Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận Luật kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.83 KB, 18 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------

TIỂU LUẬN
Môn
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ MỚI LUẬT KINH TẾ

Đề tài:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỂ XÂY
DỰNG CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ ĐẤT ĐAI MÀ
NHÀ NƯỚC LÀM ĐẠI DIỆN CHỦ SỞ HỮU Ở VIỆT
NAM
HỌ VÀ TÊN

: HOÀNG THU HUYỀN

MÃ HỌC VIÊN

:

KHOA

: SAU ĐẠI HỌC

NGÀNH

: TỘI PHẠM HỌC VÀ PNTP

Hà Nội – 2020



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁN LỆ HÌNH SỰ VÀ ÁP
DỤNG ÁN LỆ HÌNH SỰ.....................................................................................2
1.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của án lệ hình sự..................................2
1.2. Khái niệm, đặc điểm và các nguyên tắc áp dụng án lệ hình sự................5
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG ÁN LỆ HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM.............................................................8
2.1. Thực trạng áp dụng án lệ hình sự...............................................................8
2.2. Giải pháp nâng cao áp dụng án lệ hình sự...Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN.........................................................................................................13




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ALHS

: Án lệ hình sự

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân Tối cao
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
Chế độ sở hữu luôn là vấn đề quan trọng, cốt lõi ở mỗi quốc gia, nó
đánh dấu ột nhà nước đi theo con đường phát triển theo kiểu tư bản chủ
nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Các nước xã hội chủ nghĩa sẽ lấy chế độ công
hữu làm chủ đạo trong nền kinh tế, ngược lại các nước tư bản chủ nghĩa sẽ
chọn chế độ tư hữu là con đường phát triển chủ đạo. Nước ta đang tiến lên
con đường xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân từ khi được hình thành
lần đầu tiên (ở Hiến pháp năm 1959) đến nay luôn được duy trì qua các bản
Hiến pháp, các văn bản dưới luật ngày càng quy định rõ hơn về chế độ sở
hữu toàn dân như Luật đất đai, Luật doanh nghiệp Nhà nước...
Bên cạnh đó việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân vào thực tiễn đã
đạt được nhiều thành tựu nhất định, góp phần phát huy dân chủ, đưa nền
kinh tế nước nhà phát triển lên tầm cao mới. Tuy nhiên, chế dộ sở hữu toàn
dân vẫn còn là một khái niệm chưa được rõ ràng về mặt pháp lý, từ đó đã
dẫn đến không ít những khó khăn, bất cập trong việc áp dụng, vẫn có sự
mập mờ khó hiểu giữa sở hữu toàn dân và sở hữu Nhà nước. Do đó việc
tìm hiểu những nội dung của khái niệ chế độ sở hữu trở nên thật sự cần
thiết nhất là ở thời điểm hiện nay, khi nước ta đang phát triển kinh tế ở một
tầ cao mới thì vấn đề sở hữu và chế độ sở hữu trở nên cực kỳ quan trọng.

Chính vì những lẽ trên mà việc tìm hiểu, phân tích những quy định
của pháp luật về chế độ sở hữu toàn dân để có những giải pháp khắc phục
những hạn chế, thiếu sót của pháp luật và chế độ sở hữu toàn dân được hiểu
một cách đầy đủ và chính xác nhất trở nên rất cần thiết. Đó cũng là lý do
tác giả chọn đề tài: “Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để xây dựng chế độ
sở hữu toàn dân về đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu ở Việt
Nam”.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU.
1.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của chế độ sở hữu toàn dân.
1.1.1. Khái niệm.
Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu tối cao, được tự do chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt quyền sở hữu. . Quyền sở hữu là quyền được ghi nhận và bảo
vệ của pháp luật đối với một chủ thể. Là chủ sở hữu đồng thời có quyền
ban hành pháp luật, Nhà nước can thiệp rất sâu vào các quan hệ đất đai, cụ thể:
– Nhà nước xác định giá các loại đất trên cơ sở giá trị sử dụng là khả năng
sinh lợi của từng loại đất làm cơ sở, căn cứ để tính thuế chuyển quyền, tính tiền
khi giao đất, cho thuê đất,…
– Nhà nước xây dựng các quy định trong việc quản lý đất đai như xây
dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất góp phần phân bố hợp lý các ngành kinh
tế quốc dân trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương.
– Nhà nước xây dựng các quy định nhằm bảo vệ và phát triển vốn đất đai
của mình như việc khuyến khích người sử đụng đất đầu tư lao động kỷ thuật, vật
tư, tiền vốn và những thành tựu khoa học kỹ thuật để cải tạo và bồi bổ đất đai;
nghiêm cấm việc hủy hoại đất gây tổn hại đến môi trường cũng như các ảnh
hưởng xấu khác đến lợi ích xã hội; loại trừ khả năng coi đất là phương tiện bóc

