BGIODCVOTOBYT
TRNGIHCYHNI
NGUYNCễNGH
nghiêncứukếtquảsớmvàtrunghạncủa
phơngpháPBíTthôngliênthấtphầnquanhmàngquA
ốNGTHÔNGbằngdụngcụhaiđĩađồngtâm
LUNNTINSYHC
HNIư2020
BGIODCVOTOBYT
TRNGIHCYHNI
NGUYNCễNGH
nghiêncứukếtquảsớmvàtrunghạncủa
phơngpháPBíTthôngliênthấtphầnquanhmàngquA
ốNGTHÔNGbằngdụngcụhaiđĩađồngtâm
Chuyờnngnh :NiTimmch
Mós
:62720141
LUNNTINSYHC
Ngihngdnkhoahc:
GS.TS.NGUYNLNVIT
HÀ NỘI 2020
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, bên cạnh sự cố gắng nỗ lực của bản
thân, tôi cũng nhận được sự giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Nhân dịp hoàn thành công trình này, với lòng kính trọng và biết ơn sâu
sắc, tôi xin chân thành cảm ơn tới:
GS.TS. Nguyễn Lân Việt, người thầy đã tận tình giúp đỡ, động viên
hướng dẫn, tạo mọi điều kiện, luôn chỉ bảo, giúp đỡ tôi trưởng thành trong
công tác nghiên cứu khoa học và hoàn thành luận án này.
Tiếp theo, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS. Nguyễn Lân Hiếu,
thầy đã dẫn dắc, hướng dẫn tôi từ khi bắt đầu làm các thủ thuật can thiệp
tim bẩm sinh đặt biệt là kỹ thuật bít thông liên thất.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới GS.TS Đỗ Doãn Lợi,
PGS. TS Phạm Mạnh Hùng, PGS. TS Trương Thanh Hương, PGS. TS
Hồ Sỹ Hà, TS Phan Đình Phong, cùng các thầy cô trong hội đồng chấm
luận án cấp cơ sở, các thầy cô phản biện, bộ môn Tim mạch, trường Đại
học Y Hà nội, những người thầy, cô đã giúp đỡ, đóng góp ý kiến cho luận
án, truyền nhiệt huyết và sự đam mê cho tôi để hoàn thành luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Bệnh viện Tim Hà Nội, đặc
biệt PGS.TS Nguyễn Sinh Hiền anh đã luôn động viên, giúp đỡ và tạo
điều kiện cho tôi trong suốt quá trình công tác và thực hiện luận án.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới Ban lãnh đạo và
tập thể nhân viên Trung tâm tim mạch can thiệp – cấp cứu, Khoa tim mạch
Nhi, Khoa khám bệnh, Phòng Kế hoạch tổng hợp Bv Tim Hà Nội, những
người đồng nghiệp luôn sát cánh bên tôi, ủng hộ và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu, Phòng đào tạo
Sau đại học, Trường Đại học Y Hà Nội, đã tạo mọi điều kiện cho tôi được
học tập và hoàn thành luận án tại ngôi trường giàu truyền thống này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn vô hạn tới bố mẹ, vợ, các con và
toàn bộ anh chị em, bạn bè thân yêu đã ủng hộ, chia sẻ và đồng hành cùng
tôi trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, ngày 09 tháng 06 năm 2020
Nguyễn Công Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Công Hà, nghiên cứu sinh khóa 31 Trường Đại học
Y Hà Nội, chuyên ngành Nội tim mạch, xin cam đoan:
1. Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của thầy GS.TS. Nguyễn Lân Việt.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 09 tháng 06 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Công Hà
Nguyễn Công Hà
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Amplatzer (AVSO)
BAV
BN
Catheter
CI
Cs
Delivery
ĐK
ĐMC
ĐMP
DO
ĐTĐ
HoBL
HoC
KT
Lê VSD Coils
n
NLH
p
Pigtail
PT
Qp/Qs
SA
SD
Shunt
Snare
TBS
TLT
TP
TTr
VBL
VHL
VLT
Wire
Dụng cụ đóng thông liên thất của AGA (dù)
Block nhĩ thất
Bệnh nhân
Ống thông
Khoảng tin cậy
Cộng sự
Hệ thống thả dù
Đường kính
Động mạch chủ
Động mạch phổi
Dụng cụ dóng ống động mạch
Điện tim đồ
Hở van ba lá
Hở van động mạch chủ
Kích thước
NitOcclud ® Lê VSDCoils
Số lượng bệnh nhân, cỡ mẫu
Nguyễn Lân Hiếu
Giá trị p
Ống thông hình đuôi lợn
Phẫu thuật
Cung lượng phổi/cung lượng chủ
Siêu âm
Độ lệch chuẩn
Luồng thông (dòng thông)
Dụng cụ bắt dị vật
Tim bẩm sinh
Thông liên thất
Thất phải
Thất trái
Van ba lá
Van hai lá
Vách liên thất
Giá trị trung bình
Dây dẫn đường cho ống thông
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC HÌNH
10
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thông liên thất (TLT) là khi có sự thông thương giữa buồng th ất trái
(TTr) và thất phải (TP) với nhau, có thể TLT đơn thuần hoặc phối hợp
với các tổn thương tim khác [2 , 3 ]. Thông liên thất là một trong những
bệnh tim bẩm sinh (TBS) hay g ặp nh ất chi ếm kho ảng 20 30%, là bệnh
TBS mà các bác sĩ tim mạch nhi và phẫu thuật viên TBS gặp thường
xuyên nhất [4 ]. Có nhiều thể TLT khác nhau, một số thể TLT có thể tự
bít kín và một số khác lại có thể gây suy tim, tăng áp lực động mạch
phổi sớm. Vì vậy quyết định khó khăn nhất đối với các bác sĩ tim mạch
nhi, bác sỹ can thiệp cũng như các phẫu thuật viên là thời điểm nào cần
điều trị, đặc biệt là chỉ định can thiệp qua da hay ph ẫu thu ật (PT) ho ặc
theo dõi nội khoa [5 , 6 ].
