Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm nâng cao ý thức rèn luyện đạo đức và kĩ năng sống cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.99 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT MƯỜNG LÁT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO Ý THỨC
RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC VÀ KĨ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT MƯỜNG LÁT

Người thực hiện: Quách Thị Trang
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
Đơn vị công tác: trường THPT Mường Lát
SKKN thuộc lĩnh vực: chủ nhiệm

Mường Lát, tháng 5 năm 2019
1


MỤC LỤC
Trang
1.Mở đầu..................................................................................................................................... . 2
1.1.Lí do chọn đề tài......................................................................................................... 2
1.2.Mục đích nghiên cứu................................................................................................ 2
1.3.Đối tượng nghiên cứu............................................................................................... 3
1.4.Phương pháo nghiên cứu........................................................................................ 3
2.Nội dung sáng kiến.............................................................................................................. 3
2.1.Cơ sở lí luận của đề tài............................................................................................. 3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi nghiên cứu........................................................ 7
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giáo dục đạo đức, nâng cao kĩ năng
sống cho học sinh ở trường THPT Mường Lát................................................................... 8
3. Kết luận, kiến nghị.......................................................................................................... 13


Tài liệu tham khảo............................................................................................................ 14

1


MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO Ý THỨC RÈN LUYỆN ĐẠO
ĐỨC VÀ KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
MƯỜNG LÁT
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Những năm gần đây, người ta nói nhiều đến các giá trị đạo đức trong xã
hội, đặc biệ là sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Kinh tế ngày càng phát triển thì
nhiều biểu hiện tiêu cực của đạo đức xã hội càng được bộc lộ. Từ thành thị đến
nông thôn, từ miền ngược đến miền xuôi, từ các cơ quan đến trường học thường
xuyên có những phản ánh về những sự việc thể hiện sự xuống cấp của đạo đức
– một vấn đề đáng buồn và đáng lên án của xã hội. Rồi người ta thường đổ lỗi
hết cho nhà trường, cho giáo dục mà không hiểu được rằng vấn đề giáo dục đạo
đức, tạo kĩ năng sống cho mỗi con người phải bắt đầu từ gia đình, từ các mối
quan hệ cộng đồng, xã hội mà trường học chỉ là một phần trong số đó. Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, Người cũng đã chỉ ra rằng, “Con người cần có đạo đức”,
“Đạo đức được nhận diện từ môi trường gia đình, công sở, xã hội; trong các
mối quan hệ với mình, với người, với việc”.
Trường THPT Mường Lát là một trường thuộc vùng đặc biệt khó khăn
của tỉnh Thanh Hóa và của cả nước. Học sinh ở đây phần lớn là con em đồng
bào dân tộc ít người, bản tính thường e dè, nhút nhát, thật thà, chất phác. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, khi mà nền kinh tế phát triển hơn, thu nhập
của đồng bào cũng cao hơn, giao thông phát triển, đường sá đi lại thuận tiện hơn
thì cũng nhiều vấn đề về đạo đức nảy sinh trong nhà trường như học sinh ứng
xử thiếu văn hóa, vô lễ với giáo viên, nhân viên nhà trường, gây gổ đánh nhau,
thờ ơ, vô cảm đứng ngoài sự việc…

Đứng trước thực trạng trên, là một giáo viên chủ nhiệm nhiều năm, tôi
luôn mong muốn mỗi học sinh sau khi rời ghế nhà trường phải trở thành người
công dân tốt, một người có ích cho xã hội, vừa có tài nhưng phải vừa có đức. Vì
vậy, tôi chọn đề tài “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO Ý THỨC
RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC VÀ KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH Ở
TRƯỜNG THPT MƯỜNG LÁT” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đạo đức là một khái niệm cũ, kĩ năng sống là một khái niệm mới hơn.
Tuy nhiên trên thực tế hàng ngày mỗi người đã, đang đều hành động để thể hiện
nó. Nhưng để nhận thức đầy đủ về đạo đức, kĩ năng sống cần thiết thì không
phải ai cũng hiểu hết, đặc biệt là thế hệ trẻ lứa tuổi THPT, lứa tuổi đang có
những thay đổi quan trọng về tâm sinh lí, lứa tuổi của những “bộn bề” lo toan
chuẩn bị bước vào đời. Nghiên cứu vấn đề này, tôi mong muốn biết được những
2


nhận thức của học sinh về vấn đề đạo đức, đạo đức xã hội và kĩ năng sống hiện
nay, từ đó để có những biện pháp hướng dẫn, điều chỉnh những hành vi của các
em từ xa theo đúng chuẩn mực xã hội, phù hợp với lợi ích của cộng đồng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp chủ nhiệm.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập, xử lí thông tin.
Phương pháp điều tra.
Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, xử lí thông tin.
Phương pháp thống kê.
2. Nội dung sáng kiến
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài.
2.1.1. Đạo đức xã hội là gì?
Đạo đức là một từ Hán Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố

trong tính cách và giá trị của một con người. Đạo là con đường, đức là tính tốt
hoặc những công trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó
có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét
đẹp trong đời sống và tâm hồn.[1]
Đạo đức có thể được nhìn thấy theo các góc độ sau:
Nghĩa hẹp: Đạo đức thể hiện nét đẹp trong phong cách sống của một
người hiểu biết và rèn luyện ý chí theo các bậc tiền nhân về các quy tắc ứng xử,
các đường lối tư duy thanh tao tốt đẹp.[2]
Nghĩa rộng hơn: Nghĩa rộng hơn, đạo đức trong một cộng đồng thể hiện
qua những quy tắc ứng xử được áp dụng từ việc hợp với đạo lý xưa nay và
phong tục của địa phương, cộng đồng đó. Tạo thành nét đẹp truyền thống văn
hóa.[2]
Nghĩa rộng: Đạo đức của cả một xã hội thường được xét đến khi xã hội
đó bị hỗn loạn và thiếu chuẩn mực. Khi đó những bậc trí giả sẽ định ra những
chuẩn mực cơ bản nhất để tạo dựng nên nền tảng đạo đức. Khi đã đạt đạo đức
cơ bản nhất thì đó là đạo đức xã hội. Từ đó học tập đi lên thành các thành phần
cao cấp hơn.[2]
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai
trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu “Là hệ thống
các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình cho phù họp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội” .[3]
Ngày nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế,
các quy tắc, chuẩn mực của đạo đức dần biến đổi. Tuy nhiên, điều này không
đồng nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các giá trị
3


đạo đức mới. Các giá trị đạo đức ở Việt Nam hiện nay là sự kết hợp sâu sắc
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại, của
nhân loại. Đó là tinh thần cần cù, sáng tạo, yêu lao động; tình yêu quê hương,

đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sống và làm việc theo hiến pháp và pháp
luật, có lối sống văn minh, lành mạnh; có tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc
tế cao cả.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội có cấu trúc phức tạp, bao gồm: ý thức
đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức.
Ý thức đạo đức: “Là ý thức về hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực
hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó
còn bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người”. Với
tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận
thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống
chuẩn mực hành vi và những quy tắc đạo đức xã hội đặt ra; qua đó giúp con
người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự giác, tự nguyện
những nghĩa vụ đạo đức. Về mặt cấu trúc, ý thức đạo đức gồm tình cảm đạo
đức, tri thức đạo đức, lý tưởng đạo đức, ý chí đạo đức. Trong đó, tình cảm thể
hiện cảm xúc của con người trước hiện tượng đạo đức, tri thức đạo đức giúp con
người lựa chọn cái gì nên làm và cái gì không nên làm; lý tưởng đạo đức quyết
định phương hướng, mục đích hoạt động của con người và ý thức đạo đức là
sức mạnh tinh thần giúp con người vượt qua khó khăn, trở ngại để thực hiện
hành vi đạo đức.[1]
Hành vi đạo đức: “Là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động
cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức” . Cụ thể hơn, hành vi đạo đức là những cử chỉ,
những việc làm của con người trong các mối quan hệ xã hội phù hợp với ý thức
đạo đức, với các chuẩn mực và các giá trị đạo đức.[1]
Để phân biệt một hành vi đạo đức hay phi đạo đức, không chỉ căn cứ vào
kết quả của hành vi mà còn phải căn cứ vào động cơ của hành vi. Hành vi đạo
đức phải có nguyên nhân vì lợi ích của người khác, của xã hội và mục đích cũng
là mang lại lợi ích cho người khác, cho xã hội.[1]
Quan hệ đạo đức: Là hệ thống những quan hệ xã hội, tác động qua lại
giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội xét về mặt đạo đức. Quan hệ đạo
đức vận động, biến đổi theo quá trình phát triển của xã hội, trong phạm vi một

hình thái kinh tế - xã hội hay hệ giá trị đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận
động, phát triển. Quan hệ đạo đức có các đặc tính là tính tự giác và tính tự
nguyện. Tính tự giác thể hiện ở sự nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của bản
thân mỗi người trong những tình huống cụ thể khi tham gia vào quan hệ đạo
4