lột sức lao động của người khác,…
– Nhà nước quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho người sử dụng đất,
thiết lập các điều kiện và cơ sở để người sử dụng đất tham gia vào các quan hệ
chuyển dịch đất đai,…
Từ những vấn đề đã nêu ở trên ta rút ra được định nghĩa về chế độ sở
hữu Nhà nước đối với đất đai như sau:
Chế độ sở hữu Nhà nước (sở hữu toàn dân) đối với đất đai là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ sở hữu đất đai trong đó xác

2


nhận, quy định và bảo vệ quyền lợi của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt đất đai tạo thành sở hữu Nhà nước đối với đất đai.
1.1.2. Chủ thể quyền sở hữu đất đai
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ thể đặc biệt của
quyền sở hữu đất đai vì các lý do sau:
Thứ nhất: Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất và tuyệt đối với toàn bộ vốn
đất đai trên phạm vi cả nước. Nhà nước vừa là chủ thể sở hữu đất đai vừa là chủ
thể quản lý đất đai.
Thứ hai: Nhà nước vừa là người sở hữu vừa là người ban hành pháp luật
nên Nhà nước tự quy định cho mình những biện pháp và cách thức thực hiện các
quyền năng của một chủ sở hữu.
1.1.3. Khách thể quyền sở hữu đất đai
Khách thể quyền sở hữu Nhà nước đối với đất đai là toàn bộ đất đai trên
phạm vi cả nước bao gồm: Đất liền, hải đảo, lãnh thổ. Với tổng diện tích đất tự
nhiên trên 33 triệu ha và được chia thành 3 loại: Đất nông nghiệp, đất phi nông
nghiệp, đất chưa sử dụng.
1.1.4. Nội dung của chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai
- Quyền chiếm hữu

Luật Dân sự định nghĩa rằng: Quyền chiếm hữu là quyền được giữ vật sở
hữu trong tay. Vật sở hữu nằm trong tay ai một cách hợp pháp thì người đó được
quyền chiếm hữu.
Nhà nước các cấp chiếm hữu đất đai thuộc phạm vi lãnh thổ của mình tuyệt
đối và không điều kiện, không thời hạn, Nhà nước cho phép người sử dụng đất
được quyền chiếm hữu trên những khu đất, thửa đất cụ thể với thời gian, có thể
lâu dài nhưng không phải là vĩnh viễn, sự chiếm hữu này chỉ là để sử dụng đúng
mục đích được giao theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta cần phải hiểu rằng, chúng ta không thể đồng
nhất quyền chiếm hữu đất đai của Nhà nước với quyền chiếm hữu tài
sản trong Luật Dân sự. Có thể hiểu: Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ vốn đất
đai trong phạm vi cả nước, quyền kiểm soát và chi phối mọi hoạt động của người