Can thiệp phẫu thuật bệnh TLT bắt đầu từ năm 1952, khi Muller và
Dammann thắt hẹp (banding) thân động mạch phổi (ĐMP) lại với mục đích
để hạn chế dòng máu lên phổi ở bệnh nhân TLT lỗ lớn [ 7]. Bệnh nhân
(BN) đầu tiên được phẫu thuật vá TLT do Lillehei và cộng sự (cs) thực
hiện vào năm 1954, sử dụng tuần hoàn chéo với một người lớn đóng vai trò
như một bơm ôxy [8]. Sau đó sự phát triển của tim phổi máy đã được áp
dụng rất rộng rãi và cho kết quả lâm sàng rất tốt. Dushane và cs năm 1956
đã báo cáo phương pháp vá TLT qua mở thất với tỷ lệ tử vong chấp nhận
được. Trong khi đó Stirling và cs báo cáo PT vá TLT qua đường mở nhĩ để
tránh đường mở thất. Năm 1961, Kirklin và cs rồi sau đó là Sigmann báo
cáo phẫu thuật vá TLT ở trẻ nhỏ thành công. Tiếp đó, những tác giả khác
như Okamoto (1969), BarrattBoyes (1976) đã áp dụng PT vá TLT ở trẻ nhỏ
dùng phương pháp hạ thân nhiệt sâu và ngừng tuần hoàn. Từ đó rất nhiều
tiến bộ trong kỹ thuật chạy tim phổi máy, bảo vệ tim đã cho phép phẫu
11
thuật viên phẫu thuật vá TLT với kết quả rất khả quan và tỷ lệ tai biến
giảm dần khi theo dõi cả trong thời gian ngắn và dài hạn [914].
Trong điều trị bệnh TLT, phương pháp kinh điển là phẫu thuật tim hở
với sự hỗ trợ của tuần hoàn ngoài cơ thể để vá lỗ TLT, được cho là phương
pháp chuẩn vàng, nhưng vẫn còn những tai biến của chạy tuần hoàn ngoài
cơ thể, tai biến gây mê hồi sức, nhiễm trùng xương ức, tai biến thần kinh...
[1517].
Trong những thập kỉ gần đây có rất nhiều tiến bộ trong điều trị bệnh
TLT, trong đó phương pháp bít TLT qua da bằng dụng cụ hiện đang thu hút
sự quan tâm lớn của các bác sĩ can thiệp bệnh TBS bởi tính khả thi về mặt
kỹ thuật cũng như kết quả tốt của phương pháp can thiệp bít TLT qua da,
nhất là thể TLT phần cơ, TLT phần quanh màng [5, 18, 19].
Từ năm 1987 các dụng cụ (Rashkind và Button) được thiết kế để bít
ống động mạch và thông liên nhĩ nhưng đã được sử dụng để bít TLT phần
quanh màng [2024]. Trở ngại lớn nhất của các dụng cụ này là phải dùng bộ
thả dù (delivery) lớn (11F), không thu dụng cụ lại được, tỷ lệ thông (shunt)
tồn lưu cao (2560%) và có thể ảnh hưởng đến cấu trúc xung quanh như van
động mạch chủ (ĐMC) và van ba lá (VBL) [22].
