Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

ĐỀ TÀI VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ VÀO VIỆC GIẢI QUYẾT THỰC PHẨ BẨN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.47 KB, 31 trang )

1

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

ĐOÀN THỊ NGỌC NHI

NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TP. HỒ CHÍ MINH - 2020


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
V. I. Lênin đã khẳng định “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng. Chỉ Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiên phong” (V. I. Lênin, 2005, tr. 30 - 32). Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh
tính đúng đắn của quan niệm trên. Từ khi được soi sáng bởi lý luận cách mạng khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lenin, cách mạng Việt Nam đã chấm dứt giai đoạn khủng hoảng về đường lối cứu
nước, từng bước gặt hái được thành công rực rỡ, tiến tới thống nhất đất nước. Tuy nhiên, sự
thành công đó không phải là kết quả của việc tôn sùng chủ nghĩa Mác - Lenin, xem những nội dung
của học thuyết là tuyệt đối, bất di bất dịch mà đó là kết quả của quá trình học tập, vận dụng sáng
tạo lý luận phù hợp với tình hình cụ thể của dân tộc Việt Nam. Trong tình hình mới, Đảng và Nhà
nước ta vẫn khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm hệ tư tưởng chính và
là kim chỉ nam cho mọi hành động. Nhưng trước sự biến đổi nhanh chóng và phức tạp của đất
nước nói riêng và thế giới nói chung thì cần thiết đẩy mạnh công tác lý luận, bổ sung thêm những
luận cứ xác đáng, cách mạng và khao học để kịp thời định hướng cho việc hoạch định đường lối


xây dựng và bảo vệ đất nước. Qua quá trình tổng kết thực tiễn thì vấn đề đổi mới lý luận vẫn còn
tồn tại một số bất cập như lý luận chưa phản ánh đúng vấn đề mà thực tiễn mới đưa ra; bệnh chủ
nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều đang có xu hướng phát triển và biến đổi trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên; công tác nghiên cứu lý luận thiếu khoa học, dân chủ. Do đó, yêu cầu quan
trọng và cơ bản nhất trong công tác đổi mới lý luận là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận với thực tiễn vì suy cho cùng “lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong
các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó
chứng minh trong thực tiễn. Đó là lý luận chân chính” (Hồ Chí Minh, 2002, tr. 234). Vì vậy, tôi xin
chọn đề tài “Nguyên tắc thông nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin và vai trò
của nó đối với việc phát triển lý luận khoa học ở Việt Nam”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn đã có những công trình, bài viết của
nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ khác nhau.
“Vai trò của lý luận đối với quá trình đổi mới xã hội nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết
học của Phan Đình Đạt, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,1993.


3

“Vận dụng quan điểm Duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn trong
nhận thức và hình thành các giải pháp của quá trình đổi mới kinh tế của nước ta hiện nay”, luận
văn Thạc sĩ khoa học Triết học của Đặng Thành Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 1999.
“Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng
đào tạo ở trường cao đẳng sư phạm Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết
học của Lương Thị Kim Dung, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2009.
“Mấy vấn đề về nhận thức thực tiễn”, Nguyễn Đức Bình - Nxb. Sự thật Hà Nội, 1983.
“Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn”, Đình Nghiêm, Hữu Xanh, tạp chí Cộng sản, số 8/1986.
“Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới”, Phạm Minh Hạc, chương trình Khoa học công

nghệ cấp Nhà nước KX 07, Hà Nội, 1994.
“Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới”, Ban Khoa giáo Trung ương, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002.
Về vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với phát triển lý luận khoa
học ở Việt Nam.
“Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực vào nghiên cứu lý luận chính trị
ở nước ta hiện nay” của tác giả Ngô Đình Xây, Tạp chí Triết học, số 7 (218), tháng 7 – 2009.
“Gắn lý luận với thực tiễn trong đào tạo , bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay” của
tác giả Nguyễn Văn Chung, Tạp chí tổ Chức Nhà nước, ngày 12 – 08 – 2016.
“Phòng, chống nhận thức sai lệch và lười học lý luận, lý luận chính trị” của tác giả Văn Thị
Thanh Mai, Tạp chí của ban tuyên giáo trung ương, ngày 24 – 2 – 2020.

3. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận sẽ đi làm rõ nội hàm của các phạm trù nhận thức, lý luận, thực tiễn; nội dung của
mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận. Từ đó đi phân tích, chứng minh vai trò của
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn đối với quá trình hình thành, phát triển hệ thống
lý luận khoa học ở Việt Nam; khẳng định bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4

Tiểu luận tập trung nghiên cứu đến vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong quá trình hình thành, phát triển lý luận khoa học ở Việt Nam từ giai đoạn chủ nghĩa Mác
– Lênin được truyền bá vào đất nước cho đến hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan niệm lý luận, thực tiễn, mối quan hệ biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn. Cụ thể, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ vận dụng các phương pháp sau:

Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp so sánh đối
chiếu, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quan sát, phương pháp thu thập, thống
kê, xử lý thông tin.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nội dung của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
Làm rõ vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn đối với việc xây dựng lý luận
khoa học ở Việt Nam.
Đề xuất một số phương hướng, giải pháp phát triển lý luận khoa học ở Việt Nam hiện nay.
Dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, công tác giảng dạy, học tập, tìm hiểu về vai trò
của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – lenin đối với phát triển lý
luận khoa học.
7. Kết cấu cơ bản
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 2 chương, 7 tiết
và 16 tiểu tiết.


5

Chương 1
NỘI DUNG NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1.1. QUAN NIỆM VỀ NHẬN THỨC
1.1.1. Khái niệm của nhận thức
Vấn đề nhận thức đã trở thành chủ đề bàn luận sôi nổi ngay khi mầm mống triết học được
hình thành. Nhưng nhìn chung các trường phái triết học trước C. Mác do không nhận thấy được
tính tồn tại độc lập của thế giới khách quan nên họ phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con
người. Cụ thể, các nhà duy tâm thì cho rằng nhận thức chỉ là sự nhận thức về cảm giác của sự vật
hay đó là sự tự nhận thức của ý niệm, tư tưởng, tồn tại ở đâu đó bên ngoài con người. Trong khi
đó, chủ nghĩa hoài nghi thế kỉ IV trước công nguyên lại quá tuyệt đối tính hoài nghi nên họ không

tin vào khả năng nhận thức của con người. Thậm chí nhà triết học duy vật cổ điển Đức Feuerbach
cũng chỉ mới nhìn thấy được nhận thức là hoạt động phản ánh thế giới khách quan vào bộ não
con người mà chưa thấy được tính sáng tạo của hoạt động nhận thức.
Với sự kế thừa và sáng tạo những yếu tố hợp lý trong lý luận về nhận thức được kiểm chứng
của những thành tựu khoa học và thực tiễn xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng nên học
thuyết về nhận thức. Từ đó, các ông đưa ra cách hiểu đầy đủ về nhận thức. Nhận thức chính là

quá trình phản ánh sáng tạo của thế giới khách quan vào bộ não con người trên cơ
sở thực tiễn nhằm tìm ra những tri thức mới về thế giới khách quan. Như vậy, cơ sở
của nhận thức là thực tiễn và mục đích cuối cùng là thu nhận tri thức. Nhận định
này không chỉ nêu lên khái niệm mà còn khái quát bản chất của quá trình nhận thức.


