Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.9 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ TIẾN KHOA

MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ TIẾN KHOA

MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS NGUYỄN VĂN HIỂN

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập
của riêng tôi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ
ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ............................................................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự..................7
1.2. Đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự........................................................... 11
1.3. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt, miễn
chấp hành hình phạt và với các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự..................................................................................................................................................... 12
1.4. Quy định về miễn trách nhiệm hình sự qua các giai đoạn.......................18
Chương 2 QUY ĐỊNH MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO BỘ
LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH
PHỐ HÀ NỘI.................................................................................................................................. 29
2.1. Quy định miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015..........29
2.2. Thực tiễn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự tại thành phố Hà Nội .. 44

Chương 3 GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH VỀ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ................................................................................... 61
3.1. Sự cần thiết của việc bảo đảm áp dụng đúng quy định về miễn
trách nhiệm hình sự................................................................................................................ 61
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định về miễn trách

nhiệm hình sự............................................................................................................................ 63
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 77


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

CTTP:

Cấu thành tội phạm

TAND:

Tòa án nhân dân


TNHS:

Trách nhiệm hình sự

MTNHS:

Miễn trách nhiệm hình sự

NQ:

Nghị quyết

PLHS:

Pháp luật hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

HĐTP:

Hội đồng thẩm phán


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hình thành, phát triển của lịch sử lập pháp hình sự Việt
Nam, để công cuộc đấu tranh, phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả cao thì

việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam là một trong
những vấn đề cấp thiết. Trong đó, chế định miễn trách nhiệm hình sự là chế
định có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, có ảnh hưởng,
tác động đến các chế định khác được quy định trong Bộ luật hình sự là một
chế định được nhiều nhà làm luật và các nhà nghiên cứu khoa học quan tâm
đến.
Chế định miễn trách nhiệm hình sự đã được các nhà nghiên cứu khoa
học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khoa học pháp lý. Do đó, tồn tại rất nhiều
quan điểm khác nhau về chế định này như: khái niệm về miễn TNHS, bản
chất pháp lý, đặc điểm của miễn TNHS, quy định về các trường hợp miễn
TNHS... Đến nay, vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về chế định miễn trách
nhiệm hình sự. Đặc biệt, khi nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam hiện hành về miễn TNHS có thể nhận thấy những hạn chế, vướng
mắc trong nhận thức và việc áp dụng, nhất là sau khi BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực đã có nhiều sự sửa đổi, bổ sung tuy nhiên
nhà làm luật chưa ban hành bất kỳ văn bản hướng dẫn chi tiết nào. Hiện nay
trên địa bàn nhiều tỉnh thành cả nước nói chung và thành phố Hà Nội nói
riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn gặp nhiều vướng mắc trong việc
áp dụng quy định của BLHS về miễn TNHS. Trước thực trạng đó, việc nghiên
cứu vấn đề áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn thành phố
Hà Nội nhằm thấy được rõ nét thực trạng việc áp dụng chế định này là điều

1


cần thiết. Vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: “Miễn trách nhiệm hình sự từ thực
tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nội dung về chế định miễn trách nhiệm hình sự không chỉ được đề cập
đến trong giáo trình Luật hình sự tại các trường đại học như Học viện khoa

học xã hội, Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội,... mà còn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong các
công trình có thể kể đến:
* Sách, tạp chí: ; Trịnh Tiến Việt, Chế định miễn trách nhiệm hình sự
theo Luật Hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2010; Lê Cảm,
Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Nxb. Tư pháp, năm 2005;
Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội tháng 6-2016; Trần Văn Biên và Đinh
Thế Hưng (chủ biên), Bình luận khoa học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), Nxb. Thế giới, năm 2017; Trần Văn Luyện (chủ biên), Bình luận
khoa học bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi Bổ sung 2017), Nxb. Công an
nhân dân; Đinh Văn Quế, Bình luận BLHS 2015 Phần thứ nhất Những quy
định chung (bình luận chuyên sâu), Nxb. Thông tin và truyền thông, Hà Nội,
năm 2018; Lê Nam, Bàn về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật
Hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số chuyên đề 9/2016; Thành
Long, Cần chấm dứt tình trạng “miễn trách nhiệm hình sự” để né tránh
bồi thường, Tạp chí Luật sư Việt Nam Số 10/2016; Huỳnh Châu Mai Sơn,
Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm
2015, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số 9/2017; Đoàn Đắc Chinh, Căn cứ
miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự năm
2015, Tạp chí Tòa án nhân dân Số 10 năm 2019; Đinh Văn Quế, Chế định

