Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Đồ án tốt nghiệp: Tính toán thiết kế bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt cho huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình quy mô vận hành 10 năm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.39 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
THIẾT KẾ HỆ THÔNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI NGÀNH XI MẠ
CÔNG SUẤT 200 /NGÀY

Họ và tên sinh viên: BÙI VĂN THÀNH
Nghành: CNKT Môi Trường
Lớp: 66DCMO21
MSV: 66DCMO22755
GVHD: LƯ THỊ YẾN
Niên khóa: 2015 - 2020

2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CNGTVT HÀ NỘI

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

KHOA CÔNG TRÌNH NGÀNH CN
KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG

NHIỆM VỤ ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
Họ và tên: Vũ Minh Hải

MSSV: 66DCMO23266

Ngành



Lớp: 66DCMO21

1.
2.

3.
4.
5.

: CN Kỹ thuật Môi Trường

Tên đồ án tốt nghiệp: Tính toán- thiết kế bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt
cho huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình quy mô vận hành 10 năm.
Nhiệm vụ:
 Tổng quan
 Xác định các đặc điểm tự nhiên xã hội của huyện Tiền Hải, tỉnh Thái
Bình .
 Tính toán thiết kế và dự toán kinh tế đầu tư sản xuất.
 Thể hiện các công trình trên bản vẽ A3.
Ngày giao đồ án tốt nghiệp
Ngày hoàn thành nhiệm vụ
Họ tên người hướng dẫn:
TS. Lê Xuân Thái

Nội dung và yêu cầu đồ án tốt nghiệp đã được thông qua bộ môn
Ngày tháng năm 2019
CHỦ NHIỆM BỘ MÔN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN


(Ký và ghi rõ họ tên)

(Ký và ghi rõ họ tên)

NHẬN XÉT CỦA GV HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA GV ĐỌC DUYỆT
Ý KIẾN CỦA BỘ MÔN


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Lê Xuân Thái, người đã trực tiếp
hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Thành phần, định nghĩa và một số ví dụ về CTR
Bảng 1.2. Lực lượng lao động của huyện Tiền Hải năm 2015 - 2017
Bảng 1.3. Khối lượng CTRSH bình quân đầu người năm 2017
Bảng 1.4.
Bảng 1.5.
Dli
Bảng 1.7
Bảng 1.8.
Bảng 1.9.
Bảng 1.10.



DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Huyện Tiền Hải trên bản đồ Việt Nam.
Hình 2.2. Sơ đồ công nghệ xử lý CTR.
Hình 3.3. Xã Định Tường trên bản đồ hành chính.
Hình 3.4. Cấu tạo lớp lót đáy.
Hình 3.5. Hệ thống thu gom nước rỉ rác.
Hình 3.6. Sơ đồ bố trí hố ga và ống thu.
Hình 3.7. Sơ đồ công nghệ đề xuất cho xử lý nước rỉ rác.
Hình 3.8. Sơ đồ bố trí mặt bằng BCL.



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

AIDS

Acquired immunodeficicency syndrome

BCL

Bãi chôn lấp

BKHCNMT

Bộ khoa học công nghệ môi trường

BXD

Bộ xây dựng


BVMT

Bảo vệ môi trường

CTR

Chất thải rắn

CTRSH

Chất thải rắn sinh hoạt

CTCP

Công ty cổ phần

DO

Oxy hòa tan

HTX

Hợp tác xã

HDPE

High Density Poli Etilen

TCVN


Tiêu chuẩn Việt Nam

TNMT

Tài nguyên môi trường

TTLT

Thông tư liên tịch

UASB

Upflow Anearobic Sludge Blanket
Bể xử lý kỵ khí
Việt Nam đồng

VNĐ


MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế phát triển kinh tế xã, với tốc độ đo thị hoá ngày càng tăng và sự
phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch,...kéo theo mức
sống của người dân ngày caođã làm nảy sinh nhiều vấn đề mới, nan giải trong công
tác bảo vệ môi trường và sức khoẻ cộng đồng dân cư. Lượng chất thải phát sinh từ
những hoạt động sinh hoạt của người dân ngày một nhiều hơn, đa dạng hơn về
thành phần và độc hại hơn về tính chất.
Cách quản lý và xử lý CTRSH tại hầu hết các thị xã, thị tứ thuộc các tỉnh ở
nước ta hiện nay đều chưa đáp ứng được các yêu cầu vệ sinh và bảo vệ môi trường.

