Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

KÊ BIÊN tài sản bảo đảm TIỀN VAY NGÂN HÀNG để THI HÀNH án dân sự THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM từ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG yên TỈNH HƯNG yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN GIA PHONG

KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN

Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.
Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất
kỳ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ ............................................................................................................... 6


1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng ......................................................................................................... 6
1.2. Cơ sở và phân loại kê biên kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ...... 21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ....... 28
Chương 2; QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KÊ BIÊN
TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN...... 31
2.1. Quy định của pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng theo pháp luật thi hành án dân sự .......................................................... 31
2.2. Thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật
thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên .......................... 41
Chương 3; ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN KÊ BIÊN TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN
TỈNH HƯNG YÊN .................................................................................................. 56
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện kê
biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng Yên tỉnh
Hưng Yên ....................................................................................................... 56
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng .................................................................... 60
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự


THADS

Thi hành án dân sự

CHV

Chấp hành viên

THA

Thi hành án


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thi hành án dân sự (THADS) thì cưỡng chế thi hành án là một trong
những biện pháp mà Chấp hành viên lựa chọn để đảm bảo thi hành các Bản án, Quyết
định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được chấp
hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện Nhà nướcpháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành
nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì
vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững
kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế, tại Điều 106, Hiếp pháp năm
2013 khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lựcpháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành.”
Thi hành án dân sự là một hoạt động đã, đang và sẽ là “vấn đề nóng” của xã

hội, do đó đòi hỏi các ngành, các cơ quan chức năng phải có sự chỉ đạo sâu sát, kịp
thời để tìm ra giải pháp đúng đắn cho lĩnh vực còn gặp nhiều trắc trở này. Tầm quan
trọng của hoạt động thi hành án còn được thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 như
sau: “xây dựng cơ chế đảm bảo mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án
phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Trong các biện pháp cưỡng chế mà Luật thi hành án
dân sự 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì biện pháp kê biên tài sản là phức
tạp và thường gặp khó khăn nhất khi áp dụng. Việc ban hành Luật thi hành án dân
sự - Một văn bản chuyên ngành có giá trị pháp lý cao với cơ chế mới và chặt chẽ
cho thấy công tác thi hành án dân sự đã dần đi vào lề lối.
Thể hiện tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh các
kết quả đạt được vấn đề áp dụng biện pháp kê biên tài sản từ thực tiễn thành phố
Hưng Yên vẫn còn những khó khăn vướng mắc, bất cập nhất định, như nhiều bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng chậm tổ chức thi hành; việc áp dụng
1


biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản còn tồn tại..., các nguyên nhân chủ quan và
khách quan liên quan đến vấn đề này có thể xuất phát từ những bất cập của pháp
luật về kê biên tài sản. Hay công tác phối hợp kê biên tài sản còn chưa được chính
quyền địa phương chú trọng; điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ,
công chức ngành thi hành án dân sự chưa được quan tâm tốt.
Trong quá trình THADS, các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả
thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo Bản án, Quyết định
của Tòa án nhưng khi người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, mặc
dù có điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ, không tự
nguyện thi hành thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế để thi hành án.
Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế kê biên phức tạp đòi hỏi Chấp hành viên
phụ trách hồ sơ thi hành án phải có kỹ năng toàn diện mới có thể thực hiện được

công việc này. Mặt khác việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp
của các ngành, các cấp, nếu thiếu một thành phần theo quy định thì buổi cưỡng chế
kê biên đó phải dừng hoặc hoãn, gây tổn thất lớn về công sức, kinh tế và tài sản cho
các bên đương sự, tổ chức và Nhà nước.
Chính vì những lập luận trên, học viên quyết định chọn vấn đề: Kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt
Nam từ thự tiễn thành phố Hưng Yên, làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các biện pháp cưỡng chế THADS trong đó có biện pháp kê biên tài sản, nội
dung của luận văn có liên quan đến nhiều công trình nghiên cứu, nhưng cần quan
tâm chú trọng đến các công trình bài viết sau:
“Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Phan Huy Hiếu
năm 2011. “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác
giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề THADS năm
2010; “Về kê kiên, xử lý tài sản” của TS Nguyễn Thanh Thủy và Th.S Lê Thị Kim
Dung trong cuốn “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp
luật về thi hành dân sự”, nhà xuất bản Tư pháp năm 2010; “Vấn đề cưỡng chế đối
với người thứ ba” của tác giả Bùi Văn Yên và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại
đất sau cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Hoàng Đoán trong số chuyên đề về
THADS của Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 5 năm 2012.
2