2


miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự 2015, Tạp chí Luật sư Việt
Nam, Số 10/2017; Trịnh Tiến Việt, Miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật
hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra trong quá trình áp dụng, Tạp chí
Luật học Số 7/2016…
* Luận văn thạc sĩ: Phạm Mai Thắm, Các biện pháp giám sát, giáo dục

người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
Hình sự năm 2015, luận văn thạc sĩ Luật học trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2018; Lê Thị Thu Hiền, Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và miễn
trách nhiệm hình sự, luận văn thạc sĩ Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm
2009; Đặng Ngọc Huy, Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự việt nam
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đăk lăk, luận văn thạc sĩ Khoa luật Đại
học quốc gia Hà Nội, năm 2015…
Đa phần các công trình nghiên cứu trên về cơ bản đã có sự cập nhật,
phân tích theo quy định của BLHS 2015. Tuy nhiên, dưới góc độ luận văn
thạc sĩ chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách kết hợp giữa lý luận
cũng như thực tiễn việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn trên
một địa bàn thành phố lớn như thành phố Hà Nội. Do vậy, nội dung đề tài
nghiên cứu luận văn về Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn thành phố Hà
Nội đảm bảo không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khác đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về miễn TNHS và phân
tích thực tiễn áp dụng chế định miễn TNHS trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Qua đó, luận văn đề xuất một số kiến nghị bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy
định về miễn TNHS.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
3


- Khái quát chung vấn đề lý luận về miễn TNHS, cụ thể từ: khái niệm,
đặc điểm, nội dung chế định miễn TNHS và phân biệt miễn TNHS với các chế
định tha miễn khác;
- Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các quy định pháp
luật về miễn TNHS từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay;
- Luận văn phân tích các quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ

sung 2009) và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về miễn TNHS
và đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong 05 năm từ
năm 2015 – 2019;
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định về miễn
TNHS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Quy định về miễn TNHS và thực
tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Quy định về miễn TNHS theo BLHS 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
Phạm vi không gian: Tại địa bàn thành phố Hà Nội, bao gồm các cơ
quan tiến hành tố tụng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Phạm vi thời gian: Luận văn sử dụng số liệu thống kê trong 05 năm từ
năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở luận

4


Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; quan điểm, định
hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước Pháp quyền, về chính
sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của nhà nước ta. Dựa
trên các phương pháp này nhằm nghiên cứu cơ sở của miễn TNHS, phân tích
nội dung, ý nghĩa của các quy định về miễn TNHS trong số các biện pháp tha
miễn, vai trò của các biện pháp này trong bảo đảm quyền con người, quyền

công dân trong hoạt động tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù như:
Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, xử lý số liệu…
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn nghiên cứu tổng hợp các cơ sở lý luận về
miễn TNHS. Có thể nói, luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về khái
niệm, bản chất và ý nghĩa pháp lý của chế định miễn TNHS. Bên cạnh việc
chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về miễn TNHS, luận văn đưa ra đề xuất hệ thống các giải pháp mang tính giá
trị pháp lý và thực tiễn, góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc áp
dụng chế định miễn TNHS trong thực tiễn đối với các cơ quan tư pháp.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đã bổ sung, góp phần làm đa dạng hơn tài
liệu nghiên cứu đối với vấn đề miễn TNHS, góp phần cung cấp thêm nguồn
tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu cho các học viên
chuyên ngành pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn

5


Chương 1: Những vấn đề lý luận về miễn trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Quy định miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự
2015 và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định về miễn trách
nhiệm hình sự