đức. Tính tự nguyện thể hiện ở nhu cầu và ham muốn của bản thân mỗi người
trong việc quan tâm, tương trợ, giúp đỡ người khác...[1]
Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức là những yếu tố cấu
tạo nên cấu trúc đạo đức, không tồn tại độc lập, mà có quan hệ biện chứng với
nhau.
Đạo đức có chức năng giáo dục, điều chỉnh hành vi và nhận thức.
- Chức năng giáo dục: Thông qua giáo dục đạo đức góp phần hình thành
những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức
trong từng con người cụ thể; giúp con người xác lập khả năng lựa chọn, đánh
giá các hiện tuợng xã hội. Trên cơ sở ấy, con người tự xem xét, đánh giá được tư
cách, ý thức và hành vi của bản thân. Nói cách khác, chức năng giáo dục của
đạo đức chính là làm giàu thêm “tính người” cho mỗi con người, được thực hiện
thông qua quá trình giáo dục của xã hội và tự giác của mỗi cá nhân.[1]
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Đây là chức năng quan trọng nhất,
nhưng đó không phải là đặc quyền của đạo đức, bởi trong xã hội, con người tạo
ra rất nhiều phương thức điều chỉnh hành vi của mình như: pháp luật, hương
ước, quy ước, nội quy... Mục đích điều chỉnh hành vi của đạo đức nhằm bảo
đảm hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân.[1]
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện chủ yếu bằng
hai phương thức: Một là, sử dụng sức mạnh của dư luận để động viên, khuyến
khích những chủ thể có đạo đức và hành vi tốt đẹp, đồng thời, phê phán, lên án
nghiêm khắc những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến người khác, đến cộng
đồng; Hai là, bản thân chủ thể đạo đức phải tự nguyện, tự giác điều chỉnh hành

vi của mình trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức của xã hội.[1]
- Chức năng nhận thức: Chức năng nhận thức của đạo đức bao gồm nhận
thức và tự nhận thức, bởi nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng nội vừa
hướng ngoại. Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đạo đức
xã hội làm đối tượng, là quá trình cá nhân đánh giá, tiếp thu hệ thống những
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội. Tự nhận thức là quá trình tự đánh
giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi đạo đức của mình với
chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Bằng hai quá trình nhận thức ấy con
người đi đến sự nhận biết, phân biệt những giá trị: đúng - sai, tốt - xấu, thiện ác... hướng tới giá trị bao quát chân, thiện, mỹ. Từ nhận thức này, chủ thể hình
thành và phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống của mình.[1]
Ba chức năng của đạo đức có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự vận hành của
chức năng này là tiền đề, điều kiện của sự vận hành chức năng khác. Từ đó, con
người mới có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã
5


hội cũng như tự đánh giá những suy nghĩ, những hành vi của bản thân để điều
chỉnh hành vi theo đúng chuẩn mực đạo đức xã hội.[1]
Lịch sử xã hội loài người đã khẳng định tầm quan trọng của đạo đức
trong quá trình tổ chức thiết lập, duy trì trật tự, ổn định và phát triển xã hội. Tùy
theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội mà sự tác động của đạo đức đến cá nhân
và xã hội có khác nhau. Vai trò của đạo đức được thể hiện như sau:[1]
- Đạo đức là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi
con người, một sự điều chỉnh hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không vụ lợi trong
một phạm vi rộng lớn.
- Đạo đức góp phần nhân đạo hóa con người và xã hội loài người, giúp
con người sống thiện, sống có ích.
- Đạo đức thể hiện bản sắc dân tộc trong quan hệ quốc tế, là cơ sở để mở
rộng giao lưu giữa các giá trị văn hóa của dân tộc, quốc gia với các dân tộc,
quốc gia khác.

- Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.2. Giáo dục kĩ năng sống
Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho
phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống
hàng ngày; nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Đó là tập hợp các kỹ năng
mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực tiếp được dùng để xử
lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con người. Các chủ đề rất đa
dạng tùy thuộc vào chuẩn mực xã hội và mong đợi của cộng đồng. Kỹ năng
sống có chức năng đem lại hạnh phúc và hỗ trợ các cá nhân trở thành người tích
cực và có ích cho cộng đồng.[4]
Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình tác động sư phạm có mục đích,
có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến
thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội,
thực hiện công việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống
hàng ngày…Kỹ năng sống được hình thành theo nhiều cách khác nhau, tùy vào
môi trường sống và giáo dục…[4]
Theo một số nghiên cứu cho thấy, các kỹ năng sống khác nhau theo địa
lý, thời gian…ví dụ như trẻ em vùng biển thì có một số kỹ năng sống khác với
trẻ em vùng núi, kỹ năng sống của trẻ em thành phố khác với kỹ năng sống trẻ
em nông thôn, kỹ năng sống của trẻ em ngày xưa khác với kỹ năng sống trẻ em
bây giờ… Tuy nhiên có thể thấy rất rõ ràng là kỹ năng sống luôn gắn bó với các
giá trị. Các giá trị sống đúng đắn là kết tinh được truyền lại như sự tôn trọng,
sống trách nhiệm, yêu thương, sự tự tin, sự sáng tạo, lòng ham hiểu biết… các
6


