Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố bắc ninh, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TUẤN QUANG

KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ
GIÁC VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả NGUYỄN
nêu trong Luận
vănQUANG
chưa được công bố trong
TUẤN
bất kỳ công trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn là kết quả quá trình tìm tòi nghiên cứu!


Người cam đoan

KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ
GIÁC VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
Ngô Xuân Trung
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Trần Đình Nhã

HÀ NỘI, 2020


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
DANH MỤC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 3
4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 3

4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu........................................ 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................. 4
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................. 4
NỘI DUNG......................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP
NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN
NGHỊ KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.. 6
1.1. Khái niệm tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố...................... 6
1.2. Những nội dung cơ bản của hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố................................... 15
1.2.1. Kiểm sát việc tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi
tố .............................................................................................................. 15
1.2.2. Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị
khởi tố...................................................................................................... 17
1.2.3. Về tạm đình chỉ và phục hồi việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố ....................................................................... 23


1.2.4. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ........................................ 26
1.2.5. Lập hồ sơ việc kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố ..................................................................................... 28
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................... 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC THỤ LÝ
GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI
TỐ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮCNINH .......... 32
2.1. Tình hình thụ lý và kết quả công tác giải quyết tố giác, tin báo tội
phạmvà kiến nghị khởi tố trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
..................................................................................................................... 32

2.2. Những kết quả đạt được ....................................................................... 38
2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ............................................... 42
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................... 54
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO,
TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ ..................................... 55
3.1. Yêu cầu và định hướng hoàn thiện qui định của pháp luật tố tụng hình
sự về hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội
phạmvà kiến nghị khởi tố trong bối cảnh hiện nay ..................................... 55
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát việc tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố .................. 58
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................... 73
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 77


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Người cam đoan


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Cụm từ viết tắt

Cụm từ viết đầy đủ


BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

THQCT

Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN
Bảng 2.1: Số liệu tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố Viện
kiểm sát thụ lý và kết quả giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.2: Số liệu các cuộc kiểm sát trực tiếp công tác tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan điều tra từ
năm 2015 đến 2019.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là một hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Đây là hoạt động mở đầu của quá trình giải quyết vụ
án hình sự nhằm phát hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở tiếp nhận tin báo, tố
giác, về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm
tra, xác minh và xác định có dấu hiệu tội phạm hay không để quyết định việc
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hoạt động
này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Do
vậy, việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát có vị trí, vai trò và ý
nghĩa trọng yếu để bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội đều được

phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp luật. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ra
đời thay thế Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đã bổ sung nhiều điểm mới về
hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố. Thực tiễn thực hành quyền công tố cho thấy, nếu kiểm sát
tốt việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
sẽ quyết định chất lượng cáo trạng, thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử. Và ngược lại: đồng thời, thông qua hoạt động này để có
cơ sở xác định việc khởi tố là đúng người, đúng tội và bảo đảm các căn cứ để
xử lý tội phạm, bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý theo
quy định của pháp luật, tránh làm oan, sai và bỏ lọt tội phạm.

1


Xuất phát từ yêu cầu thực tế nêu trên, học viên đã chọn đề tài: “Kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh” để làm đề tài nghiên cứu
luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan tới đề tài nêu trên, đã có một số công trình nghiên cứu đề cập
đến như:“Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công an nhân dân; “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức- Hội luật gia
Việt Nam; “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”,GS.TS. Võ Khánh
Vinh (chủ biên), Nxb. Tư pháp, 2011; PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên)
Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự, nxb CAND, 2004; Viện nhà nước
và Pháp luật, Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Trường Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa
Luật (2009); Phạm Mạnh Hùng (2007), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc khởi tố vụ án và kiểm sát việc khởi tố vụ án”, Tạp chí Kiểm sát; Lê

Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học,
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội; Vũ Gia Lâm
(2013), Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của VKS nhân dân trong kiểm sát việc khởi tố vụ án,
Tạp chí Kiểm sát; Nguyễn Tất Viễn (2003), “Hoạt động tư pháp và kiểm sát
các hoạt động tư pháp”, Kỷ yếu đề tài cấp bộ: Những giải pháp nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Hà Nội…
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở khái quát
chung hoặc được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên
cứu khác về hoạt động kiểm sát tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
hoặc việc nghiên cứu đặt trong bối cảnh Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2