Dụng cụ đầu tiên được thiết kế để bít TLT phần quanh màng ra đời
gọi là Amplatzer đóng vách (AVSO) do hãng AGA sản xuất, là hãng do một
bác sỹ người Áo có tên là Kurt Amplazt thành lập năm 1995. Năm 2002,
Hijazi và cs báo cáo dụng cụ này được sử dụng bít cho 6 BN với kết quả là
không có trường hợp nào còn shunt tồn lưu và tai biến ý nghĩa [25, 26]. Sau
đó có nhiều nghiên cứu áp dụng cụ Amplatzer nhưng c òn nhiều bàn cãi về
tính an toàn của dụng cụ này như gây hở van ĐMC, tan máu, rơi dụng cụ,
HoBL, viêm nội tâm mạc và BAV. Tai biến BAV có nghiên cứu là 5,7% cao
12
hơn nhiều so với phẫu thuật do vậy hiện tại dụng cụ Amplatzer đóng vách
này đã dừng áp dụng do những tai biến nêu trên đặc biệt là tỷ lệ BAV cao
[16, 17, 2730].
Với mục đích tăng hiệu quả và giảm thiểu các tai biến, gần đây một
số dụng cụ mới ra đời hứa hẹn khắc phục được nhược điểm của dụng cụ
Amplatzer. NitOcclud ® Lê VSDCoils (Lê VSD Coils) của hãng PFM đã
được áp dụng và cho kết quả thành công cao, tuy có giảm được các tai biến
như BAV, HoC nhưng tỷ lệ shunt tồn lưu và tan máu còn cao [31]. Tác giả
Nguyễn Lân Hiếu và một số tác giả khác cũng đã dùng dụng cụ bít ống
động mạch để bít TLT cho kết quả ngắn và trung hạn tốt, tỷ lệ thành công
khoảng 96% nhưng vẫn còn một số tai biến [18, 32].
Dụng cụ hai đĩa đồng tâm ra đời cũng nhằm mục đích trên, dụng cụ
này đã cải tiến thiết kế của dụng cụ Amplatzer là 2 đĩa đồng tâm và đĩa trái
nhỏ hơn (từ 6mm xuống còn 4mm) và chiều dày lớn hơn (từ 1,5mm lên
3mm). Dụng cụ này đã được nghiên cứu, áp dụng lâm sàng và báo cáo, đăng
tải trên nhiều Tạp chí tim mạch lớn trên thế giới với kết quả thành công
cao và tai biến thấp trong theo dõi trong dài hạn [19, 33, 34].
Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Lân Hiếu và các đồng nghiệp khác ở các
Trung tâm Tim mạch đã áp dụng nhiều loại dụng cụ để bít TLT phần
quanh màng như Lê VSD Coils, dụng cụ bít ống động và đã có một số báo
cáo cho kết quả ngắn và trung hạn tốt [32, 35]. Với dụng cụ hai đĩa đồng
tâm cũng đã được sử dụng cho kết quả lâm sàng tốt nhưng chưa có nghiên
cứu cụ thể nào về tính an toàn và hiệu quả của dụng cụ này tại Việt Nam.
Vì vậy, để góp phần tìm hiểu kết quả của bít TLT phần quanh màng
bằng dụng cụ hai đĩa đồng tâm, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu kết quả sớm và trung hạn của phương pháp bít thông liên
thất phần quanh màng qua ống thông bằng dụng cụ hai đĩa đồng tâm"
13
nhằm 02 mục tiêu sau:
1. Đánh giá tính khả thi, kết quả sớm và trung hạn của phương
pháp bít TLT phần quanh màng qua ống thông bằng dụng cụ hai
đĩa đồng tâm tại Bệnh viện Tim Hà Nội.
2. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của thủ thuật
này.
14
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.
1.1.
Đại cương về bệnh thông liên thất
Tỷ lệ bệnh
Thông liên thất là bệnh TBS phổ biến nhất nếu không tính dị tật van
ĐMC có hai lá van và sa van hai lá bẩm sinh [2, 36, 37]. Thực ra rất khó biết
chính xác là tỷ lệ thật TLT chiếm bao nhiêu vì phần lớn TLT là lỗ nhỏ
không có triệu chứng, vì vậy trước đây không có một số liệu thống kê nào
về tỷ lệ bệnh này, từ khi có siêu âm (SÂ) 2D và Doppler màu thì người ta
mới thống kê được tỷ lệ bệnh TLT tương đối chính xác [ 38]. Hơn nữa một
số TLT đã tự bít kín thể hiện qua mổ tử thi thấy di tích lỗ TLT. Do vậy các
dữ liệu cho thấy tỷ lệ bệnh này còn cao hơn các số liệu thống kê [2, 39].
Tác giả Hoffman phân tích gộp 22 thống kê thấy tỷ lệ TLT là 31% trong các
bệnh TBS. Sự ra đời của SÂ đã làm thay đổi thống kê bệnh TLT, điều này
lại được khẳng định chắc chắn hơn ở nghiên cứu Baltimore – Washington
khi dùng siêu âm để chẩn đoán TLT, số liệu cho thấy tỷ lệ TLT phần cơ cao
gấp 10 lần so với các thống kê trước đây và tỷ lệ TLT chiếm 1/ 3 tất cả các
dị tật TBS, tương đương nghiên cứu Malta. Thông liên thất có tỷ lệ cao ở
nhóm trẻ đẻ non thiếu tháng, nhẹ cân nhưng không liên quan ý nghĩa đến
giới, chủng tộc, tuổi mẹ, số lần sinh hay điều kiện kinh tế xã hội [2, 40, 41].