- Luận văn Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh. “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Thanh Thủy.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, “Thực hiện pháp luật về THADS ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” tác giả Lại
Anh Thắng.
- Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, “Đổi mới thủ tục

thi hành án dân sự Việt Nam” tác giả Lê Anh Tuấn năm 2014.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, “Áp dụng biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản nhằm thi hành các bản án, quyết định của tòa án qua
thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Châu Vũ.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ thống
và toàn diện các vấn đề về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành
án dân sự. Luận văn là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ
thống các vấn đề liên quan về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành
án dân sự hiện hành của Việt Nam đặc biệt với thực tiễn áp dụng tại một địa phương là
thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng yên
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án và kê biên tài sản bảo đảm tiền
vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.
- Phân tích về pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi
hành án dân sự, thực tiễn thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hưng Yên tỉnh
Hưng Yên và tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tôi tập trung nguyên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án
dân sự, từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nhằm
nâng cao hiệu quả về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án
dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng như khái niệm, đặc điểm kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng, vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng; các quy
định của Luật THADS về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng và thực tiễn
thực hiện biện pháp này trong những năm gần đây trên địa bàn thành phố Hưng
Yên, tỉnh Hưng Yên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay về kê biên tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự.
Để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, trong chương 1 luận văn, tác giả sử
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử cùng
các phương pháp khoa học cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp logic.
Trong chương 2 và chương 3, luận văn nghiên cứu chủ yếu bằng phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt để nêu, phân
tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong luận văn.
- Phương pháp so sánh, thống kê được sử dụng để cung cấp các số liệu cần
thiết, đối chiếu, so sánh, làm rõ thực trạng thực hiện cưỡng chế kê biên tài sản, tìm
hiểu các giải pháp hoàn thiện pháp luật.

4



- Phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để góp phần tổng kết thực tiễn
sâu sắc về cưỡng chế kê biên tài sản.
- Phương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn cũng được sử dụng
trong tiến trình thực hiện luận văn để đưa ra những bình luận, quan điểm, kết luận
về những nội dung nghiên cứu...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đặt ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về khái niệm kê biên
tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản
chất của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, góp
phần bổ sung làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật
thi hành án dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng trong thi hành án dân sự, tác giả đã đưa ra được những bất cập cần sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án dân sự.
Từ việc đánh giá thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong
thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích những nguyên nhân và đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố
Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương chính sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả thực hiện kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng

Yên tỉnh Hưng Yên.
5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Quan hệ tín dụng phát sinh trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa TCTD và
khách hàng vay. Thông thường, để được vay vốn tại các TCTD, khách hàng phải có
tài sản hoặc có người bảo lãnh để đảm bảo, dự phòng cho việc thực hiện nghĩa vụ
trả nợ, và người bảo lãnh cũng phải có tài sản để cho nghĩa vụ bảo lãnh, tài sản đó
được hiểu là tài sản bảo đảm.
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Theo quy định tại điều 174 BLDS 2015 thì tài sản
được quy định bổ sung thêm là bất động sản và động sản. Để nhận diện được tài sản
thì cần chỉ ra các đặc điểm pháp lý của chúng, theo đó tài sản có các đặc điểm pháp
lý cơ bản như sau: (i) Tài sản phải trị giá được bằng tiền; (ii) Tài sản là những đối
tượng mà con người có thể kiểm soát được. Nếu là vật hữu hình thì con người phải
nắm giữ hoặc chiếm giữ được; nếu là vật vô hình thì phải có cách thức để quản lý.
Theo Từ điển Luật học, tài sản bảo đảm là “tài sản được bên bảo đảm dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm thông qua các biện pháp
bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, kí cược, kí quỹ, đặt cọc …”
Điều 295 Bộ luật dân sự năm 2015 đã đề cập đến khái niệm tài sản bảo đảm,
theo đó tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp
cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Cụ thể hóa quy định này, Khoản 7 Điều 3
Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm do Chính phủ ban hành ngày

29/12/2006 và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29
tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, có hiệu lực kể từ ngày 10
6


tháng 4 năm 2012 đã quy định “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.” Tài sản bảo đảm
là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp luật không cấm
giao dịch. Như vậy có thể thấy phạm vi tài sản có thể đem bảo đảm được mở rộng,
không chỉ là những tài sản phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm rồi mà còn bao gồm cả
những tài sản hình thành trong tương lai, hoa lợi thu được từ cây trồng, hoặc các khoản
có thể thu khác.… chính là những tài sản mà tại thời điểm giao dịch bảo đảm được xác
lập, thì những tài sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Tài sản bảo đảm tiền vay có những nét đặc trưng cơ bản. Thực chất của bảo
đảm tiền vay là sử dụng những giá trị của tài sản làm bảo đảm để trả nợ thay cho
các khoản vay không có khả năng trả nợ ngân hàng. Vậy, tài sản bảo đảm tiền vay
phải có giá trị, bản thân nó phải trở thành hàng hoá, có nghĩa là khi chuyển giao
quyền sở hữu thì đồng thời cũng phải đạt được sự chuyển đổi từ hiện vật thành giá
trị để trả nợ ngân hàng. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các khoản cho vay có
tài sản làm bảo đảm nợ vay là tài sản đó phải là hàng hóa, có giá trị lớn hơn giá trị
khoản vay, có thị trường tiêu thụ cho hàng hoá đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hay
nói cách khác, để ngân hàng chấp thuận một loại bảo đảm tín dụng nào đó, nó phải
thoả mãn các điều kiện sau: Phải dễ dàng xác định; Phải có giá trị và tuổi thọ tương
đối dài; Ngân hàng phải có khả năng định giá phù hợp với giá trị của tài sản; Phải
dễ bán; Phải có một thị trường hiện tại của nó.
Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết là dựa vào sự tự giác
của các bên nhưng trong thực tế không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có
thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Để nghĩa vụ
cam kết được đảm bảo thực hiện và bên có quyền trong quan hệ đó có được thế chủ

động trong viêc được hưởng quyền đó, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận
đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng cũng như việc thực hiện các
nghĩa vụ dân sự. Trong các biện pháp bảo đảm tiền vay thì biện pháp bảo đảm tiền
vay bằng tài sản là biện pháp có tính phổ biến nhất bởi khi bảo đảm bằng tài sản bên
cho vay sẽ có được độ an toàn cao hơn, tránh được rủi ro bị thất thoát khoản vay.