6



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là thuật ngữ của ngành khoa học pháp lý hình sự
thể hiện hậu quả pháp lý mà người phạm tội phải gánh chịu do việc thực hiện
hành vi phạm tội của họ gây ra. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “trách
nhiệm” được hiểu là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về
mình”. Theo đó, có thể hiểu “trách nhiệm hình sự” là những hậu quả mà cá
nhân phải chịu khi thực hiện những hành vi vi phạm bổn phận, trách nhiệm,
nghĩa vụ của mình trước Nhà nước, xã hội hoặc cá nhân khác.
Từ trước đến nay, xung quanh vấn đề hiểu “trách nhiệm hình sự” là gì,
vẫn còn nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau.
Theo TSKH.GS. Lê Cảm thì “trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý
của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người
phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự
quy định”[3].
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà và TS. Lê Thị Sơn thì cho rằng “trách
nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải
chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội,
chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư
pháp) và chịu mang án tích” 9, tr. 126 ;
GS.TS Đỗ Ngọc Quang có quan niệm “trách nhiệm hình sự là một
dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu

7


quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm

của hành vi mà người đó đã thực hiện”.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học có định nghĩa “Trách nhiệm
hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí
bất lợi về hành vi phạm tội của mình”[31, tr.126]. Hiện nay, BLHS năm 2015
đã bổ sung thêm quy định chủ thể của tội phạm ngoài cá nhân là người phạm
tội thì hiện nay bao gồm cả pháp nhân thương mại nên khái niệm trách nhiệm
hình sự cũng cần phải được hiểu đầy đủ là trách nhiệm của người phạm tội
hoặc pháp nhân thương mại phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành
vi phạm tội của mình. Trách nhiệm trong lĩnh vực pháp luật nói chung thường
được hiểu theo hai nghĩa: là chức trách, nghĩa vụ, bổn phận phải làm hoặc là
hậu quả pháp lý của việc vi phạm pháp luật.
Thuật ngữ TNHS không dùng để chỉ nghĩa vụ, bổn phận mà công dân
phải thực hiện với Nhà nước và xã hội mà nó phải được hiểu theo nghĩa là hậu
quả pháp lý bất lợi mà một người phải gánh chịu trước Nhà nước và xã hội vì
họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cảm hoặc
không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện
gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ [31, tr.126].
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý phản ánh mối quan hệ đặc
biệt giữa Nhà nước với người phạm tội khi người đó thực hiện tội phạm. Do
vậy, để nhận thức đầy đủ và toàn diện về TNHS, việc nghiên cứu khái niệm
TNHS không chỉ dừng lại ở trách nhiệm của người phạm tội trước nhà nước
mà cần được xem xét đồng thời từ hai góc độ: thực hiện hoạt động truy cứu
TNHS từ phía Nhà nước và chịu TNHS từ phía người phạm tội [32, tr.7]. Tuy
đều là hậu quả của việc phạm tội nhưng việc thực hiện truy cứu TNHS từ phía

8


Nhà nước mới đưa đến kết quả phải chịu TNHS của người phạm tội. Thực

chất, TNHS chính là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm
tội phát sinh từ thời điểm tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. Không chỉ
được điều chỉnh bởi Bộ luật hình sự mà mối quan hệ này còn được điều chỉnh
bởi cả luật tố tụng hình sự và pháp luật về thi hành án. Nhắc đến vấn đề
TNHS chính là nói đến hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở chỗ
người gây ra tội phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Nhà nước. Hậu quả
pháp lí của việc thực hiện tội phạm đối với người phạm tội không chỉ thể hiện
ở trách nhiệm cuối cùng của người phạm tội là bị kết án và phải chịu hình
phạt nhất định mà còn thể hiện cả ở việc bị truy cứu TNHS. Như vậy, đối với
người phạm tội, chịu TNHS có nghĩa là phải chịu tất cả các hậu quả do việc
phạm tội đem lại: “phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu
bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp)
và chịu mang án tích.
Bản chất của TNHS là sự lên án của Nhà nước đối với người có lỗi khi
thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội
phạm, Bằng bản án kết tội, Nhà nước chính thức lên án đối với người đã có
hành vi phạm tội và trên cơ sở đó thể hiện thái độ phản ứng của mình thông
qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự như áp dụng hình phạt,
biện pháp tư pháp. Những biện pháp cưỡng chế này có đặc điểm chung là đều
gây ra những tác động bất lợi về pháp lý đối với người phạm tội nhằm giảo
dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Từ những phân tích trên, ta có thể định nghĩa TNHS là một dạng của
trách nhiệm pháp lý đồng thời là hậu quả pháp lý bất lợi cho người thực hiện
hành vi phạm tội với nội dung bao gồm việc phải chịu sự tác động của hoạt
động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS
(hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích.
9