2015chưa ra đời, với nhiều quy mới về hoạt động kiểm sát tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực
tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh” phù hợp với lý luận và đòi hỏi của
thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam.
- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng kiểm sát
việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ
thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, đánh giá thực trạng và
đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về hoạt động kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố cũng
như nâng cao chất lượng hoạt động này trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh

Bắc Ninh nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác

3


về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, đặc biệt
theo quy định của BLTTHS 2015 hiện hành, trong khoảng thời gian từ năm
2015 đến 2019, trên phạm vi thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài luận văn là phương
pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm.
Phương pháp nghiên cứu: Để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng
hợp, phương pháp thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Trên cơ sở phân tích những vấn đề chung về hoạt động
kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố, luận văn góp phần nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ thể áp
dụng pháp luật; đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để cơ
quan, người có thẩm quyền nghiên cứu, vận dụng trong quá trình áp dụng
pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham
khảo đối với người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về hình sự và tố tụng
hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:

4


Chương 1. Lý luận chung về hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng kiểm sát việc thụ lý, giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát
việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.

5


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP
NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN
NGHỊ KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là nguồn thông tin
q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện dấu hiệu


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

của tội phạm, trên cơ sở đó kịp thời tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

minh để có căn cứ tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự.

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

Trong bất kỳ xã hội nào, tội phạm là một hiện tượng tiêu cực, là những hành

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

vi đã vi phạm các chuẩn mực xã hội. Ở mỗi nước khác nhau thì cũng có sự

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


quan niệm khác nhau về tội phạm, việc quy định hành vi nào được coi là tội

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

phạm tùy theo bản chất của mỗi nhà nước và phong tục tập quán của mỗi

q

q

q

dân tộc.

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

Tại Việt Nam, khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ Luật
q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

hình sự (BLHS) năm 1999, Điều 8 BLHS 2015 trong đó: “Tội phạm là hành

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện”.

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

Vậy, tố giác về tội phạm là gì, tin báo về tội phạm là gì? Việc đưa ra
q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

một khái niệm chính xác sẽ giúp các cơ quan tố tụng thuận lợi hơn khi thực


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

thi nhiệm vụ. Theo Từ điển tiếng Việt thì:

q

q

q

q

q

q

q

q

q

- “Tố giác” là báo cho cơ quan chính quyền biết người hoặc hành động
q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

phạm pháp nào đó.

q

q


q

q

- “Tin” là điều được truyền đi, báo cho biết về sự việc tình hình xảy ra
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

hoặc cũng có thể được hiểu là “sự truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

6


q

q

q

q

q

q

q


khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh và những quá trình xảy ra trong

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

nó.”

q

- Khái niệm “Báo” được hiểu theo hai nghĩa:
qq

q

q


q

q

q

q

q

Thứ nhất là, cho biết việc gì đó đã xảy ra.
q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

Thứ hai là, cho người có trách nhiệm nào đó biết về việc xảy ra có thể
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

hại đến trật tự an ninh chung là dấu hiệu biết trước.

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

Khoản 1 Điều 2 Luật tố cáo năm 2018 quy định: Tố cáo là việc cá nhân
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức,

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm:


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


a) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ,
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

công vụ;


q

q

b) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

vực.

q

Tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm khác nhau. Thứ nhất, tố
q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

cáo hành vi vi phạm pháp luật, không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm.

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

Còn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

thành tội phạm đã được quy định trong BLHS. Từ đó có thể thấy khái niệm

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

tố cáo rộng hơn và bao hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm theo TTHS.


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

Thứ hai, tố cáo là quyền của công dân, còn tố giác về tội phạm là quyền

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

đồng thời cũng là nghĩa vụ của công dân. Thứ ba, quan hệ pháp luật về tố

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

cáo hành vi vi phạm pháp luật chỉ phát sinh sau khi công dân thực

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

hiện quyền tố cáo. Còn quan hệ pháp luật tố giác về tội phạm phát sinh từ khi

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

công dân biết tội phạm. Công dân có quyền tố cáo hay không tố cáo một

q


q

q

q

q

q

q

q

q

7

q

q

q

q

q

q


q


hành vi vi phạm pháp luật nhưng nếu biết rõ hành vi hoặc người thực hiện

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

hành vi có dấu hiệu tội phạm được quy định tại BLHS thì công dân phải tố

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

giác về hành vi đó.