Hiện nay CTR ở các tỉnh và huyệ thì chủ yếu là thu gom, sau đó được chôn lấp một
cách sơ sài, phát sinh nhiều vấn đề môi trường. Huyện Tiền Hải của tỉnh Thái Bình
vấn đề CTR cũng là vấn đề mà các nhà quản lý môi trường rất quan tâm.
Một trong những phương pháp xử lý chất thải rắn được coi là kinh tế nhất cả
về chi phí đầu tư cũng như chi phí vận hành là xử lý CTR theo phương pháp chôn
lấp hợp vệ sinh . Đây là phương pháp xử lý chất thải rắn ở các quốc gia đang phát
triển và thậm chí đối với nhiều quốc gia phát triển. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay
nhiều BCL vẫn chưa được thiết kế và xây dựng theo đúng yêu cầu của một bãi
chôn lấp hợp vệ sinh. Các bãi này đều không kiểm soát được khí độc, mùi hôi và
nước rỉ rác là nguồn lây ô nhiễm tiềm tàng cho môi trường đất, nước và không khí,
do vậy chưa thể coi là bãi chôn lấp hợp vệ sinh.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế, tốc độ đô thị hoá và
công nghiệp hoá diễn ra rất nhanh trên mọi miền tổ quốc. Trong xu thế chung đó
thì tỉnh Thái Bình là tỉnh gần thành phố Hà Nội nên vấn đề càng trở nên nóng bỏng
hơn, bên cạnh đó nhiều khu đô thị mới ra đời, tốc độ gia tăng dân số nhanh dẫn đến
lượng rác phát sinh cũng tăng cao, đòi hỏi phải có biện pháp thu gom và xử lý theo
tiêu chuẩn môi trường thay vì đổ lộ thiên như hiện nay. Ở huyện Tiền Hải, hiện tại
công tác xử lý CTR được thức hiện theo một trong những cách thô sơ nhất là đổ
đống lộ thiên. Một cố gắng lớn nhất được áp dụng tại bãi đổ rác là việc phun rải


định kì và thường xuyên hỗn hợp hoá chất chống ruồi bọ. Do đó bãi rác này đã gây
ô nhiễm nguồn nước ngầm, nước mặt và môi trương không khí rất lớn cho khu vực
xung quanh bãi chôn lấp. Vì vậy việc thiết kế, xây dựng CTR hợp vệ sinh cho
huyện Tiền Hải là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Trước tình hình đó
luận văn: “Thiết kế bãi chôn lấp hợp vệ sinh ở huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình
quy hoạch đến năm 2029” đã hình thành nhằm góp phần bảo vệ môi trường giải
quyết tình trạng chất thải rắn không được xử lý đúng cách gây ô nhiễm môi trường
như hiện nay.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu nghiên cứu của đề tài

1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Thiết kế bãi chôn lấp chất thải rắn cho huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình giai
đoạn năm 2019 – 2029 để giảm thiểu ô nhiễm môi trường do CTR gây ra.
1.2.2. Yêu cầu nghiên cứu
- Nắm rõ các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình .
- Áp dụng các TCVN, Thông tư để thiết kế BCL.
- Thiết kế BCL phù hợp với huyện Tiền Hải , tỉnh Thái Bình trong giai đoạn 2019 –
2029.
1.3. Giới hạn của đề taì
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan tới quá trình thu gom, vận
chuyển và xử lý CTR sinh hoạt hằng ngày của huyện bằng phương pháp chôn lấp
hợp vệ sinh trên địa bàn huyện Tiền Hải , tỉnh Thái Bình và không tìm hiểu các vấn
đề khác ngoài huyện.
1.4. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết những vấn đề sau:
-

Điều tra khảo sát hiện trạng phát sinh CTR sinh hoạt và hiện trạng quản lý
CTR sinh hoạt trên địa bàn huyện Tiền Hải.
Dự báo tải lượng CTR sinh hoạt tại huyện giai đoạn 2019 – 2029.


-

Đề xuất công nghệ xử lý CTR sinh hoạt bằng phương pháp chôn lấp hợp vệ
sinh.
Tính toán, thiết kế bãi chôn lấp CTR sinh hoạt cho huyện Tiền Hải giai đoạn
2019 – 2029.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

1.5.1. Khảo sát tài liệu
- Các văn bản của trung ương và địa phương liên quan đến vấn đề quản lý vệ
sinh môi trường đối với CTR.
- Các văn bản và các quy định đối với việc xây dựng bãi chôn lấp CTR hợp vệ
sinh.
- Các dữ liệu về điều kiện tự nhiên: địa hình, khí tượng thủy văn...
1.5.2. Nghiên cứu thực địa
- Điều tra khảo sát hiện trạng CTR sinh hoạt và các biện pháp xử lý của huyện.
1.5.3. Phương pháp lựa chọn địa điểm, xây dựng và vận hành bãi chôn lấp
- Áp dụng các quy định theo Thông tư 01/2001/TTLT – BKHCNMT – BXD
ngày 18/01/2001 về “Hướng dẫn các quy định về bảo vệ môi trường đối với
việc lựa chọn địa điểm, xây dựng và vận hành bãi chôn lấp CTR”.
- Tham khảo các kỹ thuật thiết kế bãi chôn lấp CTR hiện nay tại Việt Nam.
1.6. Bố cục của đồ án
Đồ án “ Tính toán- thiết kế bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt cho huyện Tiền
Hải quy mô vận hành 10 năm” gồm có 3 chương với trình tự bố cục như sau:
Mở đầu
Chương 1 : Tổng quan về chất thải rắn và huyện Tiền Hải .
Chương 2 : Lựa chọn công nghệ xử lý CTR cho CTR huyện Tiền Hải .
Chương 3 : Tính toán thiết kế hệ thống chôn lấp CTR cho huyện Tiền Hải .


Kết luận và kiến nghị.