6

1.1.2. Bản chất của nhận thức
Nhận thức là quá trình phản ánh sáng tạo thể giới khách quan vào bộ não người
trên cơ sở thực tiễn nhằm tìm ra những tri thức mới về thế giới khách quan. Vì vậy,
bản chât của nhận thức phải hội đủ những yêu cầu sau:
Một là, nhận thức là hoạt động phản ánh. Hoạt động này được thực hiện thông
qua sự tương tác giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể nhận thức theo nghĩa rộng là
toàn bộ loài người; theo nghĩa hẹp là những người cụ thể tham gia nhận thức và cải
tạo thế giới. Chủ thể nhận thức được thể hiện với nhiều tư cách như cá nhân, tập
thể, giai cấp, dân tộc hay nhân loại. Để hoạt động nhận thức được diễn ra trọn vẹn
thì con người với tư cách là chủ thể nhận thức cần phải có đẩy đủ những yếu tố sau:
sức khỏe cả về thể chất và tinh thần, tri thức, tình cảm và ý chí. Khách thể nhận
thức sẽ đi trả lời cho câu hỏi con người nhận thức cái gì? Con người tác động vào
cái gì? Như vậy, khách thể nhận thức là một bộ phận của thế giới vật chất được con
người tác động trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn. Có nghĩa, con
người cũng là một bộ phận thuộc khách thể nhận thức.

Mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức được thể hiện ở
chổ nếu không có chủ thể nhận thức thì không có khách thể nhận thức và ngược lại.
Cùng với sự phát triển của quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn mà chủ thể và
khách thể ngày càng được mở rộng cả về lượng lẫn chất. Để hỗ trợ, thúc đẩy hoạt
động nhận thức, con người đã tạo ra những công cụ, phương tiện nhận thức,đặc biệt
đó là hệ thống ngôn ngữ, chữ viết. Nhờ nó, kết quả nhận thức của con người được
ghi chép, lưu trữ và lan truyền qua nhiều giai đoạn lịch sử.
Hai là, nhận thức là hoạt động tích cực, sáng tạo. Bác bỏ quan điểm sai lầm
của các nhà triết học trước đó xem nhận thức là hoạt động thụ động, một chiều, triết
học Mác - Lênin đã khẳng định đây là một quá trình phản ánh chủ động, xâm nhập
vào hiện thực, làm nó bộc lộ các thuộc tính của mình, từ đó giúp con người nhận
thức được bản chất, quy luật của hiện thực. Trong quá trình phản ánh đối tượng, quá
trình nhận thức sau có sự phủ định và kế thừa biện chứng kết quả của quá trình nhận
thức trước đó. Bên cạnh đó, nhận thức không chỉ dừng lại ở bề ngoài mà nhận thức


7

sâu bên trong đối tượng. Đối tượng của nhận thức không có giới hạn, nó bao gồm cả
những cái đã, đang và sẽ diễn ra. Vì vậy, nhận thức của một con người trong một
thời điểm cụ thể là hữu hạn còn nhận thức của cả loài người trong quá tiến trình lịch
sử là vô hạn. Điều này một lần nữa đã cho thấy sự khác biệt về chất trong quan
niệm nhận thức của triết học Mác - Lênin so với các trường phái triết học trước đó.
Đó chính là con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới khách quan
và khả năng đó là vô hạn.
1.2. QUAN NIỆM VỀ LÝ LUẬN
1.2.1. Khái niệm lý luận
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quá trình nhận thức của con người
không diễn ra một cách thụ động mà mang tính sáng tạo. Nó là quá trình tư duy đi
từ cái riêng đến cái chung, từ hiện tượng đến bản chất; từ trừu tượng đến cụ thể; có

tính trừu tượng hóa và khái quát hóa. Nhờ vậy, thông qua quá trình nhận thức đã
sáng tạo nên sản phẩm mang hàm lượng trí tuệ cao, đó là lý luận. Theo Hồ Chí
Minh, “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những
tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” (Hồ Chí Minh,
1996, t.8, tr.497). Như vậy, lý luận là hệ thống tri thức phản ánh những mối liên hệ
bản chất, tất nhiên của các sự vật, hiện tượng; phản ánh những quy luật chi phối
quá trình hình thành, phát sinh, phát triển và chuyển hóa của đối tượng để từ đó
định hướng, dẫn đường cho con người hành động. Để hình thành nên lý luận cần có
những điều kiện nhất định và những điều kiện này đã từng được Ph. Ăghghen nhắc
đến trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”.
Một là, điểm xuất phát của tư duy lý luận chính là những kinh nghiệm được chủ thể tích lũy
trong cuộc sống hằng ngày và chủ thể phải hệ thống hóa, tìm ra được mối liên hệ tất yếu của
chúng. Hai là, tư duy lý luận phải gắn liền với khoa học, nhất là khoa học tự nhiên vì việc gắn với
sự phát triển khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm được những quy luật và các mối liên hệ bên trong
giữa các sự vật, hiện tượng. Điều này đã được chứng minh qua quá trình ra đời của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Trước khi nghiên cứu vấn đề triết học, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã bắt tay
vào nghiên cứu những thành tựu của khoa học, đặc biệt là lĩnh vực khoa học tự nhiên. Ba là, tư
duy biện chứng duy vật là hình thức cao nhất của tư duy lý luận, ông viết “ Trong thực tế, khinh
miệt phép biện chứng thì không thể không bị trừng phạt. Dù người ta tỏ ý khinh thường mọi tư


8

duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì người ta cũng không thể liên hệ
hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không hiểu được mối liên hệ giữa hai sự kiện
đó... sự khinh thường lý luận là con đường... đưa chúng ta đến chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ
nghĩa, tức là suy nghĩ sai” (Ph. Ăngghen, t.20, tr.487). Bốn là, cần phải có sự nghiên cứu nghiêm
túc toàn bộ lịch sử triết học vì đây là cách thức để biến năng lực tư duy lý luận từ dạng tiềm tàng
thành hiện thực. Như vậy, không phải bất kỳ chủ thể nhận thức nào cũng có khả năng sáng tạo
nên lý luận mà lý luận chỉ xuất hiệnở những chủ thể có vốn kiến thức, năng lực tư duy nhất định

và có khả năng thâm nhập vào thực tiễn, tiến hành các hoạt động nghiên cứu, đúc kết thực tiễn
nghiêm túc.