7


Thứ nhất: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp
Theo điều 317 Bộ luật dân sự 2015 thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau
đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)". Như
vậy, thế chấp tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ do
hai bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định.
Thế chấp tài sản là hình thức theo đó bên đi vay phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các tài sản bảo đảm cho bên cho vay
nắm giữ trong thời gian thỏa thuận để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho
vay. Tuy nhiên không phải tất cả các loại tài sản đều có thể đem đi thế chấp mà nó
phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định, tùy thuộc vào quy định của pháp luật. Tài
sản là động sản, bất động sản, quyền sử dụng đất có thể thế chấp để bảo đảm tiền
vay theo quy định tại Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015.
Thứ hai: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố
Theo điều 309 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Cầm cố tài sản là việcầmột
bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Như vậy, bản
chất của cầm cố là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó bên
có nghĩa vụ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể
thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ ba giữ.

Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, cầm cố tài sản được hiểu là việc khách
hàng (bên vay vốn) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho tổ chức tín dụng
(bên cho vay) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Thứ ba: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản của người thứ ba
Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba là biện pháp bảo đảm trong đó bên thứ
ba sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thế chấp hoặc cầm cố cho Ngân hàng để
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
Bản chất của bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba cũng chính là biện pháp
bằng thế chấp hoặc cầm cố tài sản nhưng chủ thể đưa tài sản vào thế chấp hoặc cầm
cố không phải là bên vay vốn mà là người khác.
8


Thứ tư: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai
Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là một biện pháp bảo đảm phổ
biến áp dụng trong hoạt động kinh doanh dự án bất động sản, theo đó tài sản hình
thành trong tương lại được thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn thực hiện dự án. Do
đó, pháp luật quy định quyền huy động vốn của chủ đầu tư phải đáp ứng một số quy
định tại Điều 147 Luật nhà ở 2014, theo đó Tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở hình
thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình; tổ chức, cá nhân mua nhà
ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư được
thế chấp nhà ở này tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam để vay vốn
phục vụ cho xây dựng nhà ở hoặc để mua chính nhà ở đó.
Việc thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành
trong tương lai chỉ được thực hiện theo quy định tại Luật này; các trường hợp thế
chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở hoặcầnhà ở hình thành trong tương lai
không đúng với quy định tại Luật này thì không có giá trị pháp lý. Tài sản hình
thành trong tương lai có thể hiểu là loại tài sản tồn tại hoặc chưa tồn tại ở tại thời
điểm giao dịch. Tuy nhiên, nó được đảm bảo thuộc quyền sở hữu của cá nhân hoặc
tổ chứcầnhất định trong giao dịch về tài sản đó. Có nghĩa là tài sản hình thành trong

tương lai gồm cả tài sản chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng việc chuyển
giao quyền sở hữu cho bên bảo đảm chưa được hoàn thành.
1.1.2. Khái niệm kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Trong lịch sử hình thành, phát triển của loài người đã trải qua các giai đoạn
phát triển khác nhau. Giai đoạn chưa có Nhà nước đó là thời kỳ Công xã nguyên
thủy Con người sống từng bầy đàn, xã hội chưa phân chia thành giai cấp, việc quản
lý xã hội bằng uy tín, tự giác trong xã hội. Các quan hệ xã hội được giải quyết bằng
cách noi gương, giải thích, thuyết phục các thành viên trong xã hội tự nguyện thực
hiện, việc cưỡng chế trong giai đoạn này không đặt ra. Đến giai đoạn xuất hiện Nhà
nước (Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư bản và Nhà nước xã
hội chủ nghĩa) đồng thời xuất hiện các giai cấp trong xã hội, các quan hệ xã hội
ngày càng nhiều, các mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội gia tăng. Giai cấp thống trị
xây dựng nên Bộ máy nhà nước, trước tiên để bảo vệ cho lợi ích của gia cấp mình,
9


đồng thời để quản lý xã hội đi theo một mục tiêu nhất định. Đến giai đoạn này nhiều
quan hệ xã hội không thể giải quyết bằng biện pháp giáo dục, thuyết phụcầmà phải
giải quyết bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để duy trì trật tự xã hội nhằm
thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy Nhà nước xuất hiện thì cưỡng chế cũng xuất hiện để Nhà nước sử
dụng biện pháp cưỡng chế nhằm quản lý, điều hành đất nước và bảo vệ Nhà nước
đó. Theo từ điển Chữ nôm Tập 1 thì cưỡng là thúc ép, buộc tuân theo ý trí mình;
chế là kìm giữ, nén lại, tạo ra. Vậy cưỡng chế là một từ được ghép bởi hai từ cưỡng
và từ chế để tạo thành từ cưỡng chế. Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học
do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: " Cưỡng chế là dùng quyền lựcầnhà
nước bắt phải tuân theo". Nhưng Theo cuốn từ điển Tiếng việt, Viện Ngôn ngữ học,
Nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 2012 làm rõ hơn khái niệm cưỡng chế là thêm
hai từ pháp luật: "Cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo pháp
luật". Trong tiếng Anh cưỡng chế là Coerce, có nghĩa là buộc ai phải làm cái gì.