3


sử dụng đất. Xuất phát từ quan điểm như vậy nên đất đai không được quan niệm
là tài sản có thể lưu thông dễ dàng trong đời sống xã hội mà nó là hàng hóa đặc
biệt nằm trong sự kiểm soát và chi phối của Nhà nước.
Như vậy, quyền chiếm hữu đất đai của Nhà nước không bị hạn chế, còn quyền
chiếm hữu đất đai của người sử dụng bị hạn chế bởi các quy định của Nhà nước.
- Quyền sử dụng
Là chủ sở hữu, Nhà nước cũng có quyến sử dụng. Quyền sử dụng đất là
quyền khai thác các thuộc tính có ích từ đất để phục vụ cho các mục đích phát
triển kinh tế và đời sống xã hội.
Nhà nước không trực tiếp sử dụng toàn bộ đất đai mà giao đất cho các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân. Sẽ là một sai lầm nếu quan niệm rằng khi Nhà nước
giao đất cho người sử dụng để khai thác là Nhà nước đã mất đi quyền sử dụng.
Quyền sử dụng của người sử dụng đất hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước. Nhà
nước có thể tước quyền sử dụng đất của người này chuyển cho người khác theo

trình tự pháp luật.
- Quyền định đoạt
Quyền định đoạt là quyền quyết định số phận pháp lý của đất.
Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đất đai thông qua nhiều hình
thức khác nhau:
+ Nhà nước xác định mục đích sử dụng các loại đất trong thành phần đất
đai thống nhất. Chỉ có Nhà nước thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền mới có quyền xác định mục đích sử dụng đất. Người sử dụng đất có nghĩa
vụ sử dụng đất đúng mục đích được giao, không được tự ý chuyển mục đích sử
dụng từ loại đất này sang loại đất khác.
+ Nhà nước tiến hành giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, phạn chia điều
chỉnh đất đai giữa những người sử dụng.
+ Nhà nước quy định các quyền và nghã vụ cho người được Nhà nước
giao đất cho sử dụng. Đồng thời bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ được thực
hiện trên thực tế.

4


Quyền định đoạt là quyền năng duy nhất do Nhà nước thực hiện. Các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp
nhưng không có quyền định đoạt đất đai. Mọi hành vi vi phạm đến quyền sở hữu
của Nhà nước thì sẽ chiếu theo tính chất nghiêm trọng của hành vi mà Nhà nước
quyết định các biện pháp xử lý thích đáng, phù hợp với pháp luật đất đai.
1.2. Cơ sở lý luận trong việc xây dựng chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai.
Trước đây, Việt Nam cũng giống như nhiều nước trên thế giới thừa nhận
sự tồn tại cả nhiều hình thức sở hữu khác nhau về đất đai. Hiến pháp 1980 ra đời
đã là dấu mốc mang tính bước ngoặt cho sự thay đổi về chủ sở hữu của toàn bộ
đất đai trên lãnh thổ. Điều 19 Hiến pháp 1980 quy định: Đất đai thuộc sở hữu

toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Từ đây nhà nước chỉ thừa nhận suy
nhất một hình thức sở hữu về đất đai đó là sở hữu toàn dân. Hình thức sở hữu
này lại tiếp tục được khẳng định tại điều 17 của Hiến pháp 1992. Bên cạnh đó
theo chủ nghĩa Mác-Lê nin về tính tất yếu của việc quốc hữu hóa đất đai. Học
thuyết Mác-Lê nin cho rằng nhân loại cần phải thay thế hình thức sở hữu tư
nhân về đất đai bằng cách “xã hội hóa” đất đai thông qua việc thực hiện quốc
hữu hóa đất đai. Quốc hữu hóa đất đai là một việc làm mang tính tất yếu khách
quan và phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội loài người
Bởi các lý do sau:
Thứ nhất, trên phương diện kinh tế, việc tích tụ, tập trung đất đai sẽ đem
lại năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao hơn so với việc sản xuất nông
nghiệp trong điều kiện duy trì hình thức sở hữu tư nhân về đất đai.
Việc sở hữu tư nhân về đất đai dẫn đến việc chia nhỏ, manh mún đất đai.
Điều này không phù hợp với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất
và phương thức sản xuất trong nông nghiệp, cản trở việc áp dụng máy móc và
các thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp.
Để khắc phục nhược điểm này cần phải tích tụ, tập trung đất đai thông qua việc
quốc hữu hóa đất đai.