1.2.2. Chức năng, đặc trưng của lý luận
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy thuộc phạm vi phản ánh và vai trò
phương pháp luận của nó. Có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận
triết học. Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển
của một ngành, có vai trò là cơ sở phương pháp luận cho hoạt động của ngành đó.
Lý luận triết học là hệ thống những quan niêm chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí và vai trò con người trong thế giới ấy, đồng thời là thế giới quan và
phương pháp luận phổ biến của toàn bộ hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Do đó, chức năng cơ bản của lý luận bao gồm chức năng phản ánh và chức năng
phương pháp luận. Chức năng phản ánh được thực hiện thông qua hệ thống các khái
niệm, phạm trù, quy luật. Còn chức năng phương pháp luận thực hiện thông qua hệ
thống các nguyên tắc nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Lý luận là sản phẩm của quá trình nhận thức nên nó sẽ mang những đặc trưng
cơ bản sau: sự ra đời của lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người; lý luận
phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp và được đúc kết thành hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật; quá trình hình thành và phát triển lý luận phải dựa trên các phương pháp
nhận thức; mục đích của lý luận chính là giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, đặc biệt là
những vấn đề bức xúc hiện thời.
Lý luận đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Nó định

hướng, dẫn đường cho hoạt động của con người thông qua việc giúp con người định


9

hướng mục tiêu, chiến lược, sách lược, đường lối, chủ trương, chính sách; xác định
lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện; dự báo trước xu hướng vận động

trong tương lai để con người chuẩn bị ứng phó. Tuy nhiên, lý luận vẫn là sản phẩm mang
tính chủ quan của con người vì vậy nó có những hạn chế nhất đinh. Giữa lý luận và thực tiễn bao
giờ cũng có khoảng cách. Lý luận phản ánh hiện thực nên dù có thể vượt trước hiện thực thì lý
luận có thể mang tính cách mạng hoặc bảo thủ, trì trệ. Lý luận có thể đúng hoặc sai nên cần phải
đưa vào thực tiễn để kiểm nghiệm. Do đó, chỉ những tri thức lý luận nào phản ánh đúng bản chất,
vạch ra được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng; chỉ ra được quy luật, xu hướng vận động,
phát triển của hiện thực khách quan thì đó là lý luận khoa học. Đây mới là những lý luận cần thiết
cho sự định hướng hoạt động thực tiễn, là thước đó cho trình độ phát triển khoa học của quốc
gia, dân tộc vì “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có
tư duy lý luận” (Ph. Ăngghen, 1995, t.20, tr. 489).

1.3. QUAN NIỆM VỀ THỰC TIỄN
1.3.1. Khái niệm thực tiễn
Nói đến vị trí của thực tiễn, Lênin đã khẳng định “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải
là phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”(V. I. Lênin 1980, t.18, tr. 167).
Như vậy, thực tiễn chính là phạm trù xuất phát và quan trọng trong hoạt động nhận thức của con
người. Tuy nhiên, trước khi có sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin, c ác hệ thống triết học, kể

cả các học thuyêt duy vật tiến bộ, đều chưa thấy được vị trí, vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức, chưa nhận thức hết được ý nghĩa thực tiễn cao nhất của triết học là
hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con người; do đó, chưa đạt đến được đỉnh
cao trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Chẳng hạn, một số nhà triết học như Ph. Bêcơn, Đ.
Diđơrô,... lại chỉ đề cao thực nghiệm khoa học chứ chưa đề cập rõ đến các hình thức khác của
thực tiễn. Còn G. Hêghen chỉ nhìn nhận thực tiễn là dạng hoạt động tinh thần. Ngay đến nhà duy
vật tiến bộ Feuerbach cũng chỉ đề cao hoạt động lý luận. Sai lầm này đã được C. Mác chỉ rõ

trong luận điểm nổi tiếng, ông viết “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa
duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Feuerbach – là sự vật, hiện
thực, cái cảm giác được chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức
trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực

tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan” (C. Mác, 1995, t.3, tr. 9). Khắc phục


10

những hạn chế nói trên, sự ra đời của triết học Mác đã mang lại một quan niệm
đúng đắn về thực tiễn. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Cách hiểu này là một bước
chuyển biến cách mạng trong lịch sử lý luận nhận thức.
Qua đây, chúng ta nhận thấy rõ thực tiễn mang những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, thực tiễn là dạng hoạt động vật chất. Khác với hoạt động tinh thần, thực
tiễn là loại hoạt động mà con người sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất, sức
mạnh vật chất để tác động vào những đối tượng vật chất, làm biến đổi chúng cho
phù hợp với nhu cầu của con người.
Hai là, thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội. Hoạt động của con người mang tính
lịch sử cụ thể. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau con người sẽ tiến hành những hoạt
động thực tiễn cụ thể khác nhau, đồng thời, nó sẽ chịu sự chi phối về mục đích, lực
lượng, công cụ tiến hành. Không có hoạt động thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn mà nó
có quá trình hình thành, phát triển, kết thúc hoặc chuyển sang hình thức khác ở giai
đoạn lịch sử tiếp theo. Mặt khác, dù hoạt động thực tiễn do một cá nhân hay một
nhóm người trực tiếp tiến hành thì đều không thể tách rời khỏi xã hội. Do đó, hoạt
động thực tiễn mang tính xã hội sâu sắc.
Hoạt động thực tiễn được thực hiện một cách tất yếu, khách quan và không
ngừng phát triển theo thời gian. Nhưng dù mang tính khách quan, tất yếu thì mục
đích quan trọng của hoạt động thực tiễn chính là chinh phục và cải biến tự nhiên, xã
hội để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, xã hội loài người. Đây
chính là đích đến và là đặc trưng quan trọng của hoạt động thực tiễn. Vì vậy, những
hoạt động nào không nhằm cải tạo mà vì mục đích phá hủy tự nhiên, xã hội thì
không được xem là hoạt động thực tiễn. Đồng thời, thông qua việc tác động vào bản
thân sự vật, hiện tượng trong hiện thực giúp cho nhận thức của con người cũng
được phát triển.