q

q

q

q

q

Tố giác và tin báo về tội phạm được pháp luật quy định là những cơ sở
q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không. Điều đó cũng khẳng định rằng,


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

cơ quan có thẩm quyền muốn khởi tố vụ án hình sự, phát động những quan

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

hệ tố tụng hình sự phải bắt đầu từ những tin tức về tội phạm được chính thức

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

thông báo chứ không phải là những lời đồn đại không có căn cứ. Người báo

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

tin về tội phạm không nhất thiết phải là người bị hại hoặc có quan hệ trực

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

tiếp đến tội phạm đã xảy ra.

q

q


q

q

q

q

q

Cần phân biệt tố giác tội phạm với tin báo về tội phạm:
q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

Công dân có quyền và nghĩa vụ tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

hình sự mà họ biết với các cơ quan, tổ chức. Luật cho phép công dân có thể

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

tố cáo về tội phạm với bất cứ cơ quan, tổ chức nào mà họ thấy thuận tiện

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

không nhất thiết phải là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trong tất

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

cả các trường hợp đó, việc tố cáo của công dân về tội phạm đều được coi là

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

tố giác. Tố giác tội phạm có thể bằng miệng có thể trực tiếp hoặc qua thư,

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

điện thoại hoặc bằng văn bản…Trường hợp người bị hại trình báo về sự kiện

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

phạm tội liên quan đến họ cũng được coi là tố giác tội phạm. Có thể hiểu sự

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

tố giác của công dân qua điện thoại như là hình thức tố giác bằng miệng.

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

Tuy nhiên, trong trường hợp đó, không có thể nói tới việc lập biên bản với

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

chữ ký của người tố giác tội phạm ngay. Do đó, việc tiếp nhận thông tin tố

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

giác tội phạm như thế phải được giải quyết theo những thủ tục phức tạp hơn.

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

Mặc dầu Điều luật không quy định chi tiết về vấn đề này nhưng rõ ràng khi

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

nhận được thông tin tố giác tội phạm qua điện thoại cơ quan tổ chức nhận tin

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

phải kiểm tra, ghi nhận số điện thoại và tên tuổi, địa chỉ của người tố giác và

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

8

q

q

q

q

q

q

q

q


những thông tin khác có ý nghĩa phục vụ xác định người tố giác, giải thích

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


trách nhiệm cho họ. Mặt khác, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

quyền phải kiểm tra và có trách nhiệm thiết lập liên hệ trực tiếp với người tố

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

giác tội phạm để làm rõ căn cứ xác minh khởi tố vụ án. Trường hợp người bị

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

hại trình báo và yêu cầu khởi tố thì bản chất của sự việc cũng là sự tố giác về

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

tội phạm, chính vì thế điều luật không quy định riêng một khoản độc lập.

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

Tố giác tội phạm là hành vi của công dân là người mục kích, người nhận
q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

được thông tin về tội phạm hoặc là nạn nhân của tội phạm với một cơ quan,


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

tổ chức bất kỳ nào đó. Trong khi đó, ý nghĩa tin báo phản ánh mối liên hệ

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

giữa một chủ thể có tính chất pháp nhân – cơ quan, tổ chức truyền tin đi với

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

một cơ quan có trách nhiệm trong hệ thống chủ thể thực hiện các quyền năng

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

tố tụng hình sự mà trực tiếp ớ đây là quyền khởi tố vụ án hình sự. Trong đó,

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

tin báo tội phạm có thể là sự chuyển tiếp những thông tin mà cơ quan, tổ

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

chức đã nhận được từ tố giác tội phạm của công dân. Cũng có thể là những

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

thông tin thu được từ hoạt động nghiệp vụ của ngay chính tổ chức đó (ví dụ,

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

qua thanh tra, kiểm tra) hoặc được phản ánh bằng chính hoạt động truyền

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

thông theo chức năng nghề nghiệp (các cơ quan thông tin đại chúng).Căn cứ

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

vào Điều 144 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì tin báo tội phạm có

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


thể được phân thành hai loại: Tin báo tội phạm có thể là tin do cơ quan, tổ

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

chức gửi đến cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự (khoản 2,

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự) trực tiếp phản ánh về tội phạm; tin báo có

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

thể được chính thức thông báo hoặc phản ánh trên các phương tiện thông tin

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

đại chúng mà các cơ quan chuyên trách đấu tranh với tội phạm có thẩm

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

quyền phải xem xét, nghiên cứu để rút ra những kết luận (khoản 3, Điều 144

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


Bộ luật tố tụng hình sự).