Chương 1. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN CHẤT THẢI RẮN
1.1. TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN
1.1.1. Khái niệm chất thải rắn
CTR (tiếng Anh là Soild Waste) là toàn bộ vật chất không phải dạng lỏng mà
con người thải loại trong các hoạt động sống (sinh hoạt, sản xuất, các hoạt động

liên quan đến phong tục tập quán của khu vực,…) trong đó quan trọng nhất là chất
thải phát sinh từ các hoạt động sống hay CTRSH .
Rác là từ phổ thông dùng để chỉ các loại chất thải có hình dạng tương đối cố
định và bị vứt bỏ từ các hoạt động của con người. Rác thải sinh hoạt hay CTR là
một bộ phận của chất thải sinh hoạt và được phát sinh trong quá trình sống của con
người.
1.1.2. Nguồn phát sinh CTR
CTR được phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau, có thể dưới dạng này hay
dạng khác, chất này hay chất khác, chúng khác nhau về số lượng kích thước, phân
bố không gian. Việc phân loại tại nguồn phát sinh CTR đóng vai trò quan trọng
trong công tác quản lý CTR. CTR có thể phát sinh trong hoạt động cá nhân cũng
như trong các hoạt động của khu dân cư, chợ, nhà hàng, khách sạn, văn
phòng,...hoặc là từ các khu công nghiệp, nhà máy sản xuất. Một cách tổng quát
CTR được phát sinh từ các nguồn sau:
-

-

Chất thải phát sinh từ dân cư phần lớn là thực phẩm dư thừa hay hư hỏng như rau,
quả,... bao bì hàng hóa (giấy, nilon, vải, cao su, thủy tinh,...), một số chất thải đặc
biệt như đồ điện tử, vật dụng hư hỏng từ hộ gia đình (đồ gỗ gia dụng, bóng đèn, đồ
nhựa, thủy tinh,...), chất tẩy rửa độc hại (xà phòng, chất thải trắng, nước rửa bát,...)
Chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí,
trạm bảo hành, trạm dịch vụ,... khu văn phòng (trường học, viện nghiên cứu, khu
văn hóa, văn phòng thí nghiệm, văn phòng chính quyền,...), khu công cộng (khu
công viên, khu nghỉ mát,...), thải ra các loại thực phẩm (hàng hóa hư hỏng, thức ăn
thừa từ nhà hàng khách sạn), bao bì (những bao bì đã sử dụng, hư hỏng) và các loại
rác, xà bần, tro và chất thải độc hại...



-

-

Khu xây dựng: như các công trình thi công, các công trình tháo dỡ, cải tạo, nâng
cấp,... thải ra xà bần, sắt thép vụn, vôi vữa, gạch vỡ, gỗ, ống dẫn nước,... các dịch
vụ đô thị (gồm dịch vụ thu gom, xử lý chất thải và vệ sinh công cộng như rửa
đường, vệ sinh cống rãnh,..) bao gồm quét đường, xác động vật,...
Khu công nghiệp, nông nghiệp: CTR được thải ra từ các hoạt động sinh hoạt của
công nhân, cán bộ, viên chức ở các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất tiểu thủ
công nghiệp, các làng nghề,... Ở khu vực nông thôn chất thải được thải ra chủ yếu
là lá cây, cành cây, xác gia súc, thức ăn gia súc, chất thải đặc biệt như: hóa chất bảo
vệ thực vật, phân bón, thải ra cùng các bao bì đựng chúng.
1.1.3. Phân loại CTR

a.

Việc phân loại CTR là một công việc khá phức tạp vì sự đa dạng về chủng
loại, thành phần và tính chất của chúng. Có nhiều các phân loại khác nhau cho các
mục đích là để có các biện pháp xử lý thích hợp nhằm làm giảm tính độc hại đến
môi trường. Dựa vào công nghệ xử lý, thành phần và tính chất CTR được phân loại
tổng quát như sau:
Phân loại theo công nghệ xử lý - quản lý
Phân loại CTR theo loại này người ta chia làm: chất cháy được, chất không
cháy được, các chất hỗn hợp.
Thành phần, định nghĩa và một số ví dụ về CTR được trình bày tại bảng sau:
Bảng 1.1. Thành phần, định nghĩa và một số ví dụ về CTR
Thành phần

Định nghĩa


1. Các chất cháy
được.
Thực phẩm
Giấy
-

Hàng dệt
Cỏ, rơm, gỗ, củi

-

Các chất thải ra từ đồ
ăn, thực phẩm.
Các vật liệu làm từ

Ví dụ

-

Rau, củ.

-

Túi giấy, mảnh bìa,
giấy vệ sinh,...


giấy.
-


Chất dẻo
-

Da và cao su

2. Các chất không
cháy được.
- Sắt và hợp
kim
-

-

Kim
loại
không phải
sắt.
Thủy tinh

-

-

-

-

-


Đá và sành
sứ

Có nguồn gốc từ sợi.
Các vật liệu và sản
phẩm được chế tạo từ
gỗ, tre, rơm,...
Các vật liệu và sản
phẩm từ chất dẻo.
Các vật liệu và sản
phẩm thuộc da và cao
su.

Các loại vật liệu và sản
phẩm được chế tạo từ
sắt.
Các vật liệu kim loại
và không bị hút bởi
nam châm.
Các loại vật liệu và sản
phẩm chế tạo từ thủy
tinh.
Các vật liệu không
cháy khác ngoài kim
loại thủy tinh.

-

Vải vụn, len,...
Đồ dùng, bàn ghế gỗ

hỏng, tủ gỗ hỏng,...