5


Thứ hai, các nhà sáng lập chủ nghãi Mác-Lê nin nhận thấy: đất đai không
do bất cứ ai tạo ra, có trước con người và là vật tặng của thiên nhiên ban tặng
cho con người, mọi người đều có quyền sử dụng. Không ai có quyền biến đất
đai-tài sản chung của con người thành của riêng mình.
Thứ ba, nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông
nghiệp, C.Mác đưa ra kết luận rằng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát
triển thì đất càng bạc màu nhanh chóng. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong nông nghiệp được xác lập và vận hành dựa trên ba chủ thể cơ bản là chủ

đất, nhà tư bản và người lao động. Xét dưới góc độ kinh tế thì hiệu quả kinh tế
mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mang lại dựa trên
sự khai thác tối đa có xu hướng làm đất “kiệt quệ hóa” đất đai.
Mặt khác xét về phương diện xã hội, sở hữu tư nhân về đất đai vô hình
chung trở thành phương tiện để giai cấp tư sản thực hiện việc khai thác, bóc lột
người lao động để làm giàu cho mình. Muốn giải phóng người lao động tiến lên
xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng và tiến bộ cần phải thủ tiêu hình thức
sở hữu tư nhân về đất đai của giai cấp tư sản chiếm thiểu số trong xã hội. Đồng
thời, chủ nghĩa Mác-Lê nin cũng chỉ rõ sứ mệnh thủ tiêu hình thức sở hữu đất
đai đó thuộc về những người lao động tập hợp xung quanh bộ tham mưu lãnh
đạo là giai cấp công nhân.
Thứ tư, quốc hữu hóa đất đai do giai cấp vô sản thực hiện phải gắn bó với
vấn đề chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản. Lê nin đã kế thừa và phát
huy luận điểm cách mạng đó của C.Mác và Ph. Ăng ghen về quốc hữu hóa đất
đai. Người cho rằng một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chính quyền côngnông là phải xác lập chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong phạm vi toàn quốc
nhằm đem lại ruộng đất cho người dân.
Thứ năm, việc xóa bỏ chế độ tư hữu về ruộng đất của giai cấp tư sản phải
là một quá trình tiến hành lâu dài, gian khổ. Dù khẳng định rằng tiến hành quốc
hữu hóa đất đai là một tất yếu khách quan. Song các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác-Lê nin cũng khẳng định rằng không thể xóa bỏ ngay lập tức chế độ tư hữu
về ruộng đất, đây phải là một quá trình lâu dài. V.I.Lênin đã khẳng định “Quốc

6


hữu hóa đất đai là một quy luật tất yếu khách quan đối với bất kỳ nước nào làm
cách mạng vô sản nhưng không nhất thiết phải tiến hành ngay lập tức khi giai
cấp vô sản giành chính quyền mà có thể dần dần từng bước từ thấp đến cao, từ
tập thể hóa đến xã hội hóa.”.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lê nin đã là một trong những cơ sở để hình thành

nên chế độ sở hữu về đất đai như ngày nay ở nước ta. Theo khẳng định của Lê nin
thì bất cứ quốc gia nào làm cách mạng vô sản thì quốc hữu hóa đất đai cũng là
một quy luật tất yếu. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
1.3. Cơ sở thực tiễn trong việc xây dựng chế độ sở hữu toàn dân đối
với đất đai.
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý khoa học của học thuyết Mác-Lê nin
về quốc hữu hóa đất đai vào thực tiễn cách mạng Việt Nam quá trình quốc hữu
hóa ở nước ta đã trải qua các thời kỳ lịch sử. Đặc biệt nhất là hình thức sở hữu
toàn dân đã được khẳng định rõ ràng qua hai bản Hiến pháp 1980 và 1992.
Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân của hai bản Hiến pháp trên dựa trên
những cơ sở thực tiễn chủ yếu như sau:
Thứ nhất, về mặt chính trị, ở nước ta, vốn đất đai quý báu do công sức,
mồ hôi, xương máu của các thế hệ người Việt Nam tạo lập nên, vì vậy nó phải
thuộc về toàn thể nhân dân.
Thứ hai, về phương diện lịch sử, ở nước ta hình thức sở hữu nhà nước về
đất đai đã xuất hiện từ rất sớm và tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử phát triển
của dân tộc.
Thứ ba, về mặt thực tế, nước ta còn gần một nửa diện tích đất tự nhiên
chưa sử dụng (khoảng hơn 10 triệu ha – số liệu của Tổng cục thống kê đất đai
toàn quốc năm 2000). Việc xác lập đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước
thống nhất quản lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước trong việc xây dựng,
quy hoạch sử dụng đất đai theo kế hoạch phát triển chung nhằm quản lý chặt chẽ
và từng bước đưa diện tích đất hoang vào khai thác, sử dụng. Đồng thời trong
thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thì quốc hữu hóa đất đai cũng sẽ