1.2.
Bào thai học
Sau khi tạo thành ống tim nguyên thủy theo tư thế bình thường hay
đảo ngược trong tuần thứ tư của bào thai, các thành phần vách liên thất
(VLT) của ống tim bắt đầu phần cuối cùng của phần hoành và phần dưới
của tim. Phần cơ của vách thất được thành lập bởi nếp gấp cơ thất, nó
15
thường thẳng hàng với vách nón ngăn cách đường ra TP với đường ra TTr.
Van Praagh đã mô tả sự hình thành VLT phần cơ từ sự đan chéo với vách
nón tạo hình chữ Y mà ngã ba là dải vách (septal band) [ 42]. Phần vách cuối
cùng hình thành là VLT phần màng gần phần mép trước vách của VBL.
Vách màng nằm phía dưới của nửa trước lá không vành van ĐMC và phía
dưới mép lá không vành và lá vành phải của van ĐMC. Vách hình thành đầy
đủ vào ngày thứ 38 đến 45 của quá trình bào thai [3, 4, 37, 43].
1.3.
Giải phẫu học
Đặc điểm giải phẫu quan trọng là VLT không thẳng hàng như một
bức tường để ngăn cách hai buồng thất, VLT mô tả như hình không gian
hai chiều. VLT có cấu trúc hình cong bởi vì hình tròn của TTr và hình lưỡi
liềm của TP ôm mặt trước bên phải của thất trái (hình 1.1). Cũng phải nhớ
rằng cấu
trúc của VLT thay đổi theo từng vị trí của vách. Ví dụ như VLT nhìn từ
phía TTr thì cấu trúc bề mặt rất nhẵn đều, bè cơ nhỏ gọn ở các thành khác
của thất trái. Ở mỏm thất phải VLT rất nhiều bè cơ nhưng vùng phễu
đường ra TP thì nhẵn hơn nhất là phần vách nón. Dải vách trải dài xuống
dưới từ vách nón tới và liên tục như dải điều hòa rồi nối vào trụ cơ trước
VBL, các trụ cơ này xuất phát từ vách, mỏm hay thành tự do TP. Dải vách
chia phần vách cơ phía trước và đường ra của vách từ buồng nhận của
vách liên thất. Phần giữa của vách thất rất khó xác định ranh giới, là phần
giữa mỏm TP với van ĐMP [4, 44].
16
Hình 1.1: Hình minh họa nhìn từ phía TP thể hiện cấu trúc các thành phần
của VLT.(PA: ĐMP; Ao: ĐMC; RA: Nhĩ phải) [4].
1.1.3.1. Thông liên thất phần quanh màng
Thông liên thất phần quanh màng là khi phần màng của vách thất
không hình thành đầy đủ, lỗ thông gần mép lá trước và lá vách của VBL
được hình thành [45]. Không chỉ lỗ thông ở phần màng mà nó dường như
bao quanh bởi tổ chức xơ sợi, màng, nó là tổ chức xơ sợi có xu hướng đóng
dần lại (hình 1.2). Tổ chức xơ sợi này cũng được gọi là tổ chức phụ trợ
VBL (accessory tricuspid valve tisue), nhiều khi nó tạo nên cấu trúc túi
phình. Van Praagh đã phân biệt TLT phần màng thực sự, chỉ là phần lỗ nhỏ
giới hạn ở vách thất phần màng mà thôi. Gọi TLT phần quanh màng thì
chính xác hơn vì một số phân tích thực tế TLT cho rằng phần màng nguyên
vẹn nhưng lỗ thông lại xung quanh vùng màng [46], do vậy tên gọi TLT
phần quanh màng được sử dụng nhiều hơn. TLT phần này liên quan mật
thiết với đường dẫn truyền nhĩ thất, đường dẫn truyền này đi qua vòng
VBL rồi theo bờ sau dưới của lỗ thông sau đó chia ra nhánh trái và nhánh
phải. Do liên quan trực tiếp đến đường dẫn truyền nên khi PT vá hay can
thiệp bít lỗ thông bằng dụng cụ thì có nguy cơ tổn thương đường dẫn
truyền này (hình 1.3, 1.4) [45].
17
Hình 1.2: Hình minh họa các vị trí giải phẫu TLT. Danh pháp sử dụng tại
bệnh viện Nhi Boston chia TLT thành các thể như sau: phần màng
(membranous), vách nón (conoventricular), buồng nhận (inlet), dưới van
ĐMP (subpulmonary) và phần cơ (muscular) [4].