Tựu chung lại cưỡng chế được hiểu là Nhà nước dùng quyền lực của mình
buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện một hành vi hoặc nghĩa vụ nhất định,
theo quy định của pháp luật hoặc là quyền lực xã hội buộcầmọi người phải tuân
theo luật, lệ... đã đặt ra.
Cưỡng chế gằn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong những
phương pháp chủ yếu trong hoạt động quản lý nhà nước. Trong nhà nước pháp
quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành pháp luật của nhà nước, duy trì trật
tự xã hội. Nhà nước thực hiện cưỡng chế thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế,
những biện pháp cưỡng chế này được nhà nước trao quyền cho các cơ quan nhà
nước khác nhau thực hiện như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố
tụng của cơ quan điều tra và cơ quan tòa án và cưỡng chế thi hành án.
Trong hoạt động quản lý hành chính và xử lý vi phạm hành chính, cưỡng chế
hành chính đượcầuBND và các cơ quan hành chính thực hiện như: cưỡng chế hành
chính đối với những đối tượng chống đối không di dời tài sản để giải phóng mặt
bằng phục vụ cho quốc phòng hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức vi phạm hành
chính thì các cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được
10


quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính như kê biên tài sản,
khấu trừ tài khoản của cá nhân, tổ chức… Các biện pháp cưỡng chế của cơ quan
điều tra được trao quyền cho thủ trưởng cơ quan điều tra thực hiện được quy định
tại Điều 128 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về biện pháp kê biên tài sản
áp dụng đối với bị can, bị cáo... Trong hoạt động tố tụng cơ quan tòa án cũng được
nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều
111 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: kê
biên tài sản tranh chấp, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác....
Ngoài ra cơ quan THADS cũng được nhà nước trao quyền được áp dụng các biện
pháp cưỡng chế trong THADS được quy định tại Điều 71 Luật THADS trong đó có
biện pháp kê biên, xử lý tài sản ….

Theo Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp viết
cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan THADS, do Chấp
hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực
hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định. Cưỡng chế thi
hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
mà không tự nguyện thi hành án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi
hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chốn tránh viện thi hành án.
Theo Tài liệu bồi dưỡng Chấp hành viên trung cấp định nghĩa cưỡng chế
THADS là biện pháp sử dụng quyền lựcầnhà nước để buộc người phải thi hành án
phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của
tòa án. Biện pháp cưỡng chế do Chấp hành viên quyết định trong trường hợp người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
Qua hai định nghĩa trên chúng ta thấy cưỡng chế THADS đều có những đặc
điểm chung đó là chủ thể thực hiện phải là Chấp hành viên là người trực tiếp ra
quyết định cưỡng chế; người phải thi hành án phải có điều kiện thi hành án; người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.
Qua đó biện pháp cưỡng chế là phương thức, cách thức dùng quyền lựcầnhà
nước buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của

11


pháp luật, do người có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp cần thiết nhằm
bảo vệ lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức và xã hội bị xâm hại.
Biện pháp cưỡng chế THADS cũng là một trong những biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước trao quyền áp dụng trong trường hợp khi bản án, quyết định của tòa
án đã có hiệu lực pháp luật mà các đương sự không chấp hành bản án, quyết định
của Tòa án và chỉ do Chấp hành viện thực hiện. Do đó Biện pháp cưỡng chế
THADS được hiểu là biện pháp cưỡng chế THADS dùng quyền lực của Nhà nước
buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ, do Chấp

hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
mà không tự nguyện thi hành án.
Công tác THADS chỉ là một bộ phận của thi hành án nói chung. Ở nước ta
hiện nay được phân ra làm hai bộ phận, thi hành án hình sự và THADS. Thi hành án
hình sự được Chính phủ giao cho Bộ công an quản lý, công tác THADS được Chính
phủ giao cho Bộ Tư pháp quản lý. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
hình sự hà khắc hơn biện pháp cưỡng chế THADS. Sự khác biệt giữa thi hành án
hình sự và THADS được thể hiện ở căn cứ và tính chất của cưỡng chế thi hành án.
Nếu như căn cứ cưỡng chế thi hành án hình sự là phần hình phạt được tuyên trong
quyết định của bản án hình sự đó là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình
phạt tử hình. Ngược lại cưỡng chế THADS căn cứ cưỡng chế chủ yếu là các bản án,
quyết định dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế và lao động liên quan đến nghĩa vụ tài
sản hoặc những hành vi. Về tính chất cưỡng chế hình sự có hiệu lực thi hành án
ngay sau khi bản án hình sự có hiệu lực pháp luật, tòa án có thẩm quyền ra quyết
định thi hành án hình sự đối với người phải thi hành án, họ không có thời gian tự
nguyện thi hành án. Ngay sau có quyết định thi hành án, người phải thi hành án
hình sự phải chấp hành ngay tức khắc, nếu không cơ quan công an tiến hành cưỡng
chế bằng việc bắt hoặc dẫn giải người phải thi hành án đến các trại giam để thi hành
án. Nhưng đối với việc cưỡng chế THADS chỉ đặt ra khi đương sự có đơn yêu cầu
thi hành án, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án, giao cho Chấp hành viên
thực hiện, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án một thời hạn không quá
10 ngày, hết thời hạn trên người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, mặc
12