7


tạo điều kiện cho nhà nước trong việc sử dụng đất cho các mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội vì lợi ích chung của toàn xã hội.

Thứ tư, việc duy trì và củng cố hình thức sở hữu toàn dân về đất đai trong
giai đoạn hiện nay còn căn cứ vào lý do thực tiễn. Các quan hệ về quản lý đất đai ở
nước ta mang tính ổn định trong thời gian khá dài, nếu thay đổi hình thức sở hữu sẽ
dẫn đến sự xáo trộn trong lĩnh vực đất đai, tăng tính phức tạp của quan hệ đất đai.
Thông qua việc sở hữu đất đai ở thời kỳ phong kiến của bài viết ta đã thấy
rõ rằng: “tổ tiên đã để lại một di sản pháp luật sở hữu về đất đai, tuy không tinh
xảo, song cũng đủ minh định rõ ràng ai là chủ nhân của hàng trăm triệu ô thửa
đất kiến tạo nên lãnh thổ quốc gia.”. Từ đó ta rút ra được nhữ đặc điểm về quan
hệ chiếm hữu ruộng đất trong lịch sử Việt Nam: Quyền sở hữu của nhà nước đối
với đất đai được hình thành từ rất sớm ở nước ta. Ở Việt Nam, nhà nước giữ
quyền sở hữu tối cao đối với toàn bộ đất đai của quốc gia. Quyền tư hữu đối với
đất đai bị hạn chế và không hoàn chỉnh, luôn bị chi phối bởi quyền sở hữu tối
cao của nhà nước.
Như vậy, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta hiện nay được xây
dựng không chỉ dựa vào những luận cứ khoa học của học thuyết Mác – Lê nin
về quốc hữu hóa đất đai mà còn do điều kiện thực tiễn đặc thù của đất nước và
kế thừa những phong tục tập quán của cha ông ta trong lịch sử.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TOÀN DÂN ĐỐI VỚI ĐẤT
ĐAI.
2.1. Thực trạng của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
ở nước ta hiện nay
2.1.1. Thực trạng.
Ở nước ta việc thể chế hóa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong Hiếp
pháp và Luật Đất đai đã nhận được sự đồng tình, nhất trí cao trong nhân dân,
thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã tránh được những hậu quả do chế
độ sở hữu tư nhân đất đai gây ra. Ta thấy,sở hữu toàn dân về đất đai không phải
thuộc sở hữu của riêng ai mà toàn thể nhân dân là chủ sở hữu đối với đất đai,