Hình 1.3: Hình minh họa đường đi của đường dẫn truyền nhĩ thất. Mặt nhĩ
(mặt nhĩ hình a), bó His (Bundle of His) xuất phát từ nút nhĩ thất (AV node)
ở tam giác Koch (Triangle of Kock), được bao xung quanh bởi dải Todaro
(Tendon of Todaro), vòng VBL và xoang vành (Ostium of coronary sinus). Bó
His xuyên qua thân xơ gần mép lá trước. (b) mặt thất thấy TLT phần màng
liên quan mật thiết với đường dẫn truyền nhĩ thất [4].
18
Hình 1.4: Minh hoa liên quan của đường dẫn truyền nhĩ thất với van ĐMC,
VBL và TLT phần cơ lan đến phần màng và phần phễu [2 ].
1.1.3.2. Thông liên thất thể dưới van ĐMC
Thông liên thất thể này được Van Praaghs mô tả là lỗ thông nằm ở giữa
chóp nón và vách cơ (hình 1.2) [46, 47]. Lỗ thông thể này thường kèm theo
không thẳng hàng giữa vách nón và vách cơ. Không giống như TLT phần
quanh màng, TLT thể này thường lỗ thông rộng, không hạn chế, nó không có
bờ màng xơ mà là chủ yếu bờ cơ. Chỉ có màng xơ liên tục giữa van ĐMC và
VBL. Bờ trên của lỗ thông liên quan trực tiếp đến lá vành phải van ĐMC. Lỗ
thông thường lan rộng xuống phần trên và trước hơn là phần quanh màng.
Cũng giống như phần quanh màng, đường dẫn truyền đi phía sau dưới của lỗ
thông nhưng khác phần quanh màng là được bảo vệ bởi dải cơ vách [2, 4, 42,
45].
1.1.3.3. Thông liên thất dưới van ĐMP
19
Thể thông liên thất dưới van ĐMP phổ biến ở người Châu Á hơn là
Châu Âu [48]. Như tên gọi lỗ thông kiểu này nằm ngay dưới van ĐMP
(hình 1.2). Nó luôn nằm ở vách nón nên còn gọi là TLT vách nón
(intraconal). Bởi vì lỗ thông cũng nằm ngay dưới lá vành phải của van
ĐMC do vậy có nguy cơ gây sa hoặc hở van ĐMC (HoC). Lỗ thông kiểu
này xa đường dẫn truyền nên rất hiếm khi bị block nhĩ thất (BAV) khi
phẫu thuật [2, 4].
1.1.3.4. Thông liên thất phần buồng nhận
Vách thất buồng nhận hay là vách kênh nhĩ thất được hình thành từ tổ
chức đệm nội tâm mạc. Khi có sự khiếm khuyết tổ chức này thì sẽ tạo
thành TLT ngay dưới lá vách VBL (hình 1.2). Không có tổ chức cơ giữa lỗ
thông và vòng VBL. Thể này hay có kèm bắt chéo dây chằng van nhĩ thất
(straddling).
Thông liên thất thể này cũng thường lan rộng ra phần dưới van ĐMC,
quanh màng và có một dải cơ nối giữa hai phần và dải này là đường đi của
đường dẫn truyền [4, 42].
1.1.3.5. Thông liên thất phần cơ
TLT phần cơ là lỗ thông có thể ở bất kỳ vị trí nào của vách cơ (hình
1.2) nhưng hay gặp nhất là lỗ thông ở giữa vách. Lỗ thông thường liên quan
với dải điều hòa mà nó xuất phát từ dải vách. Do vậy có thể đưa dụng cụ
qua lỗ thông ở phía trước hay phía sau dải điều hòa khi lỗ thông ở giữa
vách. Vị trí lỗ thông hay gặp nữa là ở phía trước ngay trước dải vách chia
ba để bao quanh vách nón. TLT phần cơ là một thử thách lớn khi can thiệp
cũng như khi vá lỗ thông vì nó nằm ẩn trong phần mỏm dày đặc bè cơ TP.
20
Van Praaghs đã mô tả ngách hốc phần mỏm TP như là nhiều TLT đổ vào
[4951].
1.1.3.6. Các dị tật kèm theo
Thông liên thất là một thành phần trong nhiều bệnh TBS khác nhau
bao gồn tứ chứng Fallot, thất phải hai đường ra, kênh nhĩ thất toàn phần,
đứt đoạn quai động mạch chủ... Khoảng 1/3 trường hợp đảo gốc động
mạch có TLT, có thể có ở dị tật TBS mà có shunt trái phải lớn, thiểu sản
quai, eo ĐMC hay hẹp eo ĐMC. Nếu TLT lỗ lớn thì lưu lượng lớn máu về
nhĩ trái do vậy vách liên nhĩ bị căng ra gây tồn tại lỗ bầu dục tạo shunt trái
phải ở tầng nhĩ cũng như tầng thất. Cũng có thể kèm thông liên nhĩ hay còn
ống động mạch [2, 3].