1.3.2. Các dạng của thực tiễn


11

Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song
có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội
và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên
của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu
nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của mình và xã hội. Trước hết nhân loại chỉ có thể
giải quyết vấn đề tư liệu tiêu dùng vật chất như ăn, uống, ở, mặc thông qua sản xuất
mới có thể nói đến các hoạt động khác như chính trị, khoa học, nghệ thuật… Do
vậy, cải tạo hoạt động sản xuất đối với tự nhiên là hoạt động thực tiễn sớm nhất của
nhân loại, cũng là hoạt động căn bản của nhân loại quyết định tất cả các hoạt động
khác.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các tổ chức, cộng đồng người
khác nhau với ý nghĩa cách mạng nhằm cải biến những mối quan hệ để thúc đẩy xã
hội phát triển. Vì vậy, triết học Mác xem đây là một dạng cơ bản của hoạt động thực
tiễn. Hoạt động chính trị - xã hội cũng là một dạng đặc trưng trong điều kiện xã hội
có phân chia giai cấp, lợi ích.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn
bởi vì nó không nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất nhất định mà nhằm đạt đến các
tri thức khoa học. Thông qua thực nghiệm khoa học mà con người nhận thức được
quy luật khách quan, phát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng, phục vụ cho các
hoạt động khác của đời sống. Do đó, hoạt động này ngày càng có vai trò quan trọng
trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại. Có ba loại thực nghiệm là thực nghiệm trong sản xuất, trong khoa
học tự nhiên và trong xã hội.

Như vậy, mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan
trọng riêng, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất,
đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác bởi vì, nó là hoạt động cơ bản
nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên trong đời sống của con người và
nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và


12

phát triển của con người. Ngược lại, các hình thức còn lại của thực tiễn cũng có sự
tác động trở lại đối với hoạt động sản xuất vật chất và ảnh hưởng hết sức quan trọng
đối với sự phát triển của xã hội. Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình
thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và
ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động nhận thức, lý luận.
1.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan. Con người luôn luôn tác động tích cực vào thế giới
khách quan - tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan bằng thực tiễn. Trong
quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con người và sự biến đổi thế giới khách
quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự thống nhất biện chứng giữa lý luận
với thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhân và cộng đồng.
1.4.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận
Lý luận phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, bằng con đường
tổng kết thực tiễn. Hay nói cách khác, thực tiễn chính là cơ sở, động lực, muc đích và tiêu chuẩn
kiểm tra lý luận.

Một là, thực tiễn là cơ sở của lý luận.
Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của hoạt động nhận thức, thông qua thực
tiễn mà con người nảy sinh nhu cầu hiểu biết về thế giới, vì vậy, con người phải tác

động vào thế giới, làm cho nó bộc lộ các thuộc tính, và thông qua các thuộc tính ấy
con người có thể nắm bắt được bản chất của các quy luật vận động và phát triển của
thế giới. Thực tiễn đề ra yêu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động,
phát triển của nhận thức, không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý
luận. Do đó, “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ
sở của lý luận nhận thức” (V. I. Lenin, , tr.)
Hai là, thực tiễn là động lực của lý luận.
Thông qua thưc tiễn, các giác quan và bộ óc con người ngày càng hoàn thiện, năng lực tư duy
logic, tư duy trừu tượng không ngừng được củng cố và phát triển, từ đó, thúc đẩy sự phát triển
của lý luận. Thông qua thực tiễn, con người tạo ra những công cụ, phương tiện nhận thức ngày


13

càng tinh vi hơn, hiện đại hơn, càng làm tăng thêm khả năng nhận thức của con người và lý luận
có khả năng là phát triển.
Mặt khác, thực tiễn luôn luôn vận động và biến đổi nên nó ngày càng đặt ra những vấn đề
mới. Đây chính là cơ sở để con người từng bước bổ sung, phát triển lý luận, đạt đến lý luận khoa
học. Chính vì vậy, theo V.I.Lênin,“Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của
nó, trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, tự nó và vì
nó”(V. I. Lenin, 1981, tr. 227). Quá trình hoàn thiện lý luận cũng chính là quá trình con người tự
rèn luyện bản thân, rèn luyện tư duy lý luận, hoàn thiện năng lực và bản chất của mình.
Ba là, thực tiễn là mục đích của lý luận nhận thức.
Không phải chỉ để nhận thức thức, thỏa mãn trí tuệ, làm phong phú trí tuệ mà mục đích quan
trọng của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người trước hiện thực khách quan để
đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Nhưng mục đích,
nhu cầu này của lý luận chỉ được thực hiện thông qua thực tiễn. Vì vậy, suy cho cùng lý luận phải
quay trở về thực tiễn, phục vụ thực tiễn, chỉ đạo thực tiễn và tổ chức thực hiện trong thực tiễn thì
mới có thể đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con người và xã hội. C. Mác khẳng định “Các nhà triết
học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” (C. Mác,

1995, t.3, tr. 20).
Bốn là, thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
Tính chân lý của lý luận là sự phản ánh phù hợp của lý luận với hiện thực và được thực tiễn
kiểm nghiệm. thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ xác nhận được lý luận là đúng hay
sai, nếu phù hợp với hiện thực thì đó là chân lý, còn nếu không phù hợp thì đó là sai lầm; đồng
thời, thông qua thực tiễn kiểm nghiệm sẽ bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện
lý luận.V. I. Lenin viết: “Con người chứng minh bằng thực tiễn của mình sự đúng đắn khách quan
của những ý niệm, khái niệm, tri thức của mình, của khoa học của mình” (V. I . Lênin, 2005, t. 29,
tr. 203). Từ đó, V.I. Lênin kết luận: “Trong khi kiểm nghiệm và áp dụng sự đúng đắn của những
phản ánh ấy vào thực tiễn của mình và trong kỹ thuật, con người đạt tới chân lý khách quan” (V. I.
Lênin, 2005, t.29, tr. 215).
Tiêu chuẩn thực tiễn để kiểm tra chân lý vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối.
Tính tuyệt đối thể hiện ở chổ, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân
lý; tính tương đối thể hiện ở chổ, bản thân thực tiễn luôn biến đổi cho nên các tri thức, lý luận
mới phải được kiểm nghiệm bởi những thực tiễn mới.


