy tôi
khẳng định với các bạn đồng nghiệp: Trên đây là những điều hết sức tâm huyết
mà tôi đã thực hiện và thu được những kết quả rất khả quan trong hơn 2 năm
học vừa qua. Chúng tôi rất mong phòng giáo dục tạo điều kiện tổ chức cho
chúng tôi những buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm với những chuyên đề thiết
thực về “Giải toán có lời văn” ở lớp 1 để bổ trợ cho chúng tôi vốn kinh nghiệm
chuyên môn, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học theo tinh thần đổi mới.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác

21


Người viết

Lê Thị Huyền

22



×