1.1.2. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự

Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bất kỳ người nào thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, bị xã hội lên án và
đáng bị xử lý hình sự thì đều phải chịu TNHS. Điều đó đồng nghĩa trong
trường hợp xét thấy không cần thiết phải áp dụng TNHS hoặc trường hợp theo
luật định không phải áp dụng TNHS đối với người đó mà vẫn có thể đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như công tác giáo dục,
cải tạo người phạm tội thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không buộc
họ phải chịu trách nhiệm hình sự, bản chất của hiện tượng trên dưới góc độ
thuật ngữ khoa học pháp lý gọi là Miễn trách nhiệm hình sự. Khái niệm miễn
trách nhiệm hình sự được tiếp cận dưới nhiều góc độ khoa học pháp lý dẫn
đến những quan điểm khác nhau, không đồng nhất có thể kể đến các quan
điểm:
- GS.TSKH. Lê Cảm cho rằng: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế
định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ
hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó [2, tr.7].
- GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng: “Miễn trách nhiệm hình sự được
hiểu là biện pháp nhân đạo, phản ánh sự khoan hồng của nhà nước, do cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm
tội khi có căn cứ theo quy định của BLHS với nội dung là không buộc người
phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội mà họ đã thực
hiện” [10, tr.14].
- PGS.TS Nguyễn Văn Huyên cho rằng: Miễn trách nhiệm hình sự là
miễn hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội, thể hiện ở chồ người phạm tội
không phải chịu sự kết tội của Tòa án, không bị coi là có tội, không phải chịu

10


hình phạt và không phải mang án tích. [8, tr.238].

- TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: Miễn trách nhiệm hình sự là trường
hợp không buộc một người đáp ứng những điều kiện nhất định phải gánh chịu
hậu quả pháp lý bất lợi do việc người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, mà
vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm, cũng như công
tác giáo dục, cải tạo người phạm tội, cũng như công tác giáo dục, cải tạo
người đó khi đáp ứng những trường hợp luật định [42, tr.97].
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và tổng kết nhiều quan điểm khoa
học về miễn trách nhiệm hình sự, có thể hiểu khái niệm này như sau: “Miễn
trách nhiệm hình sự là việc chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết
định không buộc một người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội có đủ các
điều kiện chủ thể của tội phạm phải chịu hậu quả pháp lý hình sự của việc
thực hiện hành vi phạm tội khi đáp ứng các điều kiện do luật định, mà vẫn
bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo
dục, cải tạo người phạm tội”.
1.2. Đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự
Miễn trách nhiệm hình sự về bản chất chính là sự không buộc một
người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
mà người đó đã thực hiện. Miễn trách nhiệm hình sự không đồng nghĩa với
trường hợp không có trách nhiệm hình sự. Người được miễn trách nhiệm hình
sự là người đã phạm một tội được quy định trong BLHS nhưng thuộc trường
hợp được miễn trách nhiệm hình sự. Còn người không có trách nhiệm hình sự
là người mà hành vi của họ không có sự sai trái hoặc hành vi của họ tuy có
đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhưng mức độ nguy hiểm không
lớn nên không coi là tội phạm mà chỉ đáng xử lý về hành chính. Thông qua

11


việc phân tích khái niệm và nghiên cứu các quy định về miễn trách nhiệm
hình sự, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, miễn trách nhiệm hình sự phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc
nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và luật hình sự nói riêng tại một
quốc gia.
Thứ hai, miễn trách nhiệm hình sự, hay nói cách khác là sự xoá bỏ hoàn
toàn hậu quả pháp lý của việc thực hiện một tội phạm chỉ có thể được đặt ra
đối với người nào là chủ thể của chính tội phạm ấy, mà lẽ ra nếu không có đủ
căn cứ để được miễn trách nhiệm hình sự thì người đó phải chịu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Tuy trong pháp luật hình sự không quy định nhưng thực tiễn cho thấy
người được miễn trách nhiệm hình sự tuy không phải chịu các hậu quả pháp
lý hình sự của hành vi phạm tội do mình thực hiện. Cụ thể, người phạm tội đó
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải chịu hình phạt hoặc biện
pháp cưỡng chế về hình sự khác và không bị coi là có án tích. Tuy nhiên, căn
cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện
pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác.
Thứ ba, phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, miễn
trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền nhất định (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát
hoặc Toà án) khi có đủ căn cứ (hoặc là bắt buộc hoặc là tuỳ nghi) do pháp luật
hình sự quy định.
Thứ tư: Chủ thể được miễn trách nhiệm hình sự có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội: Có thể thấy, BLHS 2015 lần đầu tiên thừa
nhận pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm. Theo đó, khi đáp ứng