14

Mặt khác, bên cạnh tiêu chuẩn thực tiễn còn có tiêu chuẩn logic, nhưng xét đến cùng, để xác
nhận chân lý vẫn phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. C. Mác chỉ rõ: “Vấn đề tìm hiểu xem
tư duy của con người có thể đạt đến chân lý khách quan không hoàn toàn không phải là vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn” (C. Mác, 1995, t.3, tr. 20).
Như vậy, quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình thành lý
luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà còn từ nhu cầu của thực tiễn.
Trong quan hệ giữa lý luận và thực tiễn thì thực tiễn đóng vai trò quyết định đối với lý luận. V. I.
Lênin nhấn mạnh: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) chỉ vì nó có ưu điểm không những của
tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp” (V. I. Lênin, 2005, t.29, tr. 230).

1.4.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn

Con người khác với con vật ở chổ có ý thức. Trước khi làm bất cứ việc gì thì hình ảnh phác
họa của công việc đó đã được hình thành trong não người. Ban đầu, hoạt động của con người
chưa có lý luận chỉ đạo, song con người phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình.
Thông qua đó, con người khái quát thành lý luận. Từ đó, những hoạt động thực tiễn của con người
mới trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn. Vì vậy,thực tiễn phải luôn
được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học, nếu không sẽ là thực tiễn mù quáng, mò
mẫm.

Lý luận là kim chỉ nam soi đường, định hướng cho thực tiễn, giúp cho thực tiễn
đạt kết quả tốt, cũng nhờ đó mà hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác,
có hiệu quả, hạn chế được tính tự phát trong thực tiễn và đạt được mục đích mong
muốn. Bởi vì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, phương hướng, phương
pháp, giải pháp, biện pháp thực hiện cho hoạt động thực tiễn. Bên cạnh đó, lý luận
còn có thể dự báo trước những rủi ro, hạn chế, thất bại cũng như xu hướng vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai.
Hoạt động thực tiễn vốn đa dạng và phong phú nhưng chúng đều có những quy
luật nhất định. Lý luận chính là hình thức khái quát tính quy luật của hoạt động thực
tiễn. Mục đích của lý luận không chỉ có phương pháp mà còn định hướng cho hoạt
động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định


15

hướng giải quyết các mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Không những thế, lý
luận còn định hướng mô hình của hoạt động thực tiễn.
Lý luận có vai trò giác ngộ lý tưởng, liên kết các cá nhân tạo thành cộng đồng,
tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo
xã hội. Chính vì vậy, C.Mác đã cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không
thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ
bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi

nó thâm nhập vào quần chúng” (C. Mác, 1980, t.1, tr. 580).
Lý luận mà không gắn với thực tiễn thì lý luận không có mục đích, không có
sức mạnh, không cải tạo được thiên nhiên. Ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận
chỉ đạo thì hoạt động sẽ mang tính tự phát, mù quáng. V. I. Lênin viết “Không có lý
luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng, chỉ đảng nào có một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” (V. I.
Lênin, 1976, t.6, tr. 30).
1.4.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Xuất phát từ vai trò của thực tiễn đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải luôn
quán triệt quan điểm thực tiễn. Tức là trong việc nhận thức, hình thành lý luận phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn. Nếu xa rồi thực tiễn sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc,
quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa thực tiễn lại rơi vào bệnh chủ nghĩa kinh
nghiệm, chủ nghĩa thực dụng. Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển nên lý luận
phải luôn bám sát thực tiễn để phản ánh trình độ, lấy đó làm cơ sở cho việc bổ sung
và hoàn thiện lý luận, từ đó lý luận mới có tính khoa học và đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn.
Còn trong hoạt động thực tiễn muốn hạn chế được rủi ro, thất bại, đạt đến thành
công thì con người cần phải tự trang bị cho mình hệ thống lý luận khoa học, cách
mạng. Thường xuyên tự giác vận dụng lý luận khoa học vào trong hoạt động thực
tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã


16

hội. Đồng thời có thái độ tôn trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo
vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dù lý luận có tính khái quát cao, có
thể đi trước thực tiễn, song nó vẫn có khoảng cách nhất định so với với thực tiễn.
Do đó, khi vận dụng lý luận, chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình
cụ thể. Nếu vận dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiểu

sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống
nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận chỉ đạo thực tiễn, vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lenin vào thực tiễn phải quán triệt quan điểm
lịch sử - cụ thể.
Như vậy, “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” (Hồ Chí Minh,
1996, t.8, tr. 496)


17

Chương 2
VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN KHOA HỌC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Từ khi ra đời cho đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng tỏ được tính khoa
học, cách mạng triêt để và trở thành thế giới quan, phương pháp luận định hướng
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Một trong những nội dung cơ
bản, nổi bật của học thuyết chính là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn. Riêng đối với Việt Nam, nguyên tắc này đã và đang có vai trò quan trọng trong
việc phát triển lý luận khoa học, đặc biệt là trong thời đại nhiều biến động hiện nay.
2.1. HÌNH THÀNH TƯ DUY LÝ LUẬN KHOA HỌC Ở VIỆT NAM
2.1.1. Thời kỳ khủng hoảng về lý luận cách mạng
Ngày 1 tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng, mở đầu cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược,
chúng đã thi hành chính sách thống trị và bóc lột rất tàn bạo về mọi mặt đối với dân tộc
Việt Nam. Những chính sách đó của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam thay đổi từ
xã hội phong kiến độc lập thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Đời sống nhân dân cực

khổ, lầm than vì sự áp bức, bóc lột hà khắc của hai tầng thống trị là thực dân và phong
kiến. Cơ cấu giai cấp xã hội cũng bị biến đổi sâu sắc, bên cạnh giai cấp nông dân và địa
chủ đã xuất hiện thêm giai cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản. Từ đó,
hình thành nên hai mâu thuẫn chủ yếu chi phối đời sống xã hội bấy giờ, đó là mâu thuẫn


18

giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp
địa chủ phong kiến.
Trước sự thống trị tàn bạo của bọn thực dân đế quốc, với tinh thần bất khuất chống
giặc ngoại xâm, các phong trào chống Pháp, giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên
tiếp nổ ra. Tiêu biểu như phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết
khởi xướng, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào cải cách của Phan Chu
Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo,… Mặc dù đa dạng, phong phú
nhưng hầu hết những phong trào này đều bị dìm trong bể máu. Sự thất bại này chứng tỏ
những con đường cứu nước trên đã lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện thực tế, cách
mạng Việt Nam đang rơi vào giai đoạn khủng hoảng về đường lối cứu nước, giai cấp lãnh
đạo. Do đó, yêu cầu cấp thiết lúc này cần phải tìm ra được con đường cứu nước mới với hệ
thống lý luận cách mạng, khoa học và tiến bộ, một giai cấp có đủ tư cách, năng lực, đại
biểu cho quyền lợi của dân tộc, nhân dân để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.