8



Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và được giao nhiệm vụ thống nhất quản lý.
Việc quy định Nhà nước ở nước ta là đại diện chủ sở hữu đất đai và thống nhất
quản lý xuất phát từ bản chất của Nhà nước là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà
nước của dân do dân và vì dân, mọi tài sản, tư liệu sản xuất do Nhà nước đại
diện cho dân là chủ sở hữu đều được sử dụng vào mục đích phục vụ lợi ích
chung của toàn thể nhân dân. Trong thời gian qua, ở nước ta tuy nảy sinh một số
tiêu cực, hạn chế trong quản lý, sử dụng đất đai, song những hạn chế, tiêu cực
đó không phải do bản chất của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai gây ra. Những
hạn chế, tiêu cực đó một mặt, do sự yếu kém trong quản lý đất đai của Nhà nước
ta, chính sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ, đến nay, các chủ trương, chính
sách,pháp luật về đất đai còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; tổ chức
bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai còn không ít hạn chế, yếu
kém, một bộ phận còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng; mặt
khác, do nước ta trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau, đất đai có
nguồn gốc rất phức tạp. Từ thực trạng đó, LuậtĐất đai năm 2013 đã có những
điều chỉnh, bổ sung để việc quản lý, sử dụng đất đai chặt chẽ,hiệu quả hơn, hạn
chế nảy sinh những tiêu cực, hạn chế.
2.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Ở nước ta, vốn đất đai quý báu do công sức, mồ hôi, sương máu của các
thế hệ người Việt Nam tạo lập nên, vì vậy nó phải thuộc về toàn dân. Hơn nữa,
hiện nay trong điều kiện nước ta “mở cửa”, chủ động hội nhập từng bước vững
chắc vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
thì việc xác lập hình thức sở hữu toàn dân về đất đai là một trong những phương
thức nhằm góp phần củng cố và bảo vệ vững chắc nền độclập dân tộc.Việc thực
hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta hiện nay còn tránh được những
hậu quả do chế độ sở hữu tư nhân đất đai gây ra. Nghiên cứu sản xuất nông
nghiệp,trực tiếp là địa tô trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, Các Mác và sau đó
là V.I.Lênin đã chỉra tính chất vô lý của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất,

nguồn gốc đẻ ra địa tô, làm cho giá cả nông phẩm tăng, kìm hãm sự phát triển
của nông nghiệp. Để khắc phục tình trạng này,V.I.Lênin đã chủ trương phải quốc

9


hữu hoá đất đai, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về đất đai,thay vào đó là chế độ
công hữu về đất đai.Việc xác lập đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lí sẽ giúp Nhà nước có điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng
quy hoạch sử dụng đất đai theo kế hoạchphát triển chung nhằm quản lí chặt chẽ
và từng bước đưa diện tích đất chưa sử dụng (hơn 4,5triệu ha đất tự nhiên) vào
khai thác, sử dụng hợp lí đi đôi với việc cải tạo, bồi bổ vốn đất đaiquý giá của
quốc gia. Bên cạnh đó, trong giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới
đất nước hiện nay thì việc xác lập hình thức sở hữu toàn dân về đất đai sẽ tạo ưu
thế và thuận lợi cho Nhà nước trong việc sử dụng đất cho các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội vìlợi ích chung của toàn xã hội. Các quan hệ về quản lí và sử
dụng đất đai ở nước ta được xác lập dựa trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước thống nhất quản lí đã mang tính ổn định trong một thời gian khá
dài (từ năm 1980 đến nay). Nay nếu thay đổi hình thức sở hữu đất đai này sẽ dẫn
đến những sự xáo trộn trong lĩnh vực đất đai, làm tăng tính phức tạp của các
quan hệ đất đai; thậm chí dẫn đến sự mất ổn định về chính trị - xã hội của đất
nước.Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, quy định Nhà nước là đại diện quyền sở
hữu, thực tế trong nhiều trường hợp, không biết ai là “Nhà nước” thực sự, chính
quyền trung ương hay chính quyền địa phương, do đó dẫn đến lạm quyền trong
việc thu hồi đất, xâm hại quyền lợi của người dân nhưng lại để đất đai rơi vào
tay các nhóm lợi ích, khiến cả quyền lợi của người dân lẫn lợi ích quốc gia
không được bảo đảm. Hậu quả là trong một số trường hợp đất đai sẽ được
chuyển từ người dân nghèo sang tay “các đại gia” với giá rất thấp. Đồng
thời,bằng động tác đầu tư trở lại, “các đại gia” này lại bán đất ra với giá cao cho
người dân có nhu cầu. Không ít trường hợp đất đai bị thu hồi để rồi bỏ hoang,

bởi những dự án “treo”không có điểm dừng, trong khi người dân không có đất
để ở hoặc canh tác. . Tình trạng quy hoạch bị điều chỉnh tùy tiện, quy hoạch
treo, thu hồi đất một cách tùy tiện của cơ quan nhà nước, tình trạng đất thu hồi
bị bỏ hoang còn người mất đất lâm vào tình trạng thất nghiệp,khó khăn, … cho
thấy quản lý của Nhà nước chưa tương xứng với yêu cầu cần phải có trongchế
độ sở hữu toàn dân.Quá trình phát triển kinh tế thị trường dẫn đến nhu cầu tư