1.2. Sinh lý bệnh và đặc điểm lâm sàng
Thông liên thất đơn thuần gây ra shunt trái phải ở tầng thất làm tăng
tuần hoàn lên phổi, tăng gánh thể tích tim trái... cũng có thể gây tăng áp lực
ĐMP. Mức độ shunt phụ thuộc vào đường kính lỗ TLT và sức cản ĐMP [ 2,
4].
Khi trẻ sơ sinh, sức cản ĐMP tương đối cao và giảm dần từ những
ngày đầu sau sinh và giảm nhanh trong 46 tuần đầu và trở về bình thường
23 tháng sau đó. Tuy nhiên do sức cản ĐMP cao nên thường không phát hiện
bằng khám lâm sàng ở những tháng đầu do shunt trái phải không đủ lớn để
tạo tiếng thổi tâm thu cũng như các triệu chứng lâm sàng khác. Sau sinh 46
tuần sức cản ĐMP giảm, shunt sẽ lớn dần khi ấy tiếng thổi và triệu chứng
suy tim rõ ràng hơn. Trẻ sẽ biểu hiện khó thở, ra mồ hôi nhất là khi cho ăn,
bú mẹ, trẻ chậm lớn, khám thực thể có thể thấy gan to. Thông thường suy
tim có thể khống chế bằng điều trị nội khoa, tuy nhiên nếu khi sức cản
21
ĐMP xuống thấp gần bình thường khi đó shunt lớn nhất, hai thất sẽ suy khi
lưu lượng quá lớn, áp lực cuối tâm trương thất trái cao dẫn đến trẻ chậm
lớn, không theo đường phát triển bình thường nữa và suy tim [4].
Tuy nhiên quá trình này không phải xẩy ra với tất cả các trẻ bị TLT.
Một số BN với lỗ nhỏ, phần quanh màng thì tổ chức màng xơ sợi xung
quanh lỗ thông có xu hướng làm nhỏ lại và có thể tự bít lại. TLT phần cơ
cũng có khả năng tự bít theo cơ chế là phì đại thất do tăng áp lực. Theo cơ
chế tự bít thì lỗ thông ngày càng nhỏ dần, tiếng thổi tâm thu cường độ lớn
dần nhưng đến khi nhỏ quá thì tiếng thổi lại nhỏ đi và có thể hết tiếng thổi
do đã tự bịt kín [2, 4].
Rất không may sự cải thiện triệu chứng dần trong năm đầu không có
nghĩa là lỗ thông nhỏ dần. Có thể do kết quả của tăng sức cản ĐMP làm
shunt trái phải nhỏ dần, do quá trình quá sản nội mạc và phì đại lớp cơ tiểu
động mạch, đây là quá trình của bệnh mạch máu phổi. Thực tế một số
trường hợp không có sự chuyển tiếp từ hệ mạch phổi bình thường thành
hệ mạch phổi trưởng thành hơn ở những bệnh nhân cơ trơn tiểu động
mạch thiếu phát triển. Với sự tiến triển của bệnh mạch phổi, các tiểu
động mạch xơ hóa, thậm chí tắc do huyết khối. Có thể có hình thành thông
động tĩnh mạch và hoại tử xơ [5254]. Chuỗi tế bào bệnh học chính xác
của quá trình bệnh mạch phổi vẫn chưa được hiểu một cách đầy đủ vì
hiện nay bệnh mạch phổi còn gặp không nhiều. Trên thực tế khó mà có thể
dự đoán trẻ nào, khi nào, sẽ tiến triển thành bệnh mạch máu phổi. Thực sự
gần như có một xu hướng riêng cho từng cá nhân cụ thể nên cũng khó dự
đoán. Mặc dù không thể chắc chắn bệnh nhân sẽ tiến triển thành bệnh
mạch phổi cố định và không hồi phục do lỗ TLT đơn thuần sớm hơn hai
tuổi, do vậy có rất nhiều ngoại lệ so với quy luật này [ 4, 53]. Do đó những
22
trẻ bắt đầu có triệu chứng suy tim ở những tháng đầu sau sinh, có lỗ thông
lớn và những trẻ có triệu chứng giảm dần thì cần theo dõi đánh giá cẩn
thận, có thể phải can thiệp đóng lỗ thông sớm [2, 4, 55].
1.3. Chẩn đoán
Bệnh nhân với lỗ thông hạn chế thường được chẩn đoán khi nghe thấy
tiếng thổi toàn tâm thu rõ nhất ở bờ trái xương ức. Diện tim trên lồng ngực
bình thường. Cường độ tiếng thổi rất thay đổi, tỷ lệ nghịch với đường kính
lỗ thông. Khi sức cản hệ ĐMP tăng thì tiếng thổi cường độ yếu và ngắn dần.