giá trị này được truyền lại nhằm giáo dục giúp cho con người sống có chuẩn
mực và góp phần vào sự tiến bộ của xã hội. Kỹ năng sống thúc đẩy sự phát triển
cá nhân, cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống và giúp cho con người xây

dựng một xã hội có văn hóa. Các kỹ năng sống có được thông qua rèn luyện. Kỹ
năng sống chỉ được hình thành thông qua giáo dục, đào tạo và rèn luyện. Các kỹ
năng sống có liên quan và hỗ trợ cho nhau. Ví dụ: kỹ năng tư duy sáng tạo giúp
cho con người tăng khả năng giải quyết vấn đề và đưa ra các quyết định.Giáo
dục kỹ năng sống là rất quan trọng và cần thiết cho trẻ nhỏ. Giáo dục kỹ năng
sống giúp cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ,
tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để trẻ tự tin bước vào giai đoạn tiểu học.
[4]
– Về thể chất: giáo dục kỹ năng sống giúp cho học sinh tăng cường thể
chất, sự kiên trì, bền bỉ, tháo vát… thông qua các bài học và các hoạt động vận
động trong quá trình dạy kỹ năng sống. học sinh sẽ được rèn luyện sự dẻo dai,
khéo léo, kiên trì, giúp cho các em nhanh thích ứng với các điều kiện sống thay
đổi.
– Về tình cảm: giáo dục kỹ năng sống giúp học sinh biết lắng nghe, chia
sẻ, sống có trách nhiệm, biết yêu thương, biết ơn công lao của cha mẹ.
– Về giao tiếp - ngôn ngữ: giáo dục kỹ năng sống cho học sinh giúp học
sinh tự tin, giao tiếp hiệu quả, đặc biệt rèn luyện cho các em biết lắng nghe, nói
chuyện lễ phép, hòa nhã.
– Về nhận thức: giáo dục kỹ năng sống giúp cho học sinh có một nền
tảng kiến thức, ham mê hiểu biết, khám phá, xây dựng cho học sinh niềm ham
mê học tập suốt đời.
Giáo dục kỹ năng sống giúp học sinh có bước đệm chuẩn bị sẵn sàng cho
giai đoạn trưởng thành bước vào môi trường học tập hoặc làm việc mới.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi nghiên cứu
Trường THPT Mường Lát là trường THPT duy nhất trên địa bàn huyện.
So với các huyện khác trong tỉnh, số lượng học sinh THPT còn ít nhưng học
sinh là người dân tộc thiểu số chiếm trên 90%. Các em là người các dân tộc
Mông, Thái, Dao, Khơ Mú, Mường và Kinh. Vì điều kiện đường sá đi lại khó
khăn nên phần lớn các em xuống trường đi học phải ở trọ lại trong khu kí túc
xá, làng học sinh của nhà trường, một số phải thuê trọ ở nhà dân. Học sinh lớp

chủ nhiệm của tôi cũng không ngoại lệ.
Những năm gần đây, kinh tế - xã hội của địa phương cũng có những
chuyển biến tốt, mặt khác Nhà nước cũng có nhiều chính sách hỗ trợ đối với
7


học sinh vùng cao nên điều kiện học tập của các em cũng bớt đi phần nào khó
khăn.
Khi được phân công chủ nhiệm cách đây 3 năm, tôi nhận lớp với nhiều
cái “hơn” so với các lớp khác: có nhiều dân tộc hơn gồm dân tộc Mông, Dao,
Thái và đặc biệt số lượng học sinh người dân tộc Kinh nhiều nhất (11 em); là
lớp duy nhất trong toàn khối có học sinh là người Kinh nên cũng là lớp năng
động nhất, học tập sôi nổi mạnh dạn nhất nhưng cũng là lớp được đánh giá là
“nghịch” nhất. Do đó, sau một thời gian làm quen với nhau trong lớp, sau sự bỡ
ngỡ của những ngày đầu bước chân vào trường cấp 3, các em đã nhanh chóng
hòa nhập được vào một môi trường mới. Song cũng từ đó các em cũng bộc lộ
một số thói hư, tật xấu, sự yếu kém trong kĩ năng sống như còn có trường hợp
vô lễ với giáo viên, tình trạng vi phạm nội quy còn thường xuyên diễn ra…Một
số học sinh người Kinh còn có thái độ “coi thường” bạn bè người dân tộc về
khả năng tiếp thu bài, về tính cách rụt rè, nhút nhát. Một số học sinh trong lớp
bị các bạn chế nhạo, trêu đùa quá trớn nhưng không dám nói ra, không dám
phản kháng dẫn đến tình trạng nội bộ lớp mất đoàn kết, chia bè, kết phái. Cũng
vì những hành vi chưa đúng mực mà xếp loại hạnh kiểm cuối năm của lớp tỉ lệ
học sinh có hạnh kiểm khá còn cao (7/44 HS chiếm 15,9%).
2.3. Các biện pháp đã sự dụng để giáo dục đạo đức, nâng cao kĩ năng
sống cho học sinh trong lớp
2.3.1. GVCN chủ động làm “bạn”, chia sẻ với học sinh trong lớp
GVCN là người thường xuyên theo sát lớp chủ nhiệm trên mọi hoạt động,
đồng thời phải nắm rõ tâm lí lứa tuổi của tuổi THPT: lứa tuổi muốn thể hiện
mình là người lớn nhưn tâm sinh lí chưa hoàn thiện, chưa được người lớn công