2.1.2. Xây dựng hệ thống lý luận cách mạng và khoa học
Trước tình hình đó, để tìm con đường mới giúp cách mạng Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng
hoảng, người thanh niên Văn Ba đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Khác với những tiền bối
đi trước, Người lựa chọn hướng đi sang các nước phương Tây với đích đến đầu tiên là nước Pháp.
Vì Pháp là “cái nôi” của cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất châu Âu với khẩu hiệu “Tự do – Bình
đẳng – Bác ái”. Do đó, Người muốn sang các nước phương Tây để học hỏi cách làm cách mạng,
tinh hoa tiên tiến để về giúp ích cho cách mạng Việt Nam.
Sau 10 năm bôn ba tìm đường cứu nước, tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc tiếp cận Sơ thảo lần

thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lênin được đăng trên
báo Nhân Đạo. Tác phẩm này đã mang lại cho Người những nhận thức mới mẻ về con đường cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Người kể lại “Bản Luận cương làm cho tôi cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi xúc động đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” và “Từ đó, tôi đã có một sự lựa
chọn: tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin”(Hồ Chí Minh, 1995, t.12, tr. 471). Đây
chính là bước ngoặc đưa Người đến với ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh thần cách mạng
vô sản. Người khẳng định cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi nhất thiết phải đi theo con
đường cách mạng vô sản. Tuy nhiên, theo quan điểm của Người thì chủ nghĩa Mác - Lênin là kim
chỉ nam chứ không phải là kinh thánh, vì vậy học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập thế giới


19

quan, phương pháp luận duy vật, biện chứng, khoa học để vận dụng sáng tạo vào tình hình cụ thể
của cách mạng Việt Nam chứ không rập khuôn, máy móc. Nhận thức sâu sắc rằng: “Không có lý
luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận tiền phong, đảng cách
mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” nên ngay từ buổi đầu Người đã xem trọng
việc hình thành lý luận cách mạng, khoa học. Đó là hệ thống lý luận dựa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin nhưng phải xuất phát, phù hợp với thực tiễn của đất nước Việt Nam. Tuân thủ đúng
tinh thần của nguyên tắc này, lý luận cách mạng Việt Nam từng bước được hình thành, thực hiện
sứ mệnh dẫn đường cho sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước tiến đến thằng lợi.
Một là, lý luận về vấn đề thực hiện cách mạng vô sản ở Việt Nam.
Lý luận cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh được tính cách mạng của
mình nhưng nó chưa hoàn toàn phù hợp khi áp dụng vào thực tiễn ở các nước thuộc địa, trong đó
có Việt Nam bởi tình hình bấy giờ đã có nhiều thay đổi. Dưới thời Mác, chủ nghĩa tư bản phát
triển trong điều kiện tự do cạnh tranh nên ông cho rằng cách mạng vô sản sẽ nổ ra và giành thắng
lợi ở những nước tư bản phát triển và vấn đề nổi cợm ở các nước tư bản châu Âu là giải quyết
mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.

Đến thời Lênin, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, mở rộng xâm
chiếm thuộc địa. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa diễn ra mạnh mẽ và
trở thành một bộ phận quan trọng của cách mạng vô sản. Do điều kiện thay đổi, Lênin đã phát
triển lý luận cách mạng vô sản của Mác và đưa ra nhận định bổ sung rằng cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các
thuộc địa; cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa chỉ có thể đi đến thành công
sau khi cách mạng vô sản ở chính quốc giành thắng lợi và giúp đỡ các nước thuộc địa đấu tranh
giải phóng dân tộc. Sự phát triển này là kết quả của việc vận dụng nguyện tắc thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn.
Tiếp tục kế thừa, vận dụng nguyên tắc này vào tình hình xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, Hồ Chí
Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở Việt Nam và các nươc phương Đông nói chung khác với xã
hội tư bản phương Tây. Mâu thuẫn chủ yếu chi phối ở các nước thuộc địa đó là mâu thuẫn giữa
dân tộc bị áp bức và đế quốc xâm lược. Giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ
về cơ bản vẫn bị thực dân Pháp bóc lột nên họ không phải là những giai cấp thống trị, mà là giai
cấp bị trị và có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Do đó, nhiệm vụ quan trọng và
trước hết của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc. Dân tộc có thống nhất thì lợi ích các giai
cấp trong xã hội Việt Nam mới có điều kiện thực hiện. Do đó, mặc dù cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc như "hai cánh của một con chim"


20

nhưng căn cứ vào tình hình thực tiễn cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới, Hồ
Chí Minh cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước và tạo điều kiện cho cuộc cách mạng vô sản ở chính
quốc. Như vậy, tư tưởng lý luận cách mạng vô sản đã được phát triển phù hợp với thời đại mới và
đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới kiểm nghiệm tính đúng đắn.
Hai là, lý luận về quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo Mác, giai cấp vô sản chỉ có thể thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng khi có một chính
đảng của riêng mình, nhằm “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của

giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 2004, tr. 615). Giai
cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử thế giới, nhưng lại tồn tại trong từng quốc gia dân tộc, vì thế trước
khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế giới, giai cấp vô sản phải hoàn thành sứ mệnh với dân tộc
mình. Điều đó có nghĩa là phải thành lập Đảng Cộng sản trong từng quốc gia , dân tộc, chứ không
phải trong từng khu vực của thế giới. Vì vậy, quy luật chung cho sự ra đời của đảng cộng sản của
cách mạng vô sản là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân. Thừa nhận quy luật
chung này nhưng Lênin cho rằng tùy vào đặc điểm của mỗi nước đòi hỏi phải có những cách thức
riêng biệt.
Việt Nam vốn là một nước phong kiến, sản xuất nông nghiệp chủ yếu. Do đó, thành phần
chiếm số đông trong xã hội là giai cấp nông dân. Dưới chính sách áp bức của thực dân, g iai cấp
công nhân được hình thành nhưng đa số họ có xuất thân từ nông dân nên giữa hai giai cấp này có
mối quan hệ khăng khít với nhau. Với số lượng còn ít ỏi nên phong trào công nhân những năm
1920 còn yếu ớt và nhỏ lẻ. Trong khi đó, phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, là giá trị tinh
thần trường tồn trong lịch sử Việt Nam và phong trào yêu nước không bài xích mà kết hợp được
ngay với phong trào công nhân làm dâng cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc. Đây chính là
cơ sở thực tiễn đặc trưng dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Cho nên, Đảng cộng sản Việt
Nam chính là đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là đảng của dân tộc Việt Nam.
Ba là, lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nguyên tắc thông nhất giữa lý luận và thực tiếp tiếp tục được quán triệt và vận dụng triệt để
trong việc đề ra lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuy chúng ta
đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta không thể áp dụng những