-

Phim
cuộn,
túi
nilong, chậu, xô,...
Túi sách da, cặp da,
vỏ ruột xe,...

-

-

Hàng rào, dao, thìa,...

-

Vỏ nhôm, vỏ inox,...

-

Chai lọ, đồ dùng
thủy
tinh,
bóng
đèn,...
Vỏ ốc, gạch đá, gốm
sứ,...


-

3. Các chất hỗn
hợp

-

Tất cả các hợp chất
không được liệu kê ở

-

Đất đá, cát


phần 1 và phần 2

b.
-

-

-

-

-

(Nguồn: Bảo vệ Môi trường trong xây dựng cơ bản, Lê Văn Nãi, nhà xuất bản

khoa học kỹ thuật, 1999)
Phân loại chất thải theo quan điểm thông thường
Chất thải thực phẩm: là loại chất thải mang lại hàm lượng chất hữu cơ cao như
nông sản thối hoặc dư thừa: thịt, cá, trái cây,... Nguồn thải từ các chợ, các khu
thương mại, nhà ăn, v.v... Do có hàm lượng chủ yếu là chất hữu cơ nên chúng có
khả năng thối rữa cao cũng như phân hủy nhanh khi có điều kiện môi trường tốt
như độ ẩm cao, nhiệt độ cao thuận lợi cho vi sinh vật hiếu khí phát triển. Khả năng
ô nhiễm môi trường khác lớn do sự phân hóa chất hữu cơ có trong thành phần chất
thải.
Rác rưởi: nguồn chất thải này rất đa dạng thường sinh ra ở các khu dân cư, khu văn
phòng, công sở, khu thương mại, chợ, các khu vui chơi giả trí,... thành phần của
chúng chủ yếu là các loại giấy, bao bì, túi nilon,... Với các thành phần hóa học chủ
yếu là các chất vô cơ, cellolose, các loại nhựa có thể đốt được. Ngoài ra loại chất
thải này còn có chứa các kim loại như sắt, thép, kẽm, đồng,... là các loại chất thải
không có thành phần hữu cơ và chúng cũng không có khả năng tự phân hủy. Tuy
nhiên nếu phân loại tốt chúng được tái sử dụng vừa tiết kiệm chi phí lại giảm tác
động đến môi trường.
CTR là sản phẩm của quá trình cháy: loại này chủ yếu là tro, bụi, xỉ than,... Trong
các quá trình đốt các loại tro thường sinh ra tại các cơ sở sản xuất các xí nghiệp,
các hộ gia đình sử dụng than, củi,... làm chất đốt chủ yếu. Về tính chất chúng vô
hại nhưng về môi trường chúng khó phân hủy và dễ phát sinh nên dễ gây độc.
CTR nguy hại là các hóa chất, chế phẩm sinh học, phóng xạ, chất dễ cháy nổ như
pin, acquy khi thải ra môi trường có ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng tới môi
trường. Chúng thường được thải ra từ các hoạt động sinh hoạt của người dân.
Ngoài ra còn có bông băng, kim tiêm cũng được xếp vào chất thải nguy hại nếu
không được thu gom và xử lý đúng quy định.
CTR sinh ra từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp: loại này rất đa dạng và phức
tạp, chúng bao gồm các loại từ rau, củ, thân cây,... đến các loại chất thải nguy hại



-

-

như tàn dư thuốc bảo vệ thực vật,... loại chất thải này thường rất dễ xử lý nếu được
phân loại và thu gom đúng cách.
CTR sinh ra trong xây dựng: là loại CTR sinh ra trong quá trình đập phá, đào bới
các công trình xây dựng như nhà cửa, cầu cống,... có thành phần chủ yếu là các
loại gạch đá, xà bần, sắt thép, bê tông, tre gỗ,... chúng thường xuất hiện nhiều ở các
khu dân cư mới và đang xây dựng.
CTR sinh ra từ các cống thoát nước, trạm xử lý nước: loại chất thải này chủ yếu
chiếm tới 90 - 95% là bùn đất, được sinh ra từ các loại bụi bặm, đất cát đường phố,
xác chết động vật,... Trên đường ống và được thu vào ống cống. Loại này đa dạng
và phức tạp còn có tính độc hại cao. Ngoài ra còn có một loại chất thải khác là bùn
sinh ra từ các nhà máy xử lý nước thải, bể tự hoại, các loại chất thải này cũng
chiếm một lượng nước khá lớn (25 - 95%) và thành phần chủ yếu là bùn đất, chất
hữu cơ chưa hoại.
1.1.4. Thành phần của CTR
1.1.4.1. Thành phần vật lý
CTR ở các đô thị là phế thải trong sinh hoạt và sản xuất nên đó là một hỗn
hợp phức tạp của nhiều chất khác nhau. Để xác định được thành phần của CTR
một cách chính xác là một việc rất khó vì thành phần của rác thải phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như phong tục tập quán, mức sống của người dân, mức độ tiện nghi
của đời sống con người, thời tiết địa phương,...
Thành phần CTR có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nó quyết định thiết bị xử lý,
công nghệ cũng như hoạch định chính sách với hệ thống quản lý môi trường. Theo
Viện Kỹ Thuật Nhiệt Đới và Bảo Vệ Môi Trường thành phần CTR ở Việt Nam
được xác định như sau: (Bảng 18 phụ lục).