nhận nên hay gọi là cái tuổi “dở ông dở thằng”. GVCN phải nhạy bén trong việc
nắm bắt tâm lí học sinh bằng việc thường xuyên bám lớp, theo dõi các hoạt
động của học sinh, nắm bắt những thay đổi nhỏ nhất trọng tâm lí của mỗi học
sinh từ đó có biện pháp giúp các em có thể mở lòng tâm sự để có hướng khắc
phục, giải quyết một cách tích cực nhất. Bởi ở lứa tuổi này, các em rất dễ bị tổn
thương tâm lí khi áp lực học hành, áp lực từ cuộc sống mưu sinh, đặc biệt khi
mà học sinh ở trường THPT Mường Lát cũng như học sinh lớp tôi chủ nhiệm
nhiều em đã là trụ cột gia đình. Chẳng hạn như có trường hợp một học sinh
trong lớp ngày thường lúc nào cũng tươi cười, năng động, nhưng có một thời
gian em ít nói hẳn, đến lớp chỉ ngồi một góc, đôi mắt tỏ vẻ buồn và lo lắng.
Quan sát thấy trong nhiều ngày liên tục, tôi nhận thấy có điều không ổn, vì vậy
tôi đã gặp riêng em và hỏi chuyện. Lúc đầu em chỉ trả lời không có gì, nhưng
sau vài câu hỏi thăm, động viên, em đã khóc và kể lại chuyện gia đình. Khi đã
có được thông tin, tôi đã cố gắng trấn an em rồi động viên em để em hiểu được
8


rằng đó là chuyện người lớn, và cuộc sống này những chuyện như vậy với
người lớn là rất bình thường, rồi nó sẽ qua đi vì họ còn có em, họ sẽ không để
em phải lo lắng. Không biết cô bé hiểu được bao nhiêu nhưng ngay ngày hôm
sao em trở lại là chính em, hồn nhiên và vui vẻ. Còn nhớ có một học sinh nữ khi
học được hơn một học kì thì em làm đơn gửi đến GVCN xin chuyển lớp, lí do là
thường xuyên bị một nhóm bạn nam chọc ghẹo vì hoàn cảnh gia đình. Sau khi
tìm hiểu sự việc, GVCN đã gặp riêng học sinh nữ, rồi gặp riêng nhóm học sinh
nam, phân tích cho các em hiểu mỗi gia đình một hoàn cảnh, không ai hoàn hảo
cả, những người thiệt thòi như bạn đáng để cho chúng ta yêu thương nhiều hơn
là châm chọc. Sau một thời gian thấy các em cũng dần thay đổi. Giờ đây các em
lại thành những người bạn thân, học sinh nữ trước đây rất trầm trong các hoạt
động thì giờ đây em đã sôi nổi hơn nhiều và còn mạnh dạn cả trong việc học bài
cũ và xây dựng bài mới ở trong lớp.

Những vấn đề trong cuộc sống nhiều khi rất khó nói ra nhất là nơi đông
người như lớp học nên GVCN cần có óc quan sát, phán đoán giúp nhận ra
những thay đổi nhỏ nhất trong tâm lí của các em và cùng các em tìm hướng giải
quyết. Bên cạnh đó, GVCN cũng cần nghiêm khắc, có hình hức xử lí kịp thời
những học sinh thường xuyên vi phạm sao cho các em nhận ra lỗi sai của mình
để sửa chữa mà không cảm thấy mình bị “oan” hay cô và các bạn “quá đáng”
với mình.
2.3.2. Tổ chức những buổi sinh hoạt chung ngoài giờ
Đây là những hoạt động mà GVCN nên tổ chức để cho học sinh có những
trải nghiệm thực tế thú vị vì phần lớn học sinh ở đây sống xa gia đình, thiếu sự
quan tâm chỉ dạy thường xuyên của bố mẹ. Theo tôi nhận thấy, các buổi sinh
hoạt lớp dù có thay đổi chủ đề hàng tuần thì nhiều học sinh vẫn cảm thấy nhàm
chán vì đó vẫn là không gian lớp học hằng ngày. Các bạn vẫn ngồi các vị rí ấy,
vẫn là cô đấy, trò đấy. Việc sinh hoạt chung ngoài buổi sinh hoạt lớp như tổ
chức đi dã ngoại gần trường, đi thăm gia đình học sinh … sẽ giúp các em có cái
nhìn khách quan hơn về cuộc sống xung quanh, về thiên nhiên ở địa phương…
từ đó phần nào có sự liên hệ thực tế từ trong bài học, nhất là những môn như
Địa lí mà tôi đang giảng dạy. Bên cạnh đấy, các em cũng phần nào hiểu hơn về
cuộc sống người dân địa phương để có cái nhìn cảm thông, chia sẻ với các bạn
cùng lớp, vì học sinh lớp tôi chủ nhiệm nói riêng và học sinh của nhà trường nói
chung có nhiều cái khó mà không phải ai cũng hiểu. Chỉ khi đi đến với các em
chúng ta mới có thể cảm thông được hết nỗi vất vả mà các em phải chịu đựng.
Có những chuyến đi bản vận động học sinh trở lại lớp, về đến trường nhiều học
sinh ở thị trấn và một số thầy cô đã phải thốt lên “các bạn đi học được cũng là kì
tích rồi”. Cũng sau những chuyến đi ấy, các em có những hoạt động chung,
9