12


đầy đủ các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự tại Điều 29 BLHS thì pháp nhân
thương mại cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
1.3. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt, miễn

chấp hành hình phạt và với các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
1.3.1. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt, miễn
chấp hành hình phạt
Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt và miễn chấp hành hình phạt
là những quy định khác nhau cả về bản chất và mặt nội dung, tuy nhiên thuật
ngữ này thường bị nhầm lẫn với nhau nếu không xây dựng những tiêu chí để
phân biệt thích hợp. Để phân biệt 3 hình thức trên, có thể dựa trên các tiêu chí
sau:
Khái niệm: Miễn trách nhiệm hình sự là việc không bắt buộc người
phạm tội phải chịu TNHS về tội mà họ đã thực hiện.
Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp
hành toàn bộ hoặc một phần hình phạt còn lại (chưa chấp hành) của mức hình
phạt đã tuyên.
Miễn hình phạt là không buộc người bị kết án phải chịu hình phạt về tội
họ đã thực hiện.
Điều kiện áp dụng: Điều kiện để được miễn trách nhiệm hình sự là:
Người phạm tội được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ tại khoản 1
Điều 29 BLHS
Người phạm tội có thể được miễn TNHS khi có một trong các căn cứ
tại khoản 2 Điều 29 BLHS.
Trong khi đó, điều kiện để miễn chấp hành hình phạt là: Người bị kết
án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.
13


Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03
năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
- Sau khi bị kết án đã lập công;

- Mắc bệnh hiểm nghèo;
- Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và
xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình
phạt nêu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn
nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát,
Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
Người bị kết án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt, nêu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp
hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người
đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn
lại.
Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình
phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên
tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành
được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền
phạt còn lại.

14


Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một
phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi
hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể
quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Người được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều này vẫn
phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án.
Điều kiện để miễn hình phạt là: Người phạm tội có nhiều tình tiết

giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015, đáng
được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS.
Theo quy định khoản 1, khoản 2 Điều 54 BLHS: “1. Tòa án có thể
quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi
người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51
của Bộ luật này [22].
2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình
phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người
giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.”[22].
Thẩm quyền áp dụng: Thẩm quyền áp dụng miễn trách nhiệm hình sự
có phạm vi rộng hơn so với thẩm quyền áp dụng miễn chấp hành hình phạt và
miễn hình phạt, theo đó cơ quan có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự là
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tùy từng giai đoạn mà các cơ quan
tiến hành tố tụng này có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự, trong khi đó
thẩm quyền miễn chấp hành hình phạt chỉ là Tòa án (nhưng quyết định theo
đề nghị của Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự) và của miễn hình
phạt là thẩm quyền riêng biệt của Tòa án.
15


Hậu quả pháp lý: Trong số 03 hình thức đã nêu, thì miễn trách nhiệm
hình sự có hậu quả pháp lý thấp nhất, có tính khoan hồng cao hơn so với miễn
hình phạt và miễn chấp hành hình phạt đối với người phạm tội, theo đó người
phạm tội khi được miễn trách nhiệm hình sự sẽ không có án tích, trong khi đó
miễn chấp hành hình phạt và miễn hình phạt thì người đó đều bị coi là có án
tích; đối với miễn chấp hành hình phạt thì án tích này được xóa theo quy định
của pháp luật, còn miễn hình phạt thì bị coi là có án tích nhưng thuộc trường
hợp đương nhiên được xóa án tích.