21

kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta” (Hồ Chí Minh,
t.11, tr. 97).
Sau cách mạng tháng Tám, miền Băc tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa. Với đặc điểm từ
một nước nông nghiệp lạc hậu, điểm xuất phát thấp đi lên chủ nghĩa xã hội càng phải lựa chọn

hình thái, bước đi thích hợp để tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, đó là hình
thức quá độ gián tiếp, đi từ chế độ phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản
chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ này là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài chứ
không thể một sớm một chiều. Bởi vì, “chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay
chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý
nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm... biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành một
nước công nghiệp” (Hồ Chí Minh, 2000, t. 10, tr. 329). Tuy nhiên, muốn thực hiện sứ mệnh này thì
không phải cứ ngồi mà chờ là sẽ có được chủ nghĩa xã hôi. Trong quá trình thực hiện, nếu nhân
dân ta nỗ lực cố gắng, thi đua xây dựng thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn.
Để thực hiện mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội, về chính trị cần phải xây dựng một Nhà nước
pháp quyền dân chủ, đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh toàn dân để xây dựng đất nước
và bảo vệ Tổ quốc. Về kinh tế, thực hiện một nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sở
hữu, lấy kinh tế nhà nước và tập thể để định hướng đến chủ nghĩa xã hội. Về văn hóa, là xây dựng
nền văn hóa dân tộc - khoa học - đại chúng và thực hiện chính sách xã hội công bằng dựa trên sự
đóng góp lao động của mỗi cá nhân. Đây chính là những nhiệm vụ cơ bản được đặt ra dựa trên
tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào thực tiễn của
từng thời kỳ mà việc lựa chọn mục tiêu, phương phướng, hướng đi sẽ có sự thay đổi.
Như vậy, cùng một vấn đề nhưng thực tiễn thay đổi thì lý luận bắt buộc cũng phải thay đổi để
kịp thời thích ứng, định hướng cho hoạt động của thực tiễn. Thông qua nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn mà lý luận cách mạng Việt Nam được hình thành, ngày càng được hoàn
thiện và thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là minh chứng cho sức sống của nguyên tắc này.

2.2. KHẮC PHỤC BỆNH CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM VÀ CHỦ
NGHĨA GIÁO ĐIỀU
2.2.1. Bệnh chủ nghĩa kinh nghiệm
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, kinh nghiệm là một dạng tri thức phản ánh hiện
thực khách quan, là hình thức của ý thức. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ nhận thức khác
nhau. Song nó có mối quan hệ mật thiết với nhau trên cơ sở thực tiễn. Tri thức kinh nghiệm là tri
thức chủ yếu thu được từ quan sát và thí nghiệm. Tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp



22

từ thực tiễn – từ lao động sản xuất, đến đấu tranh xã hội hoặc thí nghiệm khoa học. Trong sự phát
triển của xã hội, tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày
của con người và có vai trò quan trọng trong đấu tranh cách mạng, nhất là trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm là cơ sở để chúng ta kiểm tra lý luận, sửa đổi, bổ sung lý luận
đã có, tổng kết khái quát thành lý luận mới.
Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm còn hạn chế bởi nó chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt
riêng rẽ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật và còn rời rạc. Ở trình độ tri thức kinh nghiệm
chưa thể nắm được cái tất yếu sâu sắc nhất, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng.
Ăngghen nhận xét “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh
được đầy đủ tính tất yếu” (Ph. Ăngghen, 1994, t. 20, tr. 781). Vì vậy, không nên coi thường kinh
nghiệm song cũng không nên cường điệu kinh nghiệm và cũng không nên dừng lại ở kinh nghiệm
mà cần nâng lên trình độ lý luận.
Lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái
quát từ tri thức kinh nghiệm, nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật của lý
luận nói chung. Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm nhưng lý
luận không hình thành một cách tự phát. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước
kinh nghiệm. Tuy nhiên, giữa lý luận với kinh nghiệm vẫn tồn tại mối quan hệ mật thiết.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó, nó đem lại sự
hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan.
Nhận thức lý luận là nhận thức hướng vào nắm bắt bản chất, quy luật của sự vật. Như vậy, lý luận
thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, do đó, phạm vi ứng dụng của nó
càng phổ biến hơn, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
Như vậy, thực chất bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hoá kinh nghiệm,
coi thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận. Những biểu
hiện cơ bản của căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân,
ngại học lý luận, không chịu khó nâng cao trình độ lý luận; tiếp xúc với lý luận ở trình độ tư duy
kinh nghiệm từ đó đơn giản hóa, thông tục hóa, kinh nghiệm hóa lý luận, cố gắng “đẽo gọt” lý

luận cho vừa với khuôn khổ, kích thước kinh nghiệm của mình; coi thường lý luận, không tin vào lý
luận và không chịu khó vận dụng lý luận vào thực tiễn; thói quen ỉ lại, dựa dẫm vào người khác,
tuyệt đối hóa kinh nghiệm của thế hệ trước, của cấp trên; coi thường lớp trẻ, đề cao người lớn
tuổi.
Nguyên nhân chính dẫn đến căn bệnh này là do không nắm rõ bản chất của mối quan hệ giữa
kinh nghiệm với lý luận, giữa lý luận với thực tiễn. Từ đó dẫn đến sai lầm trong nhận thức, không
hiểu, không thấy được vai trò to lớn của lý luận khoa học đối với thực tiễn mà đề cao kinh nghiệm


23

của bản thân; Hồ Chí Minh viết “Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh
nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh
lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn
nhiều. Họ quên rằng: kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi,
chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một
mắt mờ.” (Hồ Chí Minh, 2002, t.5, tr. 274). Bên cạnh đó, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa còn xảy ra do
không được trang bị về lý luận hay tiếp thu một cách sơ sài, giản đơn, cắt xén làm cho lý luận bị
méo mó, mất tinh khoa học, cách mạng.