q

q

q

q

q

q

Tố giác tội phạm và tin báo tội phạm cần phải được thể hiện hoặc ghi
q

q

q

q

q

q

q


q

q

nhận bằng những hình thức nhất định.

q

q

q

q

q

q

q

9

q

q

q

q


q

q


Theo quy định tại điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 việc tiếp
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

nhận những thông tin về tội phạm từ công dân là trách nhiệm của các cơ

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

quan, tổ chức.

q

q

q

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự, công dân
q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc với

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

các cơ quan khác, tổ chức khác.Không chỉ các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Cơ

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


quan điều tra, mà Điều luật còn quy định, các cơ quan khác, các tổ chức, bất

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

kể là cơ quan, tổ chức nào khi công dân tố giác tội phạm đều có trách nhiệm

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

tiếp nhận.Pháp luật quy định như vậy nhằm tạo điều kiện cho cơ chế thông

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

tin về tội phạm được nhanh chóng, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia rộng

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

rãi và thuận tiện vào cuộc đấu tranh với tội phạm, đồng thời nâng cao trách

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc đấu tranh với tội phạm, bảo vệ

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.Cũng theo quy định


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

tại điều trên, nếu công dân tố giác tội phạm bằng miệng thì cơ quan, tổ chức

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

tiếp nhận phải lập biên bản tiếp nhận.Biên bản tiếp nhận tố giác tội phạm của

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

công dân được lập theo yêu cầu chung được quy định tại Điều 133 của Bộ

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

luật tố tụng hình sự. Người tố giác tội phạm được giải thích về trách nhiệm

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

của mình đối với những thông tin đã tố giác, Biên bản phải ghi rõ nội dung

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

tố giác và phản ánh rõ nguồn gốc thông tin về tội phạm mà người tố giác biết

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

được. Biên bản phải được người tố giác ký xác nhận.Cơ quan, tổ chức nhận

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

được tố giác tội phạm của công dân có trách nhiệm phải thông báo cho Cơ

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

quan điều tra hoặc Viện kiểm sát bằng văn bản để xem xét việc khởi tô hay

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

không khởi tố vụ án hình sự.Đối với những vụ án mà luật quy định chỉ khởi

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

tố theo yêu cầu của người bị hại, các cơ quan tiếp nhận thông tin ban đầu đó

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


cũng phải làm các thủ tục như đối với các trường hợp khác khi công dân

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

tố giác tội phạm.Cơ quan, tổ chức khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

q

q

q

q

q

q

q

q

q

10

q

q


q

q

q

q


mình mà phát hiện thấy có dấu hiệu tội phạm cũng phải báo tin ngay cho Cơ

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

quan điều tra bằng văn bản.

q

q

q

q

q

q


Có thể thấy rằng, có hai loại cơ quan, tổ chức mà khi thực hiện các chức
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

năng của mình có khả năng phát hiện dấu hiệu tội phạm: Loại thứ nhất là các

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

cơ quan có chức năng bảo vệ pháp luật, chịu trách nhiệm tổ chức các hoạt

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

động phòng ngừa, phát hiện tội phạm trên địa hạt mình quản lý. Đó có thể là

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

các cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Hải quan, Kiểm lâm, lực

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

lượng Cảnh sát biển,… Thông qua các hoạt động chức năng của mình các cơ

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

quan này có nhiều khả năng phát hiện dấu hiệu tội phạm. Ngoài một số

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

trường hợp mà luật quy định các cơ quan này có thể tiến hành kiểm tra, xác

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

minh và khởi tố vụ án, các cơ quan này có trách nhiệm phải cung cấp bằng

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

văn bản cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền các thông tin, tài liệu về tội

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

phạm, phối hợp với Cơ quan điều tra trong việc khám phá tội phạm đã xảy

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

ra; loại thứ hai, là các cơ quan tổ chức, tuy không có chức trách hoạt động

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng hoạt động chức năng của họ dễ phát

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

hiện ra các dấu hiệu tội phạm, ví dụ, các cơ quan thanh tra, kiểm tra, các cơ

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

quan kiểm toán,… Những cơ quan này trong quá trình thực hiện chức năng

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

của mình do phải thường xuyên kiểm tra tính đúng đắn, hợp pháp của các

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

hoạt động kinh tế – xã hội trong lĩnh vực quản lý của mình mà có thể phát

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

hiện được những dấu hiệu của tội phạm.