-


Độ ẩm:
Độ ẩm (W) của một chất CTR là lượng nước chứa trong mội đơn vị trọng
lượng chất thải ở trạng thái ban đầu của chất đó.
Việc xác định độ ẩm của rác dựa vào tỉ lệ giữa khối lượng nước có trong CTR
ban đầu là khối lượng CTR ban đầu.


Với a là khối lượng CTR trước khi đem đi sấy, b là khối lượng CTR còn lại
sau khi sấy đến khối lượng không đổi. Ta có độ ẩm của CTR được tính bằng công
thức:

Độ ẩm của rác phụ thuộc vào thời tiết mưa hay nắng. Ở nước ta độ ẩm CTR
đạt từ 50 - 70% (Bảng 19 phần phụ lục).
-

Tỷ trọng:
Tỷ trọng của rác được xác định bằng phương pháp cân để xác định tỉ lệ giữa
trọng lượng của mẫu với thể tích của nó, đơn vị là kg/m 3 hoặc lb/yd3. Tỷ trọng
được dùng để đánh giá khối lượng tổng và thể tích của CTR. Tỷ trọng rác phụ
thuộc vào các mùa trong năm, thành phần riêng biệt và độ ẩm không khí.
Ở nước ta do khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa lên độ ẩm của CTR khá cao, thành
phần rất phức tạp và chứa nhiều chất hữu cơ dễ phân hủy do đó tỷ trọng rác khá
cao, khoảng 1100 - 1300 kg/m3.
Cách xác định tỷ trọng của CTR theo công thức:
Tỷ trọng = khối lượng cân CTR/ thể tích chứa khối CTR cân
Đơn vị kg/m3. (Xem bảng 20 phụ lục).
1.1.4.2. Thành phần hóa học
Thành phần hóa học của CTR đô thị bao gồm chất hữu cơ, chất tro, hàm
lượng cacbon cố định, nhiệt lượng.


-

Chất hữu cơ:
Chất hữu cơ được xác định bằng cách lấy tác đã làm phân tích độ ẩm đem đốt
ở 950C. Phần bay hơi đi là chất hữu cơ hay còn gọi là tổn thất khi nung, thông
thường chất hữu cơ dao động trong khoảng 40 - 60% trung bình là 53%.
Chất hữu cơ được xác định bằng công thức sau:
Chất hữu cơ (%) = ((c - d)/c).100%


Trong đó c là trọng lượng ban đầu, d là trọng lượng mẫu CTR sau khi đốt ở
950C, tức là các chất trơ dư hay các chất cô cơ được tính:
Chất vô cơ (%) = 100% - chất hữu cơ (%)
Điểm nóng chảy của tro ở nhiệt độ 950C thể tích của rác có thể giảm 95%.
Các thành phần phần trăm của cacbon, hydro, nito, sunfua, và tro được dùng để xác
định nhiệt lượng riêng của rác
Hàm lượng cacbon cố định: là lượng cacbon còn lại sau khi đã loại bỏ các
phần vô cơ không phải là cacbon trong tro khi nung ở 950C. Hàm lượng này
thường chiếm khoảng 5 - 12% giá trị trung bình là 7%. Các chất vô cơ chiếm
khoảng 15 - 30%, giá trị trung bình là 20%.
-

Nhiệt lượng.
Nhiệt lượng là giá trị nhiệt tạo thành khi đốt CTR. Giá trị nhiệt được xác định
theo công thức Dulong:
Btu = 145C + 610 (H2 - 1/8 O2) + 40S + 10N
Trong đó C, H2, O2, S, N lần lượt là phần trăm của các nguyên tố cacbon,
hydro, oxi, lưu huỳnh và nitơ trong CTR.
1.1.4.3. Thành phần sinh học

Trừ các hợp chất nhựa dẻo, cao su và da, phần chất hữu cơ của hầu hết các
CTR đô thị có thể phân loại thành các nhóm sau:

-

Cellulose, một sự hóa đặc của sản phẩm của đường glucoza 6 - cacbon sự tạo thành
nước hòa tan như là hồ tinh bột amino axit, các axit hữu cơ khác.
Bán cellulose: Các sản phẩm ngưng tụ của đường 5 và 6 cacbon.
Chất béo, dầu và chất sáp là các este của rượu và các axit béo mạch dài.
Chất gỗ (lignin): Một polymer chứa các vòng thơm với các nhóm methoxyl.
Ligoncelluloza: Hợp chất do ligin và celluloza kết hợp với nhau.
Protein: Chất tạo thành các amino axit mạch thẳng.
Tính chất sinh học quan trọng nhất của phần hữu cơ trong CTR đô thị là hầu
như tất cả các hợp chất hữu cơ đều có thể bị biến đổi sinh học tạo thành các khí đốt