10


nhân hóa về quyền sử dụng một bộ phận đất đai, điều này cũng tác động làm
biến dạng chế độ sở hữu toàn dân về đấtđai. Trong chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai và quá trình phát triển kinh tế thị trường, chủ thể sở hữu đất đai luôn luôn
tách rời khỏi người sử dụng đất. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, cố gắng duy
trì quyền sở hữu của mình bằng cách can thiệp vào quá trình sử dụng, địnhđoạt
đất đai. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là sự can thiệp một cách chủ động của Nhà
nước đã và đang dần dần bị hạn chế bởi chính các yếu tố thị trường, từ đó làm
phá vỡ các quy hoạch và kế hoạch chủ động của Nhà nước về đất đai, buộc các
cơ quan quản lý nhà nước phải thường xuyên thay đổi các quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đã ban hành, làm cho chính sách về đất đai bất ổn, gây khó khăn cho
các đối tượng được giao quyền sử dụng đất. Việc nhận thức và vận dụng không
đúng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong thờigian qua đã dẫn đến sự lãng
phí về đất đai, gây thiệt hại cho người sử dụng đất, đồng thời nảy sinh những
tiêu cực, mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực này. Từ đó dẫn đến sự hoài nghi chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai, nảy sinh ý kiến đòi hỏi phải thay đổi chế độ sở
hữu toàndân về đất đai.
2.2. Phương hướng hoàn thiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Ở Việt Nam, đất đai là tài sản chung của quốc gia và Nhà nước đại diện
cho nhân dân thực hiện quyền của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt của toàn bộ đất đai trên lãnh thổ. Điều đó được thể hiện ở Điều 53

Hiến pháp năm 2013 và Điều 4 Luật đấtđai năm 2013. Vì vậy có thể coi hoàn
thiện chế độ sở hữu toàn dân chính là việc hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền
chủ sở hữu của Nhà nước, cơ chế quản lý của Nhà nước đối với đất đai.Đối với
việc hoàn thiện chế độ sở hữu toàn dân trong cơ chế thị trường hiện nay, cần đề
ra một số phương hướng sau:
Thứ nhất, tiếp tục phát triển các ưu điểm của chế định sở hữu toàn dân về
đất đai: Chế định sở hữu toàn dân về đất đai là sự thể chế hóa những quan điểm,
đường lối chủ đạo của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề đất đai, nông nghiệp, nông
dân và nông thôn trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Việc xác lập chế định sở hữu toàn dân về đất đai góp phần

11


vào việc giữ ổn định quan hệ đất đai, tránh gây ra những xáo trộn không cần
thiết và duy trì sự ổn định chính trị, xã hội là tiền đề rất quan trọng để phát triển
đất nước, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Pháp luật đất đai cần
phải được xây dựng, bổ sung toàn diện và ổn định trong thời kỳ dài với mức độ
sâu sắc hơn. Bên cạnh việc khẳng định quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
Luật đất đai 2003 đã kế thừa quy định của Luật đất đai 2003: “Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”Pháp luật đất đai cần phải thể
hiện rõ nội dung kinh tế trong quản lý và sử dụng đất tạo điều kiện cho thị
trường bất động sản hình thành và phát triển một cách lành mạnh. Quy địnhhợp
lý hơn về giá đất, góp phần thúc đẩy các hoạt động tài chính đất đai trong một
trật tự nhất định.
Thứ hai, công tác quy hoạch việc sử dụng đất phải được thực hiện có hiệu
quả hơn, thiết thực hơn. Quy hoạch phải được công khai. Trong việc quy hoạch
phải có quá trình tham gia ý kiến của nhân dân, tránh tình trạng thiếu công khai
là một trong những nguyên nhân của tệ nạn tham nhũng, hối lộ gây nhiều bức
xúc trong suốt thời gian vừa qua.