đôi khi chỉ là giúp nhau vượt qua con dốc hay dạy nhau cách làm một món ăn…
mà các em trở nên gần gũi nhau hơn. Từ chỗ chơi theo nhóm hay phân biệt này

kia thì giờ là bạn, ai cũng có thể nói chuyện được với nhau, chia sẻ với nhau, có
vấn đề gì khúc mắc là tìm ngay đến GVCN. Những điều tưởng như đơn giản đã
làm thay đổi lớn sự suy nghĩ của nhiều học sinh. Nằm ở vùng kinh tế đặc biệt
khó khăn, hàng năm học sinh nhà trường nhận được sự quan tâm rất lớn của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là những suất học bổng, suất quà cho học
sinh nghèo vượt khó. Trước đây, mỗi khi có những sự kiện này, các học sinh
người Kinh hoặc một số học sinh gần thị trấn thường hỏi GVCN “sao chỉ các
bạn ấy được còn chúng em thì không trong khi lực học như nhau”. Nhưng từ
sau những chuyến đi thì câu hỏi này không còn được nhắc lại nữa mà thay vào
đó mỗi lần được hỏi “lớp xét cho cô một số bạn nhận học bổng hoặc quà đợt
này” thì ngay lập tức nhóm học sinh này giới thiệu các bạn mình và đồng ý tối
đa, cũng có khi có những học sinh nằm trong diện được xét học bổng nhưng từ
chối nhận nhường cho bạn khác điểm thấp hơn một chút với lí do bạn đã rất cố
gắng và gia đình bạn cũng còn nhiều khó khăn.
Tinh thần đoàn kết phải được xây dựng bên cạnh tính kỉ luật là tình yêu thương,
sự cảm thông, chia sẻ thực sự. Để làm được điều này GVCN cần là người định
hướng bằng nhiều hoạt động cụ thể, thiết thực. 2.3.3. Chia tổ nhóm với các hoạt
động chung
Việc thường xuyên chia nhóm trong các hoạt động giúp các em có cơ hội
tiếp xúc nhiều hơn với bạn bè trong lớp. Chia nhóm ở đây không cố định giống
như chia tổ theo sơ đồ lớp. Phụ thuộc vào mỗi hoạt động, GVCN có thể chia
nhóm cho phù hợp. Ví dụ chia nhóm theo dân tộc khi sinh hoạt về chủ đề những
hiểu biết về các dân tộc bạn đang sinh sống ở Mường Lát; chia nhóm theo giới
khi sinh hoạt về chủ đề chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên; chia nhóm
trong hoạt động thể thao như nhóm vận động viên, nhóm cổ động viên kiêm
phục vụ…
Sự tráo đổi liên tiếp vai trò của mỗi học sinh trong nhóm làm cho học
sinh thấy mình đều được hoạt động, được giao nhiệm vụ, thấy mình phải có
trách nhiệm với công việc. Trong mỗi vai trò, học sinh sẽ gắn kết mình với
nhóm bạn tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau, tăng tính đoàn kết trọng nội bộ lớp.