Tiếng thổi có thể hết hẳn chỉ còn tiếng T2 mạnh chứng tỏ tăng áp lực ĐMP
nặng [45].
Chụp X quang tim phổi thẳng ở trẻ có lỗ thông lớn thường bóng tim
to, nhất là hai thất và nhĩ trái. Cung ĐMP nổi, trường phổi xung huyết do
tăng lưu lượng. Điện tim đồ có thể có tăng gánh TP nếu áp lực thất phải
tăng, có thể do TLT lớn hay tăng sức cản ĐMP [37, 56].
Siêu âm Doppler tim là phương tiện chẩn đoán TLT tốt nhất [57, 58].
SÂ Doppler màu hiện nay có thể phát hiện những lỗ thông rất nhỏ [3, 59].
Siêu âm xác định vị trí rất chính xác vì có thể cắt nhiều mặt cắt khác nhau,
đây là lợi điểm hơn chụp buồng tim khi chỉ giới hạn ở một số góc chụp và
sử dụng lượng chất cản quang có hạn. Chụp cộng hưởng từ tỏ ra là một
phương tiện chẩn đoán mới nhưng dường như độ nhạy không thể bằng SÂ
Doppler màu [2, 37, 40, 60].
Thông tim hiện nay không còn là phương tiện chẩn đoán vì SÂ đã thay
thế gần hoàn toàn, chỉ có một số trường hợp đặc biệt cần các thông số
huyết động có giá trị tiên lượng và quyết định hướng điều trị thì thông tim
rất hữu ích. Những trẻ lớn tuổi hay người lớn có TLT rộng, tăng áp lực
23
ĐMP thì thông tim cung cấp sức cản ĐMP và đánh giá đáp ứng của hệ
mạch phổi với các thuốc giãn mạch [45].
1.4. Điều trị
1.4.1. Diễn biến bệnh tự nhiên và tiên lượng
Phần lớn bệnh nhân TLT lỗ nhỏ sống bình thườ ng. Rất khó để có
thể đưa ra con số tự bít kín là bao nhiêu. Một số nghiên cứu những năm
1970 cho thấy tỷ lệ tự bít TLT lên đến ¾ trườ ng hợp [ 39 , 61 , 62 ], thậm
chí ở những BN có triệu chứng suy tim. Kích thước lỗ thông có xu hướng
nhỏ dần trong năm đầu, có thể là được bít kín hoặc thành lỗ nhỏ hạn
chế, không có triệu chứng lâm sàng. Với sự hỗ trợ của các phươ ng tiện
chẩn đoán hiện nay thì nhiều lỗ nhỏ cũng đượ c phát hiện, do vậy tỷ lệ
tự bít có thể lên đến 9/10 [ 63 ]. Nhưng ý nghĩa về mặt lâm sàng thì không
nhiều vì phần lớn nhóm này là lỗ nhỏ. Trong thực hành lâm sàng, những
lỗ thông có ý nghĩa lâm sàng thì tỷ lệ tự bít khoảng ¼ trườ ng hợp, chủ
yếu là lỗ nhỏ phần cơ hay ph ần quanh màng. Tự bít thườ ng trong vòng 2
năm đầu nhưng cũng có thể bất cứ tuổi nào, có trườ ng hợp tự bít khi còn
trong bào thai. Lỗ thông có xu hướng nhỏ dần do vậy tiếng th ổi tâm thu
cũng ngắn dần, dấu hiệu này có giá trị dự đoán tự bít cao hoặc là không
tự bít nhưng lỗ thông nhỏ dần, những trường hợp này gần như không có
nguy cơ gì ở lứa tuổi < 40. Ở người lớn mà lỗ nhỏ, lưu lượ ng Qp/Qs <
2, không tăng áp lực ĐMP thì tiên lượng rất tốt. Tỷ lệ hở van ĐMC và
viêm nội tâm mạc rất thấp, nếu có loạn nhịp thì là lành tính [2 , 6264 ].
Có hai nghiên cứu theo dõi dài nhất về diễn biến tự nhiên của bệnh
TBS cho thấy tỷ lệ sống sau 20 năm là 87%. Tỷ lệ sống của nhóm TLT lỗ
nhỏ tương đương nhóm dân số chung. Với nhóm lỗ thông vừa hoặc lớn
24
thì tỷ lệ sống tương ứng là 89% và 67% sau 20 năm theo dõi. Những BN
được chẩn đoán là bệnh mạch phổi do TLT thì trên 50% các trường hợp
đó còn sống sót sau 20 năm kể từ khi được chẩn đoán, các yếu tố nguy cơ
tử vong là kích thước lỗ thông và có tăng áp lực ĐMP hay không khi đưa
vào nghiên cứu. Những dữ liệu của nghiên cứu nhấn mạch sự quan trọng
của PT đóng TLT trong giai đoạn sớm nếu lỗ thông rộng, không hạn chế
và tăng áp lực ĐMP dai dẳng [2 , 47 , 62 ].