q

q

q

q

q

q

q


q

Trong trường hợp thấy không đúng thẩm quyền của mình thì cơ quan đã
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


tiếp nhận thông tin về tội phạm, kể cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

án đều phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

vụ việc đó; không được viện bất cứ lý do gì mà trì hoãn hoặc từ chối việc

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc không thông báo. Việc giải quyết tin

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

báo tội phạm, tố giác tội phạm phải theo đúng thẩm quyền và thủ tục do

q

q

q

q


q

q

q

q

q

11

q

q

q

q

q

q

q


Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 146) và các văn bản pháp luật về tố

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

tụng hình sự quy định.

q

q

q

q

q

Sở dĩ Điều 144, Bộ luật tố tụng hình sự quy định các khoản khác nhau
q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

quy định về tin báo tội phạm của các cơ quan, tổ chức và tin báo trên các

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

phương tiện thông tin đại chúng là vì những lý do về thủ tục tiếp nhận, trách

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

nhiệm tiếp nhận, nghiên cứu và giải quyết những loại tin báo đó có những

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

điểm cụ thể khác nhau…Theo quy định thì, các cơ quan, tổ chức khi phát

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

hiện tội phạm hoặc nhận được tố giác tội phạm của công dân phải báo tin về

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản. Như vậy, tin báo của cơ quan

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

hoặc tổ chức là tin có địa chỉ cụ thể, đã được các cơ quan tổ chức đó sơ bộ

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


kiểm tra (kể cả từ sự tố giác của công dân cũng như do chính cơ quan tổ

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

chức đó phát hiện). Luật quy định rằng các cơ quan tổ chức khi phát hiện

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

được hoặc nhận được tố giác tội phạm của công dân phải báo tin ngay. Mặc

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

dù luật không quy định thời gian cụ thể nhưng yêu cầu báo ngay đó có thể

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

hiểu là khi nhận được thông tin về tội phạm cơ quan, tổ chức phải lập tức

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

triển khai các biện pháp luật định về lập biên bản, ghi nội dung, thực hiện sự


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

sơ bộ kiểm tra các yếu tố cần thiết để bảo đảm độ tin cậy khách quan của

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

nguồn tin, sau đó không chậm trễ gửi thông báo (báo cáo,..) cho Cơ quan

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

điều tra. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án nhận được tin báo về tội

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

phạm cũng phải chuyển ngay những tin báo, tố giác tội phạm cho Cơ quan

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

điều tra có thẩm quyền. Đồng thời, với loại tin báo này, pháp luật quy định.

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

Cơ quan điều tra phải thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan, tổ chức đã

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

báo tin về tội phạm. Khoản 3, Điều 146 quy định: kết quả giải quyết tin báo

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

tố giác tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố phải được gửi cho Viện Kiểm sát

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã tố giác

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

tội phạm biết.

q

q

q

12

q

q

q

q

q

q

q

q



Ngoài ra, trách nhiệm của cơ quan điều tra là phải có biện pháp bảo đảm
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

an toàn cho người đã tố giác nếu tin báo của cơ quan, tổ chức gửi đến cơ

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

quan điều tra là kết quả xử lý ban đầu sự tố giác của công dân.

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

Đối với tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng thì khi có tin
q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

báo tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

thanh, truyền hình… cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét và giải

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

quyết tin báo đó theo quy định của pháp luật. Khác với loại tin báo nói trên

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

luật không quy định cụ thể các yêu cầu về việc thông báo bằng văn bản và

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


áp dụng các biện pháp bảo vệ người đã đưa tin.

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

Như vậy, đòi hỏi phải có sự nhận thức rõ và phân hoá tố giác tội phạm
q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

và tin báo tội phạm.Sở dĩ nhà làm luật quy định các cơ quan, tổ chức nhận


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

được tin báo, tố giác của công dân hoặc trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

đều phải thông tin, báo cáo về những thông tin đó bằng văn bản cho Cơ quan

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

điều tra, mà không quy định thông báo đến các cơ quan khác là nhằm bảo

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

đảm cho thông tin về tội phạm được tập trung, xử lý nhanh chóng hơn, tạo

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

thêm một bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc khách quan trong tố tụng

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

hình sự, đồng thời thuận tiện cho công dân tham gia đấu tranh với tội phạm.