2.3.4. Chia sẻ gương người tốt, việc tốt
Cùng với sự phát triển của kinh tế, và đặc biệt những năm gần đây là sự
bùng nổ của mạng xã hội faecbook, mọi thông tin được cập nhật nhanh hơn,
nhưng dường như thế hệ trẻ lại ít quan tâm hơn đến các vấn đề mang tính thời
sự- xã hội mà thường “sống ảo”. Nhiều lúc các em thần tượng những hiện tượng
hoặc những con người không đúng chuẩn mực xã hội. Vì thế, GVCN phải là
10


người thường xuyên quan tâm giáo dục cho học sinh tình yêu thương, sự cảm
thông, chia sẻ thông qua những ví dụ cụ thể, một trong những chương trình
hướng tới điều này là chương trình “Cặp lá yêu thương” của VTV1 Đài truyền
hình Việt Nam, bên cạnh đó là những tấm gương sáng về đạo đức và kĩ năng
ứng xử trong cuốc sống của thầy cô, bạn bè trong trường hay trong khu dân cư
mà GVCN biết được. Những câu chuyện giản dị đời thường nhưng nó có sức
lay động lớn vì các em còn trẻ, các em còn í trải nghiệm. Ví như câu chuyện về
một người thầy giáo trẻ đã từng dạy ở ngôi trường này mà GVCN đã từng kể
cho các em nghe. Thầy là người dân tộc Thái, người bản địa, tính tình hiền lành,
hòa đồng với đồng nghiệp, yêu thương học sinh nhưng đã mất vì tai nạn giao
thông. Đó là ấn tượng của tôi về người đồng nghiệp ấy. Có một lần cách đây đã
nhiều năm, sau khi nhận tháng lương đầu tiên, thầy đã mua tặng mẹ mình một
cái áo. Khi mang về thầy bắt mẹ thử bằng được ( vì bà cũng ngại- bản tính của
người phụ nữ Thái xưa) và thầy hỏi mẹ mình có thích không, có đẹp không. Bà
rất cảm động. Một sự quan tâm rất nhỏ và đời thường nhưng không phải ai cũng
làm được, nhất là với con trai. Hay như hình ảnh mà tôi đã nhìn thấy trong một
lần đưa con đi học. Đó là một ông cụ mắc bệnh tâm thần. Hàng ngày ông lang
thang khắp thị trấn nhưng không hại ai bao giờ. Rồi hôm đó như bao hôm khác,
ông đang lang thang trên con đường quen thuộc, rồi ông bỗng dừng lại trước
một ngôi nhà, tôi thấy ông cúi xuống rồi ông nhặt một cái áo bị rơi xuống đất và
phơi lại ngay ngắn cho một gia đình. Một việc làm nhỏ nhưng của một người

tâm thần để các em tự suy ngẫm.
Tôi muốn học sinh rèn luyện ý thức từ những điều nhỏ nhất là sự quan
tâm với những người ruột thịt trong gia đình. Chẳng hạn như việc nhận trợ cấp
(phần lớn các em có hỗ trợ của nhà nước khi đi học vì khoảng cách đến trường
xa, đường sá đi lại khó khăn), ngoài việc chi phí cho ăn ở, học tập các em có thể
tiết kiệm để hỗ trợ gia đình vì dù sao các em vẫn còn nhiều may mắn và còn
thuận lợi hơn nhiều bạn học sinh khác ở vùng cao Hà Giang mà các em đã được
xem qua TV… Tôi muốn các em thần tượng chính những người đã cho các em
cuộc sống, đã vì các em mà hi sinh, đó là bố mẹ, gia đình và những người thân.
2.3.5. Thường xuyên động viên học sinh tham gia các hoạt động tình
nguyện, thiện nguyện
Là một trường học nằm trên địa bàn kinh tế đặc biệt khó khăn của tỉnh
nên luôn nhận được sự quan tâm của các cấp chính quyền, các tổ chức, cá nhân.
Học sinh đi học phần lớn nhận được trợ cấp tiền, gạo của nhà nước (60%). Bên
cạnh đó, vào các dịp lễ tết, nhiều tổ chức, cá nhân cũng hỗ trợ học sinh những
phần quà, những suất học bổng có giá trị. Cùng với sự phát triển kinh tế của của
địa phương, học sinh cũng bớt đi phần khó khăn.
11


Mặc dù vẫn còn khó khăn, song so với 10 năm trước, khi tôi mới bước
chân lên Mường Lát, thì điều kiện học tập của các em học sinh giờ đã khá hơn
nhiều. Do đó, bên cạnh việc “nhận” tôi cũng khuyến khích, động viên các em
học sinh trong lớp “cho” như một sự học cách chia sẻ để học sinh có thể cảm
nhận, cảm thông, chia sẻ với những người xung quanh, với xã hội, tránh thái độ
thờ ơ, vô cảm mà xã hội gần đây thường lo lắng về thế hệ trẻ. Tôi hướng các em
vào các hoạt động như hưởng ứng ngày chủ nhật xanh, cùng với đoàn trường
dọn vệ sinh khu phố nơi đóng chân của trường, cùng các thầy cô giúp các đơn
vị bạn khắc phục hậu quả sau các đợt mưa lũ,…Bên cạnh các hoạt động tình
nguyện, GVCN cũng hướng các em đến các hoạt động thiện nguyện như với