dù có điều kiện thi hành án thì lúc này Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án. Tuy nhiên trong trường
hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc
trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp
cưỡng chế thi hành án mà không cần áp dụng thời gian tự nguyện thi hành án.

Kê biên là một động từ ghép bởi hai từ kê và biên. Theo từ điển Tiếng việt
của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: “Kê là viết ra
theo thứ tự từng tên, từng nhóm để ghi nhớ hoặc thông báo” “Biên viết lên trang
giấy”... Hiện nay, kê biên được hiểu là tạm thời cấm vận chuyển, chuyển đổi, định
đoạt hoặc chuyển dịch tài sản của người vi phạm pháp luật. Điều này có nghĩa khi
kê biên một tài sản của một người nào đó thì quyền sở hữu tài sản của họ bị hạn
chế, họ không được chuyển đổi, chuyển dịch, định đoạt... tài sản bị kê biên đó. Mặt
khác tài sản bị kê biên phải là của người vi phạm pháp luật, nếu một người không vi
phạm pháp luật thì sẽ không bị kê biên.
Theo cuốn Từ điển luật học kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế nhằm
bảo đảm việc thi hành án hình sự, chỉ áp dụng với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật
hình sự quy định. Với nội dung định nghĩa này khái niệm kê biên chỉ ở nghĩa hẹp
trong lĩnh vực điều tra hình sự. Trên thực tế trong hoạt động quản lý Nhà nước có
một số cơ quan Nhà nước được nhà nước được trao quyền thực hiện việc kê biên
tài sản đó là cơ quan điều tra của Công an, tòa án nhân dân các cấp, cơ quan quản lý
hành chính và cơ quan THADS thì khái niệm đó chưa đầy đủ.
Tuy nhiên trong lĩnh vực THADS thì không hoàn toàn đúng theo nghĩa trên
theo khoản 3 Điều 71 Luật THADS năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì
kê biên được hiểu là một trong số các biện pháp cưỡng chế THADS, khi Chấp hành
viên áp dụng biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án trong trường hợp
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Ở đây yếu tố không tự nguyện
thi hành án không đồng nghĩa với việc, người phải thi hành án vi phạm pháp luật thi
hành án, bởi vì nhiều trường hợp người phải thi hành án rất muốn bán được tài sản
để trả nợ nhưng không thể bán được vì yếu tố khách quan.

13


Vậy, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản, đối

với các cá nhân, cơ quan, tổ chức xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong hoạt động THADS kê biên được hiểu là một trong những biện pháp
cưỡng chế THADS. Công tác THADS nói riêng và công tác thi hành án nói chung
là một trong những hoạt động quan trọng nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã
hội bị xâm hại. THADS là hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt
tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản,
án phí, tiền phạt và quyết định dân sự trong bản án hình sự, phần tài sản trong bản
án, quyết định hành chính và toà án, quyết định của tòa án giải quyết pháp sản,
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý các vụ việc cạnh tranh có
liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết định của trọng
tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định của tòa án). Việc cưỡng chế
chỉ đặt ra khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và đã hết thời gian tự
nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình.
Khái niệm kê biên luôn đi cùng với khái niệm các biện pháp cưỡng chế. Kê
biên tài sản tài sản là một biện pháp cưỡng chế hữu hiện để Nhà nước thực hiện
quyền lực nhà nước của mình. Cũng giống như cưỡng chế, kê biên tài sản Nhà nước
cũng trao cho các cơ quan khác nhau thực hiện như: Thủ trưởng cơ quan điều tra công
an, Thẩm phán tòa án nhân các cấp… trong đó có Chấp hành viên cơ quan THADS. Sự
khác biệt này được thể hiện ở những khía cạnh chính là chủ thể áp dụng kê biên và mục
đích kê biên. Ví dụ chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn xét xử là thẩm phán giải
quyết vụ việc, chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn thi hành án là do Chấp hành
viên. Về mục đích kê biên của các cơ quan điều tra và cơ quan tòa án nhằm bảo đảm
việc thi hành án, tránh việc tẩu tán, hủy hoại tài sản của bị can, bị cáo, đương sự.
Nhưng mục đích áp dụng biện pháp kê biên của các cơ quan hành chính và cơ quan
THADS là ngoài mục đích như trên còn mục đích xử lý tài sản thanh toán trả tiền cho
khoản tiền phạt, khoản thu cho ngân sách nhà nước và chủ nợ.
14