Đối tượng áp dụng: Đối tượng áp dụng của miễn trách nhiệm hình sự
có phạm vi rộng hơn so với đối tượng áp dụng của miễn chấp hành hình phạt
và miễn hình phạt, theo đó đối tượng của miễn TNHS có thể là người đã bị
kết án hoặc chưa bị kết án còn đối với miễn chấp hành hình phạt là Người đã
bị kết án bằng một bản án có hiệu lực, chưa chấp hành hình phạt hoặc chấp
hành một phần hình phạt đã tuyên; đối với miễn hình phạt là Người đã bị kết
án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.
Các trường hợp được áp dụng: Các trường hợp miễn TNHS bao gồm
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Điều 16; người chưa thành niên phạm
tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết
giảm nhẹ...Điều 91; người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện
nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo Điều 110; người không tố
giác có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm
khoản 3 Điều 390 tội không tố giác tội phạm. Miễn hình phạt chỉ được quy
định ở 2 điều luật đó là Điều 59 và khoản 3 Điều 390 tội không tố giác tội
phạm. Đối vớ miễn chấp hành hình phạt là Người phải chấp hành toàn bộ
hoặc một phần hình phạt còn lại (chưa chấp hành) của mức hình phạt đã
tuyên.

16


1.3.2. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và các trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự
Các tiêu chí để Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và các trường hợp
loại trừ trách nhiệm hình sự như sau:
Mục đích và ý nghĩa áp dụng: Mục đích và ý nghĩa áp dụng miễn
trách nhiệm hình sự là việc buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự là
không cần thiết mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Thể hiện chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội, cũng như nguyên

tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam. Trong khi đó đối với loại trừ trách
nhiệm hình sự là xác định ranh giới giữa tội phạm và không phải tội phạm,
bảo đảm nguyên tắc “xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội”. Một số trường
hợp được Nhà nước và xã hội khuyến khích, khen thưởng (phòng vệ chính
đáng, tình thế cấp thiết).
Về hành vi đã thực hiện: Đối với miễn trách nhiệm hình sự thì hành vi
đã thực hiện đã cấu thành tội phạm, thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cơ bản của
tội phạm, người thực hiện nó lẽ ra phải chịu trách nhiệm hình sự; còn hành vi
đã được loại trừ trách nhiệm hình sự là hành vi Không thỏa mãn ít nhất một
trong các dấu hiệu cơ bản của tội phạm nên người thực hiện hành vi đó không
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Danh mục các trường hợp áp dụng: Danh mục các trường hợp áp
dụng miễn trách nhiệm hình sự bao gồm chín trường hợp quy định tại Điều
19, Điều 25, khoản 2 Điều 69, khoản 3 Điều 80, khoản 6 Điều 289, khoản 6
Điều 290 và khoản 3 Điều 314 Bộ luật hình sự; đối với các trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự là Có sáu trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 8,
Điều 11, Điều 12 (gián tiếp), Điều 13, Điều 15 và Điều 16 Bộ luật hình sự.

17


Đối tượng áp dụng: Đối tượng áp dụng của miễn trách nhiệm hình sự
là bị can, bị cáo; còn đối tượng áp dụng loại trừ trách nhiệm hình sự là người
không phạm tội.
Hậu quả pháp lý: Hậu quả pháp lý của người được miễn trách nhiệm
hình sự là Không bị coi là có án tích, song người này vẫn có thể bị áp dụng
một số biện pháp cưỡng chế khác như tố tụng hình sự, dân sự, lao động, hành
chính... còn người được loại trừ tách nhiệm hình sự là không phải chịu trách
nhiệm hình sự trên những cơ sở chung.

1.4. Quy định về miễn trách nhiệm hình sự qua các giai đoạn
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS 1985
Ở nước ta, trước BLHS năm 1985, chế định miễn TNHS chưa được ghi
nhận với tính chất là một chế định độc lập trong PLHS nhưng trong thực tiễn
xét xử và một số văn bản pháp lý ban hành thời kỳ này hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp đã quy định những trường hợp được miễn TNHS. Và đã thừa nhận,
áp dụng với nhiều tên gọi khác nhau: “tha miễn TNHS”, “miễn tố”, “tha bổng
bị cáo”... Có thể xem xét một số văn bản pháp luật điển hình trong giai đoạn
này như:
Điều 1 mục 1 Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945. Theo sắc lệnh này
người phạm những loại tội sau đây đều được hoàn toàn xá miễn [30,Tr.184].
- Tội phạm vào luật lệ báo chí;
- Tội phạm vào luật lệ hội họp,
- Tội phạm của thợ thuyền bị phạt do luật lao động;
- Tội phạm trong khi đình công...
Điều 2 Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 trừng trị các tội nhận hối
lộ, đưa hối lộ, biển thủ công quỹ ghi nhận: “Người phạm tội đưa hối lộ cho
18