Thứ ba, các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai phải nâng cao năng lực,
trình độ quảnlý sử dụng phối hợp có hiệu quả các công cụ quản lý.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong nền kinh
tế thịtrường.
+ Việc củng cố hoàn thiện quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai phải đảm
bảo quyềnquản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với toàn bộ vốn đất
đai trong phạm vi cảnước.
+ Mở rộng các quyền của người sử dụng đất nhằm khuyến khích tạo điều
kiện để họ gắn bó chặt chẽ, lâu dài với đất đai, khuyến khích đầu tư bồi bổ, cải
tạo đất, tăng cường trách nhiệm, nghĩa vụ của họ trong bảo vệ đất đai.
+ Việc đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai phải hướng tới việc
xây dựng và quản lý tốt thị trường bất động sản có tổ chức ở nước ta.Trong văn
kiện Đại hội Đảng IX nêu rõ: “Phát triển thị trường bất động sản trong đó có thị
trường quyền sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển quyền sử dụng

12


đất…, mở rộng thị trường bất động sản cho các thành phần kinh tế, người Việt
Nam ở nước ngoài, người nước ngoài ở Việt Nam tham gia đầu tư…”. Đây có
thể coi là một xu hướng hoàn thiện chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai.

KẾT LUẬN
Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức thực thi chế định sở hữu toàn dân về đất
đai còn bộc lộ một số bất cập và hạn chế nhất định. Bên cạnh đó, yêu cầu của sự
nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước đang đặt ra những nội dung mới cho chế định sở hữu đất đai, để đảm
bảo tính kế thừa và duy trì sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước trong giai
đoạn hiện nay, chúng ta cần đánh giá những thành tựu và nhận diện một số hạn
chế, bất cập của chế định sở hữu toàn dân về đất đai để từ đó có những giảipháp

khắc phục. Từ đó tiến đến xây dựng hệ thống pháp luật về đất đai hợp lý,
nghiêm ngặt, có thể giải quyết được những vấn đề thực tiễn, đóng góp to lớn vào
sự nghiệp xây dựng đấtnước trong thời kỳ đổi mới.

13


DANH MỤC THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2002), Báo cáo tổng kết 10 năm
thi hành Luật Đất đai.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Báo cáo chuyên đề sở
hữu đất đai phục vụ tổng kết thi hành Hiến pháp 1992.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo Tổng kết thi
hành Luật Đất đai 2003.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo tổng kết Nghị quyết số
26- NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đấy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Báo cáo Công tác Quản
lý Nhà nước về đất đai năm 2014, 6 tháng đầu năm 2015 và tình
hình triển khai thi hành Luật Đất đai và những vấn đề cần giải
quyết tháo gỡ.
6. Hiệp hội bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Một số ý
kiến quan ngại khi thực hiện Luật đất đai 2013.
7. Nguyễn Văn Khánh (2013), “Về quyền sở hữu đất đai ở Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà nội, Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Tập 29, Số 1 (2013) 1-16.
8. C. Mác- Ăng ghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia (1994), Hà
Nội, Tr.244- Tr.245.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện đại hội đại biểu
toàn quốc thời kỳ đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam,
NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Quốc hội (2005), Bộ Luật Dân sự 2005.
14


12. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa,
năm 1959. Điều 11.
13. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1946, Điều 12.
14. Quốc hội (1992), Hiến pháp 1992.
15. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013.
16. Quốc hội (1987), Luật Đất đai 1987.
17. Quốc hội (1993), Luật Đất đai 1993.
18. Quốc hội (2003), Luật Đất đai 2003.
19.Quốc hội (2013), Luật Đất đai 2013.

15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×