2.2.2. Bệnh chủ nghĩa giáo điều
Trái ngược với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu hóa
vai trò của lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ
thể. Biểu hiện của căn bệnh này ở chổ tôn thờ, tuyệt đối hóa lý luận, thoát ly thực tiễn. Học thuộc
từng câu, từng chữ lý luận như kiểu học vẹt mà không nắm được tinh thần, bản chất khoa học của
lý luận, không tiêu hóa được kiến thức sách vở. Coi những nguyên lý, lý luận như những tín điều,
xem chúng như kinh thánh để bảo vệ sự hiểu biết trống rỗng, hạn hẹp của mình. Bỏ qua sự vận
động, phát triển của thực tiễn, không hiểu được tính khách quan, cụ thể, tính tương đối và tuyệt
đối của chân lý. Vận dụng lý luận và những kinh nghiệm đã có theo kiểu rập khuôn, máy móc,
không tính đến điều kiện lịch sử - cụ thể, đến trình độ của thực tiễn của từng vùng, từng địa

phương.
Nguyên nhân chính của bệnh giáo điều là do không tuân thủ quy luật thống nhất giữa lý luận
với thực tiễn. Họ chỉ nhận thấy vai trò của lý luận mà bỏ quên thực tiễn. Mặc dù lý luận là sợi chỉ
định hướng, có thể dự đoán trước tương lai nhưng nó cũng không được tách rời thực tiễn. Bởi
thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn để kiểm tra lý luận, đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lý giải “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực
tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực
hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách.” (Hồ Chí Minh, 2002, tr. 234). Nguyên nhân khác đó là
do không biết cách vận dụng lý luận vào thực tiễn, không biết đem lý luận ra thực hành, xem trọng
kiến thức sách vở mà thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Thiếu nghiêm túc trong tìm hiểu, học tập lý
luận, không nắm được bản chất cốt lỗi, cũng như tính hạn chế của lý luận nên dẫn đến việc khoác
lác, qua loa, thiếu sáng tạo, liên hệ thực tiễn khi trình bày lý luận. Quy phạm nguyên tắc lịch sử cụ thể khi xem xét, học hỏi, vận dụng lý luận nên chưa thể phát huy được vai trò tiên phong, định
hướng phát triển, chưa thực sự trở thành phương pháp luận chung cho hoạt động thực tiễn.

2.2.3. Phương hướng khắc phục


24

Trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng đất nước, căn bệnh kinh nghiệm, giáo điều
đã để lại những hậu quả nghiêm trọng. Sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng
bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do sai lầm trong nhận thức mà nước
ta đã áp dụng “nguyên si” mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Cụ thể, tổ chức bộ
máy của Liên Xô có bao nhiêu bộ thì bộ máy nhà nước ta cũng có bấy nhiêu bộ; họ
lựa chọn phát triển công nghiệp nặng thì nước ta cũng phát triển công nghiệp nặng.
Trong khi đó, Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp với tất cả những điều kiện vật
chất khách quan đều thuận lợi để phát triển nông nghiệp nhưng ta lại bỏ qua yếu tố
này mà chạy theo công nghiệp. Bên cạnh đó, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, ta còn xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa tất cả các thành phần kinh tế, chỉ còn kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đây chính là những biểu hiện của bệnh kinh

nghiệm, giáo điều, áp dụng lý luận mà không xem xét điều kiện thực tiễn, điều kiện
cơ sở vật chất khách quan của đất nước. Chính hạn chế này đã làm cho tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước rơi vào sự khủng hoảng. Thừa nhận khuyết
điểm, tiến hành thực hiện đường lối đổi mới mạnh mẽ trong cả tư duy và thực tiễn,
Đảng ta đã đưa đất nước thoát khỏi thời kỳ khủng hoảng, chứng minh được tính
cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy vậy,
bệnh kinh nghiệm, giáo điều vẫn còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nó đang có những chuyển biến mới làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công
việc. Do đó, đẩy lùi những căn bệnh này vẫn là yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với
công tác lý luận. Vì vậy, trong hoạt động lý luận, hoạt động thực tiễn cần tuân thủ
những yêu cầu cơ bản sau:
Một là, tuân thủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận
thức và hành động. Bởi vì “Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành
cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như
không có tên" (Hồ Chí Minh, 2002, t.5, tr. 235). Do đó, người cán bộ, đảng viên
muốn không sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, nhất định phải cần có lý luận soi đường,
chỉ đạo và hướng dẫn; còn khi họ đã có lý luận dẫn đường cũng rất cần phải dựa
trên cơ sở thực tiễn, phải luôn liên hệ với thực tiễn, để tránh sa vào giáo điều.


25

Hai là, thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận. Mục đích của học tập lý luận
nhằm nâng cao trình độ tư duy , chống giáo điều, tăng tính thực tiễn trong học tập lý
luận, “Chúng ta phải cố gắng theo kịp các sự kiện xảy ra, tổng kết lại, rút ra kết luận… Chúng ta
phải làm công việc thường xuyên của các nhà chính luận - viết lịch sử hiện đại và cố gắng viết như
thế nào để trang sử do chúng ta viết ra có thể giúp đỡ đắc lực cho những người trực tiếp tham gia
phong trào” (V. I. Lênin, t9, tr. 258) - đó mới là nhiệm vụ cần làm của một nhà lý luận chân chính.
Hồ Chi Minh cũng đã rất nhiều lần phê phán việc học tập không gắn liền với thực tiễn, kiểu học
vẹt, học thuộc lòng từng câu, từng chữ mà không nắm được bản chất, cốt cách của vấn đề. Do đó,

hiện nay việc học tập lý luận phải gắn liền với thực tiễn công tác, thực tiễn đất nước, quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong cả nhận thức và hành động.

Ba là, vận dụng lý luận một cách sáng tạo và hiệu quả vào thực tiễn. Học tập lý
luận cốt là vận dụng vào thực tiễn, phục vụ cải tạo thực tiễn, nếu không sẽ trở nên
giáo điều về lý luận. Vận dụng ở đây không đơn giản là dùng những kiến thức lý
luận đã học để áp dụng nguyên si vào thực tiễn mà phải đem những điều học được
để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể trong công tác của bản thân mình và
của Đảng, như vậy thì việc nghiên cứu, học tập, vận dụng lý luận mới có hiệu quả.
Khi đem những kiến thức lý luận áp dụng vào thực tiễn phải phân tích những điều
kiện cụ thể của thực tiễn để lựa chọn lý luận nào và kinh nghiệm thực tiễn nào vào
cải tạo thực tiễn.
Bốn là, thường xuyên tổng kết kinh nghiệm. Tổng kết kinh nghiệm là cách thức
bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận, làm giàu tri thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu quả công tác “… công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại,
chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết
luận đó sẽ là cái thìa khoá phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới” (Hồ
Chí Minh, 2002, tr. 243). Người nhấn mạnh: “… cần phải nghiên cứu kinh nghiệm
cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ,
làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm” (Hồ Chí Minh, 2002, tr. 511). Đó chính là quá
trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện,


×