tinh thần “lá lành đùm lá rách”, “lá rách ít đùm lá rách nhiều”, GVCN kêu gọi
học sinh trong lớp tìm ra những hoàn cảnh còn khó khăn cần sự giúp đỡ ngay
trong lớp, trong trường để chia sẻ, giúp đỡ. Trong suốt 2 năm học, học sinh
trong lớp đã quyên góp được hàng triệu đồng giúp các bạn trong lớp, trong
trường, đồng bào gặp thiên tai… Số tiền mà các em quyên góp được tuy còn ít
ỏi nhưng nó được chắt chiu, tiết kiệm từ những sinh hoạt hàng ngày của mình
với mong muốn được chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn hơn mình.
2.4.Hiệu quả của sáng kiến
Sau 2 năm làm chủ nhiệm lớp, áp dụng các biện pháp này trong quá trình
giáo dục học sinh tôi thấy có những chuyển biến tích cực. Học sinh trong lớp
đoàn kết hơn, hợp tác với nhau nhiều, tích cực và hiệu quả. Một số học sinh
trước đây sống khép kín thì giờ đã cởi mở hơn với bạn bè; không còn có sự
phân biệt giữa người Keo (Kinh) với “tộc”, đặc biệt, một số học sinh người dân
tộc đã khiến các bạn phải nể phục vì sự cố gắng vượt khó để học tập.
Trong các hoạt động, các em cũng đã chủ động hơn. Chẳng hạn trong lần
nhà trường phát động chia khó với các địa phương trong huyện thì ban cán sự
lớp đã nhanh chóng kêu gọi sự đóng góp của các bạn và chủ động nộp lên trên
không để GVCN phải nhắc nhở. Tình trạng trông chờ, ỉ lại vào chính sách nhà
nước đã giảm đáng kể. Một số em đã tự tìm thêm việc làm ngoài giờ lên lớp để
trang trải cuộc sống và học tập, giảm bớt gánh nặng cho bố mẹ; khoản tiền trợ
cấp cũng được các em sử dụng hiệu quả hơn vào việc học tập; cách ứng xử với
thầy cô, bạn bè có nhiều tiến bộ, nhất là trong cách xưng hô, chào hỏi, không có
tình trạng vô lễ với thầy cô; xếp loại hạnh kiểm cuối năm có thay đổi rõ rệt:
năm học 2016-2017, có 7/35 học sinh xếp loại hạnh kiểm khá, đến cuối năm
học 2017-2018 không có học sinh nào bị xếp loại hạnh kiểm khá.
3. Kết luận và kiến nghị
Đạo đức, kĩ năng sống không phải là cái gì đó rất xa xôi nhưng cũng
không phải vấn đề tầm thường để chúng ta coi nhẹ. Đạo đức nó đơn giản chỉ là
12



cách ứng xử giữa con người với con người theo những quy tắc, chuẩn mực xã
hội, nó hướng con người đến những hành động phù hợp với lợi ích của cộng
đồng, xã hội. Giai đoạn hiện nay, khi mà sự bùng nổ của công nghệ thông tin
ảnh hưởng không nhỏ đến tính cách, giá trị của một con người thì việc giáo dục
đạo đức, kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất quan trọng, nhất là khi mạng xã hội
đang là trào lưu để thế hệ trẻ thể hiện thái độ, suy nghĩ của mình.
Việc giáo dục đạo đức và kĩ năng sống cho học sinh lứa tuổi THPT là rất
cần thiết, vì như Bác Hồ đã từng nói “Có tài mà không có đức là kẻ vô dụng”.
Hiện nay, trong các nhà trường, bên cạnh những kiến thức giáo dục về đạo đức
mang tính lí thuyết thì nên có những hoạt động cụ thể cho các em trải nghiệm
để các em biết được những điều giản dị nhất như tình yêu thương, sự chia sẻ,
đồng cảm với người thân, với bạn bè và xã hội; biết được cách ứng xử với các
hiện tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội phù hợp với chuẩn mực xã hội.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Mường Lát, ngày 10 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

QUÁCH THỊ TRANG

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuyengiaohungyen.vn
2. vndoc.com.
3. Giáo dục công dân lớp 10, nxb Giáo dục VN.

4. ismartkids.vn.
5. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên, modul THPT 30: Đánh giá kết
quả rèn luyện đạo đức của học sinh THPT.
6. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên, modul THPT 31: Lập kế hoạch
công tác chủ nhiệm.
7. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên, modul THPT 32: Hoạt động của
giáo viên chủ nhiệm.
8. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên, modul THPT 33: Giải quyết tình
huống sư phạm trong công tác chủ nhiệm.
9. Giáo trình trung cấp lí luận chính trị - hành chính: Những vấn đề cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nxb lí luận chính trị - 2017.

14



×