và chất trơ, chác chất rắn vô cơ có liên quan. Sự phát sinh mùi và côn trùng có liên
quan đến bản chất phân hủy của các vật liệu hữu cơ tìm thấy trong CTR đô thị.
Khả năng chung của các hợp chất hữu cơ trong CTR đô thị, dựa vào thành
phần ligin. Theo đó những chất có thành phần lignin cao sẽ có khả năng phân hủy
thất đáng kể so với chất khác.
Dựa trên các đặc điểm của CTR đô thị có các thành phần hữu cơ, có thể bị
phân hủy bởi các vi sinh vật nên người ta sản xuất phân compost để bổ sung thêm
dung dịch trong quá trình ủ phân, xảy ra trong quá trình hiếu khí hay kỵ khí. Quá
trình thủy phân các hợp chất có phân tử lượng thành hợp chất thích hợp là nguồn
năng lượng. Chuyển hóa các hợp chất hữu cơ ở giai đoạn trước thành những sản
phẩn chủ yếu là khí metan và cacbondioxit.
Trong quá trình phân hủy kỵ khí có nhiều loại vi sinh vật tham gia vào quá
trình chuyển hóa chất hữu cơ của chất thải thành những sản phẩm bền vững. Ngoài
ra còn một số nhóm vi sinh vật có xu hướng lên men các sản phẩm đã được cắt

mạch thành những chất có thành phần đơn giản hơn chủ yếu là axit axetic. Sau đó
axit này sẽ được chuyển hóa thành khí metan và cacbon dioxit.
Phân hủy hiếu khí dựa trên hoạt động của các vi khuẩn hiếu khí với sự có mặt
của khí oxy, thông thường qua 2 ngày, nhiệt độ phát triển và đạt khoảng 45C. Sau 6
- 7 ngày nhiệt độ đạt từ 70 - 75C. Với điều kiện nhiệt độ này thì đảm bảo điều kiện
tối ưu cho sự phát triển của vi sinh vật.
1.1.5. Quy trình kỹ thuật quản lý CTR
1.1.5.1. Thu gom và vận chuyển
-

a. Thu gom
Thu gom trực tiếp: Người công nhân vệ sinh đến từng hộ gia đình mang dụng cụ
chứa rác đến đổ vào phương tiện vận chuyển chở rác. Cách thức này thường áp
dụng cho các nhà trệt, biệt thự, khu thương mại… người sử dụng dịch vụ này phải
trả tiền cao hơn dịch vụ thu gom gián tiếp.


-

Thu gom gián tiếp: Trong cách thu gom này người công nhân dùng máy móc đưa
rác từ nơi chứa tập trung lên phương tiện chuyên chở rác. Rác được các hộ gia đình
mang chứa vào các thùng rác hoặc khu vực tập trung.
b. Trung chuyển

-

Tùy vào nhiều yếu tố kinh tế và kỹ thuật thuộc hệ thống quản lý CTR mà
người ta sẽ áp dụng việc trung chuyển hay không. Nhìn chung trung chuyển rác có
thể áp dụng cho hầu hết các hệ thống thu gom. Phân loại theo phương thức trung
chuyển người ta có:

Trạm chuyển trực tiếp là nơi mà xe thu gom rác đổ rác trực tiếp vào xe.
Trạm trung chuyển phối hợp, rác được đổ trực tiếp lên xe chuyên chở hoặc chứa
tạm tại chỗ tùy lúc.
Trạm trung chuyển phải được xây dựng và cấu trúc hợp lý cho việc chuyển
động của xe rác, trạm phải kín đảm bảo vệ sinh.
Nguyên tắc điều hành trạm trung chuyển là khi rác bị rơi vãi, tràn khỏi
phương tiện chứa thì phải được đặt và cho vào chỗ chứa ngay. Trạm cũng cần có hệ
thống phun nước chống bụi, hệ thống khử mùi.
c. Vận chuyển

-

Hiện nay việc vận chuyển rác có thể thực hiện bằng các phương tiện vận
chuyển trên các trục đường bộ. Tùy vào vào trí địa lý, địa hình, diện tích mặt bằng
và chi phí vận chuyển v.v… mà người ta chọn cách vận chuyển rác hợp lý nhất.
Các yêu cầu vận chuyển rác:
Chi phí vận chuyển thấp nhất.
Phương tiện vận chuyển phải kín, hợp vệ sinh.
Chở rác bằng các phương tiện chuyên dùng để đáp ứng các yêu cầu sử dụng, bảo
quản dễ dàng, đơn giản.
1.1.5.2. Phân loại CTR sau thu gom
CTR sau khi thu gom sẽ được vận chuyển về các trạm xử lý để tiến hành phân
loại rác, việc phân loại rác có thể thực hiện bằng tay hoặc bằng các thiết bị cơ giới
hóa vừa nhằm mục đích phân tách các thành phần có thể tái sinh như thủy tinh,
kim loại, giấy, nhựa, gỗ… với các thành phần không thể tái sinh. Đồng thời cũng


phân tách được phần lớn các chất hữu cơ và các chất vô cơ. Phần còn lại sẽ được
đốt nếu thích hợp hoặc được nén ép thành từng bánh để làm giảm thể tích CTR và
tăng thời gian sử dụng các bãi rác.