1.1.3. Đặc điểm của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Cũng như kê biên tài sản nói chung, kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng phải đáp ứng đủ các điều kiện như: Theo bản án, quyết định của tòa án, người
phải thi hành án phải có nghĩa vụ trả tiền cho người phải thi hành án; người phải thi
hành án phải có tài sản để thi hànhữnghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án.
Tài sản bị kê biên có thể là tài sản thuộc sử hữu chung, sở hữu riêng của người phải
thi hành án, tài sản này có thể do người phải thi hành án hoặc do người thứ ba quản
lý, sử dụng; đã hết thời gian tự nguyện do Chấp hành viên ấn định nhưng người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự nguyện,
nhưng cần phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo
pháp luật Việt Nam có một số đặc điểm như sau:
* Mang tính quyền lực của Nhà nước, chủ thể áp dụng biện pháp kê biên là
cá nhân, cơ quan được nhà nước trao quyền thực hiện quyền lực của Nhà nước.
Ở bất cứ một Nhà nước nào trên thế giới đều có Bộ máy Nhà nước được
phân chia thành ba phân nhánh quyền lực, quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Để thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan Nhà nước được lập ra
để thực hiện quyền lực nhà nước. Hệ thống cơ quan THADS được Thủ tướng Chính
phủ thành lập theo ngành dọc từ Trung ương xuống địa phương bao gồm: Tổng cục
THADS thuộc Bộ Tư Pháp, cấp thành phố có Cục THADS tỉnh, cấp huyện có Chi
cục THADS huyện. Ngoài ra còn có cơ quan THADS trong Quân đội đó là Cục thi
hành án thuộc Bộ quốc phòng, Phòng thi hành án thuộc Quân khu. Hệ thống cơ
quan THADS này thuộc phân nhánh các cơ quan hành pháp thực hiện quyền hành
pháp. Nhà nước trao cho Hệ thống cơ quan THADS thi hành về phần dân sự của
bản án, quyết định của Tòa án. Hệ thống cơ quan thi hành án này hoạt động thông
qua đội ngũ các bộ, công chức và người lao động. Tuy nhiên không phải ai cũng
được nhà nước trao quyền thực hiện việc kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng nói riêng và thực hiện các biện pháp cưỡng chế THADS nói chung, Nhà nước
chỉ trao cho người có chức danh, trong đó có chức danh Chấp hành viên.


15


Chấp hành viên là người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án,
quyết định theo quy định (Điều 17 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm
2014). Nội dung của Điều này chỉ ra rằng chỉ có Chấp hành viên mới được áp dụng
các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều 71 Luật THADS năm 2008 sửa
đổi, bổ sung năm 2014 trong đó có việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng. Chấp hành viên là một chức danh tư pháp được Bộ trưởng Bộ
tư pháp bổ nhiệm. Điều kiện để được bổ nhiệm Chấp hành viên, phải là Công dân
Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo đức
tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao,
có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ
THADS, trúng tuyển kỳ thi tuyển thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên
Điều 18 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014. Chấp hành viên được
phân thành Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên
cao cấp, sự phân cấp Chấp hành viên này cho phù hợp với từng trình độ của mỗi
ngạch Chấp hành viên để thủ trưởng cơ quan thi hành án giao việc cho phù hợp với
từng Chấp hành viên trong đơn vị.
* Khi bị kê biên tài sản bảo đảm tiền vay của người sử dụng đất bị đặt vào
tình trạng bị hạn chế giao dịch
Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng mục đích
trước tiên là hạn chế một số quyền sử dụng đất của người phải thi hành án, mà Nhà
nước giao cho. Khi Chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế kê biên tài sản
bảo đảm tiền vay ngân hàng, thì kể từ thời điểm này người phải thi hành án không
được tự mình chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, tặng cho, góp vốn và
thừa kế tài sản bảo đảm tiền vay, nếu người phải thi hành muốn thực hiện các quyền
trên phải thông qua Chấp hành viên phụ trách vụ việc và phải được sự cho phép của
Chấp hành viên, đồng thời phải làm theo những điều kiện theo quy định của pháp luật

THADS. Việc hạn chế một số quyền này chấm dứt khi người phải thi hành án hoàn
thànhữnghĩa vụ tài sản của mình đối với người được thi hành án, bằng quyết định giải
tỏa kê biên tài sản bảo đảm tiền vay của Chấp hành viên, đến thời điểm này tài sản bảo
đảm tiền vay của người phải thi hành án mới không bị hạn chế giao dịch.
16