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


Từ những phân tích trên, theo quy định tại Điều 144 Bộ luật tố tụng
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

hình sự năm 2015 thì:


q

q

q

q

q

- Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu
q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.

q

q

q

q

q


q

q

q

q

- Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ
q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.

q

q

q

q

q

q

q

q

q

13


q

q

q

q

q

q


- Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị
q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKS

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

Và có thể nêu một khái niệm chung về tin báo, tố giác về tội phạm như
q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

sau:

q

Tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những thông tin về
q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

tội phạm được quy định trong BLHS do công dân, cơ quan nhà nước, tổ


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


chức chính trị, chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,... (gọi tắt

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

là người, cơ quan, tổ chức) cung cấp bằng các hình thức thông tin khác nhau;

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

thú để cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo quy định của

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

BLTTHS.

q

Về mặt TTHS thì khái niệm về tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

khởi tố có ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

tố tụng và người tiến hành tố tụng trong công tác phát hiện, điều tra, truy tố,

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

xét xử tội phạm và người phạm tội. Ở phương diện điều tra khám phá tội

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

phạm; tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những thông tin

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

ban đầu, có ý nghĩa rất lớn đối với các cơ quan có thẩm quyền xem xét tính

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

chất nghiêm trọng của sự việc, là căn cứ để CQĐT mở ra những hoạt động


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

điều tra, xác minh theo luật định nhằm làm rõ tính có căn cứ và hợp pháp

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

của các tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Từ đó làm cơ sở để

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

CQĐT tiến hành khởi tố vụ án hình sự, mở ra một giai đoạn mới trong tố

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

tụng hình sự là giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

Ngoài ra cần phân biệt tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

với đơn thư tố cáo nặc danh, đơn thư tố cáo của công dân về hành vi vi phạm

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

pháp luật thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước. Theo tác

q

q

q

q

q

q

q

q

14

q

q

q


q

q

q


giả, tố cáo có bản chất là cung cấp thông tin giống như tin báo tội phạm, nên

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

không cần câu nệ về chuyện nặc danh hay không nặc danh mà cần xem đó là

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

một nguồn cung cấp thông tin. Khi cơ quan chức năng được cung cấp thông

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

tin và có chứng cứ để xác minh nguồn thông tin đó thì phải có trách nhiệm

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


xử lý, xem xét và giải quyết. Việc không quy định giải quyết loại tố cáo nặc

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

danh sẽ dẫn đến tình trạng bỏ sót, không xử lý những hành vi vi phạm bị tố

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

giác.

q

1.2. Những nội dung cơ bản của hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.2.1. Kiểm sát việc tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
Tại khoản 1 Điều 145 BLTTHS năm 2015 không chỉ quy định cụ thể cơ
quan có trách nhiệm tiếp nhận mà còn quy định về trách nhiệm của cơ quan
có thẩm quyền không được từ chối tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố. Việc này góp phần đảm bảo tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố được tiếp nhận, giải quyết đầy đủ, kịp thời.
Đồng thời, khoản 3 Điều 146 BLTTHS năm 2015 còn quy định về trách
nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Công an
xã, phường, thị trấn, Đồn Công an (gọi chung là Công an cấp xã). Quy định
này một mặt tăng thẩm quyền cho Công an cấp xã, phường, thị trấn trong

công tác tiếp nhận và xác minh sơ bộ ban đầu đối với tin báo, tố giác tội phạm
và kiến nghị khởi tố, đồng thời nhằm phân loại kịp thời, chính xác ngay từ
đầu việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố,
hạn chế, khắc phục tình trạng tồn đọng, kéo dài thời hạn giải quyết lượng tố
giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố cho các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết.