một công chức mà tự ý các giác cho nhà chức trách việc hối lộ ấy và chứng
minh rằng đưa hối lộ bị công chức cưỡng bách ước hứa hay là dùng cách trá
ngụy thì người ấy được miễn hết cả tội. Trong trường hợp này tang vật hối lộ
được hoàn trả” [30, tr.470].
Do chưa được quy định trong luật nên các điều kiện áp dụng miễn
TNHS trong giai đoạn này được xác định tương tự như các điều kiện xử nhẹ
của miễn hình phạt.
Pháp lệnh trừng trị các tội phạm phản cách mạng ngày 30/11/1967 có
quy định tại Điều 20 những trường hợp giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình
phạt:

“1. Có âm mưu phạm tội, nhưng đã tự nguyện không thực hiện tội
phạm; 2. Tội phạm chưa bị phát giác mà thành thật tự thú, khai rõ những âm
mưu và hành động của mình và của đồng bọn; 3. Cố ý không thi hành đầy đủ
hoặc khuyên bảo đồng bọn không thi hành đầy đủ âm mưu của bọn cầm đầu
phản cách mạng; 4. Có những hành động làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
5. Phạm tội vì bị ép buộc, lừa phỉnh và việc làm chưa gây thiệt hại lớn; 6. Bị
bắt, trước khi bị xét xử đã tỏ ra thành thật hối cải, lập công chuộc tội”.
Bản tổng kết và hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11/5/1967 của Tòa án
nhân dân tối cao về đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về
mặt tình dục có viết: “Khi tập trung nhiều tình tiết giảm nhẹ, hoặc khi có
những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, có thể xử dưới mức tối thiểu nói trên đây,
có thể cho hưởng án treo hoặc tha miễn hình phạt”.
Như vậy, trong PLHS thực định ghi nhận thực tiễn xét xử có áp dụng
chế định miễn TNHS là xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo và “từ quan điểm
cho rằng việc truy cứu TNHS và xử phạt về hình sự tuy là rất quan trọng
nhưng không phải là biện pháp duy nhất và cần mở rộng khả năng áp dụng
19


các biện pháp mang tính giáo dục, các biện pháp tác động xã hội trong đấu
tranh phòng và chống tội phạm” [30, Tr.10]
Tuy nhiên, xét về mức độ khoan hồng thì miễn TNHS là biện pháp
khoan hồng đặc biệt hơn so với miễn hình phạt và giảm nhẹ hình phạt. Việc
lựa chọn biện pháp miễn TNHS hay biện pháp miễn hình phạt, giảm nhẹ hình
phạt để áp dụng cho từng trường hợp cụ thể, ngoài việc áp dụng quy định
trong từng điều luật tương ứng, còn phải dựa vào các điều kiện khác nữa,
chẳng hạn đó là đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong từng thời
điểm, yêu cầu đầu tranh phòng và chống tội phạm từng nơi, từng lúc và từng
vụ án cụ thể... Đây chính là điều kiện “linh hoạt của biện pháp miễn TNHS và
nội dung “mềm dẻo” của chế định này (1,Tr.11). Pháp lệnh trừng trị các tội

xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970, có quy định tại điều
19: “Những trường hợp xử nhẹ hoặc miễn hình phạt: tội phạm chưa bị phát
giác mà kẻ phạm tội thành thật thú tội với cơ quan chuyên trách, khai rõ hành
động của mình và của đồng bọn; kẻ phạm tội đã có những hành động ngăn
chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; trước khi bị xét xử, kẻ phạm tội
tự nguyện bồi thường hoặc sửa chữa thiệt hại đã gây ra; phạm tội gây thiệt hại
không lớn”.
Như vậy, việc tổng kết các văn bản pháp luật trong giai đoạn này có thể
rút ra kết luận chung về các trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội đó là:
- Tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
- Có quyết định đại xá
- Trước khi sự việc bị phát giác đã thành thật tự thú, khai rõ âm mưu,
hành động của mình và đồng bọn.

20


×