Một số bệnh nhân có thể tiến triển gây hẹp phễu TP, làm hạn chế lưu
lượng qua lỗ thông, thậm chí gây tím, cần điều trị như tứ chứng Fallot.
Những bệnh nhân này không bao giờ tiến triển thành bệnh mạch máu phổi
vì đã được bảo vệ (cơ chế giống banding ĐMP) Một số trường hợp khác
có thể tiến triển hẹp trong buồng thất phải tạo nên TP hai buồng.
Khoảng 1/6 trường hợp TLT có biểu hiện suy tim xung huyết cần
điều trị nội khoa và hầu như xẩy ra trong 6 tháng sau sinh. Nhiều trường
hợp tử vong trước 6 tháng tuổi trừ khi được điều trị đóng lỗ thông. Một số
đáp ứng với điều trị nội khoa và không cần phẫu thuật ngay, những BN này
thường tăng áp lực ĐMP do lỗ thông rộng và có nguy cơ tiến triển thành
bệnh mạch phổi. Tất cả các trẻ tăng áp lực ĐMP dai dẳng trong những
tháng đầu dường như sẽ tiến triển thành bệnh mạch phổi trước 2 tuổi và
quá trình này tiến triển thành hội chứng Eisenmenger đặc trưng bởi sức cản
hệ ĐMP cao hơn sức cản hệ thống, shunt đổi chiều và tím, thường biểu
hiện rõ khi tuổi trưởng thành 2030 tuổi [2, 4, 45]. Những BN mà không
giảm hoặc giảm ít sức cản mạch phổi sau sinh cũng có nguy cơ cao bệnh
mạch phổi và có thể bị bỏ qua không phát hiện được đến khi có biểu hiện
tím. Tiên lượng TLT có bệnh mạch phổi rất xấu, nhưng thường sống đến
tuổi trưởng thành, thường tử vong trước tuổi 40. Phụ nữ có thai có bệnh
mạch phổi là nguy cơ rất cao, mất máu khi sinh làm thúc đẩy tình trạng
25
cung lượng thấp không hồi phục. Phụ nữ với bệnh mạch phổi không nên
có thai, nếu họ bỏ qua lời khuyên thì khi có thai, quyết định rất khó khăn,
nếu kết thúc thai nghén thì nguy cơ cho mẹ, nhưng để cân bằng nếu có thai
nghén không theo ý muốn thì nên kết thúc sớm. Nếu bệnh nhân vẫn mong
muốn có con thì phải theo dõi, giám sát cẩn thận và chấp nhận tỷ lệ tử
vong cho mẹ khoảng 50% [2, 3].
Có hai biến chứng của TLT đơn thuần có thể gây tử vong trước tuổi
40. Nguyên nhân thứ nhất là hở van ĐMC, tỷ lệ này khoảng 1/20 bệnh
nhân, có báo cáo khác tỷ lệ thấp hơn. Biến chứng này hay xẩy ra ở thể TLT
dưới hai đại động mạch hoặc phần quanh màng. Cơ chế do lá vành phải sa
vào lỗ thông, do vậy cần phẫu thuật sớm khi có hở van ĐMC, biến chứng
này thường xẩy ra ở tuổi trưởng thành [37, 65].
Nguyên nhân thứ hai là viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, tỷ lệ khoảng
0,10,2%/năm hay là khoảng 1/10 trước tuổi 70. Thường viêm nội tâm mạc
hay xẩy ra sau tuổi 20 hơn là tuổi thanh thiếu niên. Kích thước lỗ thông
không ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc. Hiện tại phần lớn các ca viêm nội tâm
mạc có thể điều trị thành công với kháng sinh. Nguy cơ tử vong do nguyên
nhân viêm nội tâm mạc khoảng 23% trong tất cả các nguyên nhân. Đóng lỗ
thông không loại bỏ hoàn toàn nguy cơ mắc viêm nội tâm mạc [38, 64], mà
thực sự có thể gây ra nhiễm trùng khi phẫu thuật. Vì không thể phòng được
nhiễm trùng nên người ta đề nghị đóng lỗ TLT để phòng nhiễm trùng. Một
vấn đề nữa là những trường hợp người lớn có lỗ nhỏ, có nghiên cứu nói
rằng 1/10 trường hợp bị viêm nội tâm mạc. Những dữ liệu gần đây tổng
kết bởi hội tim mạch Mỹ, đề nghị rằng những trường hợp TLT đơn thuần
không tím không cần dùng kháng sinh bao vây, dữ liệu đưa ra những bằng
chứng rằng dùng kháng sinh bao vây không hoàn toàn phòng được nhiễm
khuẩn, mà phòng chỉ nên áp dụng cho những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