* Cơ sở pháp lý của cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay là một trong những biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự có tính nghiêm khắc nhất trong các biện pháp cưỡng chế THADS, là
một hoạt động dựa trên các cơ sở pháp lý được pháp luật qui định chặt chẽ. Cơ sở
pháp lý ban đầu chính xác, chặt chẽ sẽ làm tiền đề cho thực hiện các thủ tục tiếp
theo. Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay còn là hoạt động nhạy cảm, ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi của người phải thi hành án. Nếu thực hiện không dựa trên một cơ
sở pháp lý, các thủ tục không được thực hiện đầy đủ và đúng pháp luật, thì khi có
khiếu nại phát sinh mà cơ quan thi hành án không có cơ sở bác đơn khiếu nại của
đương sự, buộc phải công nhận khiếu nại là đúng thì cả một quá trình thi hành án bị
ngưng trệ, thậm trí có thể phải làm lại từ đầu, gây tốn kém về thời gian, tiền bạc của
Nhà nước, tổ chức, công dân. Chính vì vậy, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng phải đảm bảo các cơ sở pháp lý sau:
Thứ nhất, theo Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc
của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, người phải thi hành án
có nghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án. Như vậy, khi Bản án, Quyết định
có hiệu lực trên thực tế là cơ sở pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất để chấp hành
viên căn cứ vào đó để thực hiện cưỡng chế Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng đối với người phải thi hành án và người này phải có nghĩa vụ trả tiền đối với
người được thi hành án.
Thứ hai, đã hết thời gian tự nguyện thi hành án do Chấp hành viên ấn
địnhữngười phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Do tính chất của THADS
khác với thi hành án hình sự là lấy trừng phạt làm đầu. Trong THADS cần thiết phải

có thời gian để người phải thi hành án tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình.
Chính vì vậy tại khoản 1, điều 46 quy đinh “Hết thời gian quy định tại khoản 1 Điều
45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế”. Luật THADS đã quy định thời gian tự nguyện
cố định đối với mọi trường hợp là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận
được quyết định hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.

17


Thứ ba, chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án nhưng người phải thi hành
án có dấu hiệu tẩu tán, hủy hoại tài sản (tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng). Theo
quy định tại khoản 2 Điều 45 LTHADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định: “Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy
hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng
ngay các biện pháp quy định tại Chương IV của luật này”. Như vậy, ngay cả khi
đang trong thời gian tự nguyện thi hành án, nếu Chấp hành viên phát hiện thấy
người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc thực hiện các biện
pháp khác nhằm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án, thì Chấp hành viên cũng có
thể áp dụng ngay biện pháp kê biên Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng để ngăn
chặn hành vi nhằm trốn tránh nghĩa vụ của người phải thi hành án.
Khi áp dụng biện pháp kê biên Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng Chấp hành
viên nhất thiết phải căn cứ vào các điều kiện nêu trên để áp dụng một cách tốt nhất trong
công tác thi hành án của mình đảm bảo được quyền, lợi ích của các chủ thể
* Quyền sử dụng đất là một tài sản đặc biệt trong cưỡng chế kê biên tài sản
để thi hành án dân sự
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm 2013 quy định chế độ sở hữu
đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Như
vậy, với tư cách là đại diện chủ sở hữu, Nhà nướcầmới có đầy đủ các quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt đối với đất đai. Tuy nhiên, trên thực tế Nhà nước không

trực tiếp quản lý và khai thác lợi ích trên từng mảnh đất mà phần lớn giao đất cho
các tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Quyền sử dụng đất ở Việt Nam có
tính chất đặc thù, có quan điểm cho rằng: “Nhà nước có quyền sở hữu đất đai, người
sử dụng đất cũng có quyền sở hữu đất đai bằng việc nhà nước ghi nhận quyền
chuyển quyền sử dụng đất bao gồm các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất. Việc thừa nhận này chính là Nhà nước
đã thừa nhận hình thức sở hữu đất đai có điều kiện, nói cách khác đây gọi là hình
thức sở hữu kép đối với đất đai”. Tuy nhiên, không thể đồng nhất quyền sở hữu đất
đai với quyền sử dụng đất bởi sự khác nhau cả về nội dung và ý nghĩa.

18


Quyền sở hữu đất đai là quyền nguyên thủy (có trước), còn quyền sử dụng
đất là quyền phái sinh (có sau) xuất hiện khi được nhà nước giao đất hoặc cho thuê
đất, cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất hay công nhận quyền sử dụng đất.
Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ còn quyền sử dụng
đất lại không trọn vẹn, đầy đủ. Bởi vì, người sử dụng đất không có đầy đủ các
quyền năng như Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Mặt khác, không phải
chủ sử dụng đất nào cứ có quyền sử dụng đất hợp pháp là có các quyền chuyển
quyền của người sử dụng đất.
Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền tồn tại độc lập còn quyền sử dụng đất
lại là quyền phụ thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện là người sử dụng đất chỉ được sử
dụng đất trong phạm vi nhất định (về diện tích đất, thời gian sử dụng đất, mục đích
sử dụng đất). Như vậy, quyền sử dụng đất được hiểu là quyền của người sử dụng
đất khai thác các thuộc tính của đất đai, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức
từ tài sản một cách hợp pháp phục vụ cho mục đích của mình và quyền chuyển
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
* Đặc điểm về chủ thể áp dụng
Việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế, ra quyết định cưỡng chế và tổ

chức thực hiện cưỡng chế kê biên Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng thuộc thẩm
quyền của một Chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành vụ việc thi hành
án.Theo qui định của luật thi hành án năm 2008: Chấp hành viên là người được nhà
nước giao nhiệm vụ thi hành các Bản án, Quyết định do Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ
nhiệm. Công dân Việt Nam có trình độ cử nhân luật trở lên và một số điều kiện
khác như trung thực, phẩm chất, đạo đức tốt và có thời gian công tác pháp luật thì
có thể được bổ nhiệm làm chấp hành viên trong cơ quan thi hành án dân sự ở các
địa phương.
Chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành quyết định thi hành án của thủ
trưởng cơ quan thi hành án ban hành và là người có thẩm quyền quyết định áp dụng
biện pháp kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng đối với vụ việc thi hành án
đó. Dựa trên kết quả sự tự nguyện của người phải thi hành án và điều kiện về tài sản
hiện có là tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng của người phải thi hành án Chấp hành
19


viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng để đảm bảo thi hành án nghĩa vụ theo Bản án, Quyết định của cơ quan có
thẩm quyền.
1.1.4. Vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
* Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng là biện pháp thi hành triệt để
bản án, quyết định của Tòa án.
Tài sản đem bảo đảm tiền vay ngân hàng thường là là tài sản có giá trị lớn, vì
vậy khi Chấp hành viên thực hiện biện pháp cưỡng chế này phần lớn thi hành triệt
để bản án, quyết định của tòa án có nghĩa vụ tài sản có giá trị lớn mà các biện pháp
cưỡng chế khác không mang lại hiệu quả như biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập
của người phải thi hành án, kê biên tài sản có giá trị không lớn, Thu tiền từ hoạt
động kinh doanh của người phải thi hành án… Mặt khác đối với người phải thi hành
án, phải thi hành nhiều bản án, quyết định của tòa án, do đó họ phải thực hiện nhiều
nghĩa vụ về trả tiền thì việc xử lý tài sản bảo đảm sẽ bảo đảm thi hành triệt để

không những một bản án, quyết định mà còn thi hành triệt để nhiều bản án, quyết
định của Tòa án.
* Kê biên tài sản bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành
án và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.
Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng vì lý do hoặc lợi
ích cá nhân nào đó người phải thi hành án không muốn tự nguyện thi hành án, họ
nại ra nhiều lý do bất hợp pháp để chốn tránh hoặc kéo dài việc thực hiện nghĩa vụ
của mình đối với người được thi hành án. Trong trường hợp này Chấp hành viên
thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm nhằm bảo đảm cho việc thi
hành án, đảm bảo cho lợi ích cả hai bên người phải thi hành án và người được thi
hành án, bởi vì kể từ thời điểm Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế kê biên tài
sản bảo đảm của người phải thi hành án thì các khoản nợ có đến thời điểm này đều
được bảo đảm thanh toán trước. Người phải thi hành án không thể kéo dài thêm thời
gian thực hiện nghĩa vụ của mình, nhằm mục đích kéo dài thời gian thi hành án chờ
thời cơ có lợi cho mình. Người được thi hành án thì nhận được lợi ích vật chất mình
được hưởng theo bản án, quyết định của tòa án với thời giam nhanh nhất. Việc thực
20


hiện xong bản án, quyết định của tòa án tránh được tổn thất về vật chất và tinh thần
cho cả hai bên, người được thi hành án và người phải thi hành án.
* Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay còn nhiệm vụ là ngăn ngừa tình trạng tẩu
tán tài sản bảo đảm, giáo dục ý thức pháp luật cho công dân.
Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay là một biện pháp cưỡng chế lớn phải huy
động nhiều lực lượng, liên quan đến nhiều ngành, cấp và được đưa lên thông tin đại
chúng. Vì vậy thông qua buổi cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay nhằm
ngăn ngừa những đối tượng đã vay ngân hàng trây ỳ, chống đối không thực hiện
nghĩa vụ của mình. Mặt khác thông qua buổi cưỡng chế nhằm giáo dục ý thức pháp
luật cho mỗi công dân hiểu biết thêm pháp luật về THADS để họ tự điều chỉnh hành
vi của mình trong những trường hợp tương tự.

1.2. Cơ sở và phân loại kê biên kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
1.2.1. Cơ sở của việc kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng là một loại tài sản nên có thể được giao
dịch dân sự, điều này được quy định trong Bộ luật dân sự, tài sản bảo đảm được
thực hiện trong các giao dịch dân sự như chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, tặng
cho, góp vốn và thừa kế. Hiện nay ở khắp nơi trên cả nước việc chuyển nhượng và
chuyển đổi mục đích sử dụng tài sản bảo đảm tiền vay gia tăng với lượng lớn mang
lại nhiều nguồn lợi lớn cho Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Với chính sách đổi mới
của Đảng và Nhà nước ta coi tài sản bảo đảm tiền vay là một nguồn lực cho đầu tư
công nghiệp hóa và hiện hóa đất nước. Cùng với sự phát triển của đất nước việc kê
biên tài sản bảo đảm tiền vay trong những năm gần đây ngày càng gia tăng về số vụ
việc trong các cơ quan THADS.
Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng là một loại tài sản có thể quy ra bằng tiền,
việc kê biên bán đấu giá có tính khả thi cao trong việc thi hành nhiều nghĩa vụ THADS.
Kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật thi hành
án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 tại Điều 71 là một trong hai biện
pháp của cơ quan thi hành án dân sự, biện pháp còn lại của cơ quan thi hành án
dân sự là tự nguyện thi hành án. Cơ sở của việc kê biên tài sản thể hiện ở những
nội dung như.
21


×