Phân loại CTR đóng vai trò quan trọng nhất vì quá trình này liên quan đến
khả năng tái sinh của các thành phần trong rác sinh hoạt, khả năng phân hủy của
các chất hữu cơ có trong rác. Các cách thức phân loại rác hiện nay gồm:
-

-

-

-

Phân loại CTR bằng tay: Việc phân loại bằng tay có thể thực hiện ngay tại nguồn,
nơi CTR phát sinh như các hộ gia đình, các cụm dân cư, các trạm trung chuyển,
trạm xử lý và ngay tại các bãi thải. Ở một số quốc gia phát triển, việc phân loại
bằng tay được tiến hành ngay từ trong từng đơn vị hộ gia đình. Phân loại bằng tay
giúp cho các công đoạn phân loại kế tiếp và công tác xử lý để thu hồi nguyên liệu
trở nên dễ dàng hơn, tiện lợi và ít tốn kém hơn.
Phân loại bằng luồng khí: Phân loại bằng luồng khí được áp dụng để tách các thành
phần khác nhau của một hỗn hợp khô có trọng lượng riêng khác nhau. Trong quá
trình phân loại CTR, luồng khí có lưu lượng và tốc độ thổi thích hợp sẽ tách các
thành phần nhẹ như giấy, các chất plastic và các chất hữu cơ nhẹ khác ra khỏi
CTR.
Phân loại bằng sàng: Phương pháp sàng được dùng để tách hỗn hợp các chất thành
hai hoặc nhiều thành phần có kích thước khác nhau bằng cách dùng một hoặc
nhiều lưới sàng với kích thước lỗ khác nhau. Quá trình sàng có thể thực hiện trước
hoặc sau khi cắt nghiền CTR, thường áp dụng cho rác khô và trong các hệ thu hồi
năng lượng và nguyên liệu.
Phân loại bằng từ tính: Đây là phương pháp thông dụng nhất được áp dụng để tách
các vật liệu bằng sắt và các hợp kim có chứa sắt ra khỏi CTR bằng từ trường. Các
thiết bị phân loại bằng từ trường thường gồm một băng tải chuyển rác qua một

trống từ, các vật liệu bằng sắt hoặc có chứa sắt sẽ bị từ tính hút giữ lại và đưa đến
một vị trí khác.
1.1.6. Ảnh hưởng của CTR đến môi trường
Tại Việt Nam, hoạt động phân loại CTR tại nguồn chưa được phát triển rộng
rãi, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật còn hạn chế, phần lớn phương


tiện thu gom CTR không đạt quy chuẩn kỹ thuật và không đảm bảo vệ sinh môi
trường. Các điểm tập kết CTR (điểm hẹn, trạm trung chuyển) chưa được đầu tư
xây dựng đúng mức, gây mất vệ sinh. Tại nhiều khu vực, hệ thống vận chuyển
chưa đáp ứng nhu cầu vận chuyển CTR hàng ngày, gây tình trạng tồn đọng CTR
trong khu dân cư. Nhìn chung, tất cả các giai đoạn quản lý CTR từ khâu thu gom,
vận chuyển đến khâu xử lý (chôn lấp, đốt) đều gây ô nhiễm môi trường.
1.1.6.1. Ô nhiễm môi trường không khí do chất thải rắn
CTR, đặc biệt là CTR sinh hoạt, có thành phần hữu cơ chiếm chủ yếu. Dưới
tác động của nhiệt độ, độ ẩm và các vi sinh vật, CTR hữu cơ bị phân hủy và sản
sinh ra các chất khí (CH4 - 63,8%, CO2 - 33,6%, và một số khí khác). Trong đó,
CH4 và CO2 chủ yếu phát sinh từ các bãi rác tập trung (chiếm 3 - 19%), đặc biệt tại
các bãi rác lộ thiên và các khu chôn lấp. Khối lượng khí phát sinh từ các bãi rác
chịu ảnh hưởng đáng kể của nhiệt độ không khí và thay đổi theo mùa. Lượng khí
phát thải tăng khi nhiệt độ tăng, lượng khí phát thải trong mùa hè cao hơn mùa
đông. Đối với các bãi chôn lấp, ước tính 30% các chất khí phát sinh trong quá trình
phân hủy rác có thể thoát lên trên mặt đất mà không cần một sự tác động nào.
Khi vận chuyển và lưu giữ CTR sẽ phát sinh mùi do quá trình phân hủy các
chất hữu cơ gây ô nhiễm môi trường không khí. Các khí phát sinh từ quá trình
phân hủy chất hữu cơ trong CTR: Amoni có mùi khai, phân có mùi hôi,
hydrosunfur mùi trứng thối, sunfur hữu cơ mùi bắp cải thối rữa, mecaptan hôi
nồng, amin mùi cá ươn, diamin mùi thịt thối, Cl 2 hôi nồng, Phenol mùi ốc đặc
trưng. Bên cạnh hoạt động chôn lấp CTR, việc xử lý CTR bằng biện pháp tiêu hủy
cũng góp phần đáng kể gây ô nhiễm môi trường không khí. Việc đốt rác sẽ làm

phát sinh khói, tro bụi và các mùi khó chịu. CTR có thể bao gồm các hợp chất chứa
Clo, Flo, lưu huỳnh và nitơ, khi đốt lên làm phát thải một lượng không nhỏ các
chất khí độc hại hoặc có tác dụng ăn mòn.
Mặt khác, nếu nhiệt độ tại lò đốt rác không đủ cao và hệ thống thu hồi quản lý
khí thải phát sinh không đảm bảo, khiến cho CTR không được tiêu hủy hoàn toàn
làm phát sinh các khí CO, oxit nitơ, dioxin và furan bay hơi là các chất rất độc hại