15


Căn cứ các quy định về trình tự, thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo tội
phạm và kiến nghị khởi tố, VKS thực hiện quyền kiểm sát của mình có ý
nghĩa thiết thực, nhằm đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố đều phải được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, kịp thời phát hiện
các sai phạm, thiếu sót để ban hành kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục,
chấn chỉnh kịp thời. Theo đó, trách nhiệm của VKS trong giai đoạn này bao
gồm:
Thứ nhất, tiếp nhận đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố do các cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển đến và chuyển ngay cho CQĐT có
thẩm quyền giải quyết. Trường hợp công dân đến tố giác tại VKS, Viện
trưởng phải phân công KSV tiếp nhận đầy đủ, ghi nhận vào sổ theo dõi và
thực hiện việc phân loại, xử lý đơn đã tiếp nhận và chuyển ngay đơn thư tố
giác kèm các tài liệu liên quan đến CQĐT có thẩm quyền đồng thời thực hiện
việc kiểm sát giải quyết tin tố giác đó trong trường hợp thuộc thẩm quyền
kiểm sát của mình.
Thứ hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Đồng thời, kiểm sát việc phân loại và xử lý các tố giác, tin báo và kiến
nghị khởi tố mà CQĐT tiếp nhận, nhất là việc chuyển tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền.
Việc thực hiện các hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố được tiến hành thường xuyên, liên tục và hết
sức chặt chẽ và công tác phân loại tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố cần được thực hiện chính xác, kịp thời, đồng bộ, đảm bảo cho các tố
giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố được phân loại và thụ lý, xử lý

16


đúng quy trình tố tụng. Vì vậy, KSV cần nắm chắc các thông tin liên quan đến
tội phạm, các quy định pháp luật TTHS về công tác tiếp nhận, phân loại tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố để có kiến thức pháp luật toàn
diện, nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động kiểm sát, góp phần quan
trọng cho công tác thống kê số liệu, làm cơ sở nhận định, đánh giá tình hình
tố giác của công dân, tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức và việc thực
hiện trách nhiệm kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền.
1.2.2. Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần
q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Chức năng

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

của Viện KSND được thể hiện tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “Viện

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

Điều 2 Luật Tổ chức Viện KSND năm 2014: “Viện Kiểm sát nhân dân là cơ

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng

q

q

q


q

q

q

q

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

Từ các phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm kiểm sát hoạt động tư
q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

pháp trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

như sau: “Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tin báo, tố giác

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

về tội phạm và kiến nghị khởi tố là một nhóm quyền năng pháp lý của VKS,

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

có nội dung là kiểm tra, giám sát trực tiếp và liên tục các hành vi, quyết định

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết tin báo,

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật”.

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay chưa có một
q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

định nghĩa thống nhất về khái niệm: “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, bởi lẽ, chúng ta mới chỉ dừng lại

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

nghiên cứu ở cấp độ kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung. Để xây

q

q


q

q

q

q

q

q

q

17

q

q

q

q

q

q

q



dựng khái niệm: “Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

kiến nghị khởi tố” chúng ta có thể đi từ khái niệm: “Kiểm sát các hoạt động

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

tư pháp” để đưa ra một khái niệm có tính thống nhất và chính xác.

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

Từ các phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm kiểm sát việc giải
q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố như sau: “Kiểm sát

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là việc Viện

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


kiểm sát sử dụng tổng hợp quyền năng pháp lý thuộc nội dung công tác kiểm

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

sát do pháp luật tố tụng hình sự quy định để thực hiện chức năng kiểm sát

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giải quyết tin báo, tố giác về tội

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

pháp luật”.

q

q

Nhiệm vụ giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là
q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải tổ chức và tiến hành


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

những biện pháp, thủ tục cần thiết để tiếp nhận đầy đủ, kiểm tra xác minh và

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

xử lý theo luật định mọi thông tin về tội phạm do cơ quan, tổ chức và cá

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

nhân gửi đến, nhằm quyết định khởi tố hay quyết định không khởi tố vụ án

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

hình sự, áp dụng các biện pháp cần thiết bảo đảm an toàn cho người tố giác.

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

Giải quyết tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố là hoạt động tiền tố tụng
q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

được quy định trong pháp luật TTHS. Các quan hệ phát sinh trong việc thực


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


hiện nhiệm vụ giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

được điều chỉnh trực tiếp bởi các quy phạm của Bộ luật tố tụng hình sự và cả

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

các quy phạm của các văn bản dưới luật khác. Mặc dù đều liên quan đến tin

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

báo, tố giác và kiến nghị khởi tố nhưng việc tiếp nhận tin báo, tố giác và

q

q

q

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

kiến nghị khởi tố ở giai đoạn đầu với việc giải quyết tin báo tố giác là những

q


q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

hoạt động có bản chất pháp lý khác nhau và sự điều chỉnh pháp luật đối với

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q

q


q

q

q

q

q

các hoạt động này cũng khác nhau. Nếu việc tiếp nhận tin báo, tố giác

q

q

q

q

q

q

q

q

18


q

q

q

q

q

q

q


×