đối với sức khỏe con người. Một số kim loại nặng và hợp chất chứa kim loại (như
thủy ngân, chì) cũng có thể bay hơi, theo tro bụi phát tán vào môi trường. Mặc dù,
ô nhiễm tro bụi thường là lý do khiếu nại của cộng đồng vì dễ nhận biết bằng mắt
thường, nhưng tác nhân gây ô nhiễm nguy hiểm hơn nhiều chính là các hợp chất
(như kim loại nặng, dioxin và furan) bám trên bề mặt hạt bụi phát tán vào không
khí.
1.1.6.2. Ô nhiễm môi trường nước do chất thải rắn
CTR không được thu gom, thải vào kênh rạch, sông, hồ, ao gây ô nhiễm môi
trường nước, làm tắc nghẽn đường nước lưu thông, giảm diện tích tiếp xúc của
nước với không khí dẫn tới giảm DO trong nước. Chất thải rắn hữu cơ phân hủy
trong nước gây mùi hôi thối, gây phú dưỡng nguồn nước làm cho thủy sinh vật
trong nguồn nước mặt bị suy thoái. CTR phân huỷ và các chất ô nhiễm khác biến
đổi màu của nước thành màu đen, có mùi khó chịu.
Thông thường các bãi chôn lấp chất thải đúng kỹ thuật có hệ thống đường
ống, kênh rạch thu gom nước thải và các bể chứa nước rác để xử lý trước khi thải
ra môi trường. Tuy nhiên, phần lớn các bãi chôn lấp hiện nay đều không được xây
dựng đúng kỹ thuật vệ sinh và đang trong tình trạng quá tải, nước rò rỉ từ bãi rác
được thải trực tiếp ra ao, hồ gây ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng. Sự xuất
hiện của các bãi rác lộ thiên tự phát cũng là một nguồn gây ô nhiễm nguồn nước
đáng kể.
Tại các bãi chôn lấp chất thải rắn, nước rỉ rác có chứa hàm lượng chất ô
nhiễm cao (chất hữu cơ: do trong rác có phân súc vật, các thức ăn thừa... Chất thải

độc hại: từ bao bì đựng phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, mỹ phẩm). Nếu
không được thu gom xử lý sẽ thâm nhập vào nguồn nước dưới đất gây ô nhiễm
môi trường nước nghiêm trọng.
Vấn đề ô nhiễm amoni ở tầng nông (nước dưới đất) cũng là hậu quả của nước
rỉ rác và của việc xả bừa bãi rác thải lộ thiên không có biện pháp xử lý nghiêm
ngặt.


1.1.6.3. Ô nhiễm môi trường đất do chất thải rắn

-

Trước tiên việc sử dụng đất là các BCL rác đã chiếm một diện tích đất trong
khu vực. Khi dự án được triển khai, sẽ mất một diện tích lớn đất bị đổi mục đích sử
dụng ban đầu. Việc sử dụng đất nhất là đất nông nghiệp làm BCL có rất nhiều các
tác động xấu có thể kể đến một số tác dụng cụ thể như sau:
Giảm diện tích đất canh tác nông nghiệp.
Thành phần chất dinh dưỡng của đất trồng có thể bị thay đổi, đất sẽ bị ô nhiễm do
sự rò rỉ của nước rác.
Đất trong khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của nước rỉ rác thấm xuống. Các
chất ô nhiễm có trong nước rỉ rác sẽ đi vào đất làm thay đổi tính chất ban đầu. Cụ
thể một số chỉ số như: hàm lượng chất hữu cơ, hàm lượng kim loại ở trong đất
được sử dụng làm BCL không hợp vệ sinh cao hơn đất bình thường rất nhiều. Sự
thay đổi tính chất của đất ảnh xấu đến sản xuất nông nghiệp. Các độc tố tích trong
đất có thể chuyển đổi sang cây trồng và được sử dụng làm thức ăn gây ảnh hưởng
đến sức khỏe con người và gia súc.
Các chất thải rắn có thể được tích lũy dưới đất trong thời gian dài gây ra nguy
cơ tiềm tàng đối với môi trường. Chất thải xây dựng như gạch, ngói, thủy tinh, ống
nhựa, dây cáp, bê-tông... trong đất rất khó bị phân hủy. Chất thải kim loại, đặc biệt
là các kim loại nặng như chì, kẽm, đồng, Niken, Cadimi... thường có nhiều ở các

khu khai thác mỏ, các khu công nghiệp. Các kim loại này tích lũy trong đất và
thâm nhập vào cơ thể theo chuỗi thức ăn và nước uống, ảnh hưởng nghiêm trọng
tới sức khỏe. Các chất thải có thể gây ô nhiễm đất ở mức độ lớn là các chất tẩy rửa,
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc nhuộm, màu vẽ, công nghiệp sản xuất pin,
thuộc da, công nghiệp sản xuất hóa chất...
Tại các bãi rác, bãi chôn lấp CTR không hợp vệ sinh, không có hệ thống xử lý
nước rác đạt tiêu chuẩn, hóa chất và vi sinh vật từ CTR dễ dàng thâm nhập gây ô
nhiễm đất. Nghiên cứu của Viện Y học Lao động và Vệ sinh Môi trường cho thấy
các mẫu đất xét nghiệm tại bãi rác Lạng Sơn và Nam Sơn đều bị ô nhiễm trứng
giun và Coliform (bảng 21 phần phụ lục). CTR đặc biệt là chất thải nguy hại, chứa
nhiều độc tố như hóa chất, kim loại nặng, phóng xạ... nếu không được xử lý đúng


×